Thiền Và Ngộ

Bài 01. Thiền Ngộ Và Tĩnh Tọa



Thiền không nhất định phải tĩnh tọa, nhưng phải có tĩnh tọa làm cơ sở.

Tĩnh tọa đối với thân tâm của chúng ta đều có lợi ích. Nó có khả năng làm cho cơ thể khỏe mạnh và làm cân bằng tâm lý, có thể khiến cho chúng ta giảm bớt chấp trước, cũng có thể làm cho đầu óc chúng ta bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn. Tiến thêm một bước nữa có thể phát sinh trí tuệ, khai mở những lĩnh vực tinh thần. Nhưng đứng trên quan điểm Thiền, nếu không có sự chỉ đạo của Phật pháp, trí tuệ do tĩnh tọa sinh ra vẫn mang tính phiền não. Do trung tâm tự ngã của người ấy vẫn còn, một khi gặp người, việc hoặc cảnh vật xung đột vào bản thân thì nội tâm của người ấy sẽ thống khổ, bứt rứt.

Tĩnh tọa phải chú ý ba việc: Điều thân, điều hơi thở và điều tâm.

Điều thân là tư thế ngồi phải chính xác, dễ chịu và chú ý những phản ứng của cơ thể trong khi tĩnh tọa.

Điều hơi thở là điều hòa hô hấp. Tùy theo định lực sâu cạn của mỗi người mà phân làm bốn lớp: Thở bằng mũi (tỷ tức), thở bằng bụng (phúc tức), thở như trong bào thai (thai tức), thở như rùa (quy tức).

Thở bằng mũi là sử dụng lỗ mũi thở ra vào tự nhiên. Thở bằng bụng là tuy không khí đi vào từ lỗ mũi nhưng không chú ý ở mũi, cũng không cảm giác là dùng mũi thở, mà chỉ có phần bụng chuyển động phồng xẹp. Thở như trong bào thai là không dùng mũi thở mà mỗi lỗ chân lông ở khắp thân đều trở thành cơ quan hô hấp. Lúc này cả đại vũ trụ tức là thai mẹ, còn tự mình là thai nhi. Thở như rùa là tự mình không cần hít thở không khí bên ngoài, thậm chí tim cũng ngừng đập, lúc này thân thể của hành giả đã tự thành một vũ trụ, khí bên trong cơ thể tự vận hành, tự cấp tự túc, không cần dưỡng khí bên ngoài cung cấp.

Còn điều tâm niệm thì sao? Thường là dùng phương pháp chỉ quán để nhiếp tâm, ngưng niệm. Sử dụng các phương pháp như: Đếm hơi thở, quán thân bất tịnh, niệm Phật, lễ bái, tĩnh tọa, mặc tưởng v.v… đều có thể đạt thành mục đích.

Mục đích chủ yếu của tĩnh tọa là tập trung tâm tán loạn làm cho nó dần dần trở thành tâm chuyên nhất. Lúc người ta đạt đến tâm chuyên nhất thường ngỡ rằng mình đã không còn tự ngã và đạt đến giai đoạn vô ngã. Thật ra đó chỉ là một tầng bậc của tĩnh tọa, hoặc là một tầng bậc của định. Chứng nghiệm về định cũng có cao thấp nên mới có sự phân chia Tứ thiền Bát định. Nhưng đều không ra ngoài phạm vi của tâm chuyên nhất, chưa đạt đến sự thực chứng của Vô tâm Không huệ.

Vậy, đứng trên góc độ ngộ Thiền của Phật giáo Trung quốc, chứng nghiệm về định không thể bằng được với Thiền định của Thiền tông.

Cái gì là Thiền định của Thiền tông? Lục Tổ Huệ Năng trong Đàn Kinh nói: “Ngoài lìa tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Định”, “không thấy phải trái, thiện ác, lỗi lầm của người”, “tiếp xúc với các thứ ngoại cảnh mà tâm không loạn”, “ở trong mỗi niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh” v.v… Do đó, Thiền định của Thiền tông là dùng trí tuệ thanh tịnh quán chiếu, không dừng ở chỗ định cảnh của tâm chuyên nhất, vì nếu trụ nơi định cảnh của tâm chuyên nhất vẫn chưa lìa được chấp trước.

Vậy theo Thiền tông, không chấp trước là gì?

Bất cứ vật gì, bất cứ việc gì, bất cứ người nào lúc xuất hiện ở trước mặt ta, tự ta sẽ không thêm bất cứ ý kiến nào, nhưng nếu chúng là cái ta cần thì chúng sẽ gây phản ứng nơi ta. Như những gì có liên quan đến cha mẹ, con cái, nam nữ, tài sản v.v… là những thứ dễ khiến chúng ta cảm nhận được sự chấp trước của trung tâm tự ngã nhất. Kế đến là danh dự và quan điểm. Đối với người tu hành, chấp trước khó hóa giải nhất là cảm nhận được mình có thành tựu về tự ngã, chứng nghiệm về tự ngã. Người ấy có thể không cần gì cả, nhưng không cách gì buông được giá trị quan điểm và giá trị chứng nghiệm về tự ngã, do vì còn có tâm kiêu mạn. Do đó, phàm có sự khẳng định giá trị tồn tại của tự ngã thì không thể có được chân giải thoát, cũng không thật sự có được trí tuệ vô lậu.

Thiền tông khi khai ngộ gọi là “thấy tánh”, sau khi thấy tánh phải giữ gìn và nuôi lớn nó. Cho nên cần phải ngộ rồi khởi tu, tu để nuôi dưỡng nó. Tuy Thiền tông nhấn mạnh sau khi khai ngộ, chỗ thấy của người ngộ hoàn toàn giống Phật, nhưng người ngộ chưa phải là Phật. Như người Tây Tạng có một pháp tu quán tưởng mình là Phật, cho dù quán thành công, Phật vẫn là Phật, người quán vẫn là người quán, chỉ là trong tâm vị ấy, so với trước đã có một ít tâm từ bi như Phật.

Cho nên các Thiền sư Trung quốc trước khi khai ngộ phải cố gắng tu hành, sau khi khai ngộ phải tìm vị thầy giỏi hơn hướng dẫn cho. Và chỉ có sau khi khai ngộ mới biết người như thế nào mới là vị thầy giỏi. Sau đó chính mình lại cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa.

Thiền không nhất định phải tĩnh tọa. Cho nên Lục Tổ Đàn Kinh nói: “Môn tọa thiền này vốn không chấp tâm, cũng không chấp tịnh, cũng không phải không động.” Lại nói: “Có người dạy ngồi, khán tâm quán tịnh, không động không khởi, do đây lập công khóa, người mê không biết chấp trước thành điên đảo.” Lục Tổ chủ trương: “Định là thể của tuệ, tuệ là dụng của định. Ngay lúc tuệ, định ở trong tuệ; ngay lúc định, tuệ ở trong định.” Cho nên chúng ta không thấy Lục Tổ Huệ Năng tĩnh tọa. Thiền sư Hoài Nhượng, đời thứ 2 sau Lục Tổ, khi thấy Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất ngồi thiền, đã nêu lên một ví dụ: “Tọa thiền cầu thành Phật chẳng khác nào mài gạch để làm gương.”

Nhưng trong ghi chép về Thiền học, chúng ta lại thấy rất nhiều Tổ sư Thiền tông tọa thiền. Trong Thanh quy của Tổ Bách Trượng (đệ tử Mã Tổ), có ghi câu “ngồi thiền đã lâu”. Có điều Thiền tông không chỉ coi trọng việc ngồi thiền, mà mọi thời điểm, mọi động tác trong cuộc sống hàng ngày đều được xem là tu hành.

Chúng ta đọc nguyên tắc sống của Tổ Bách Trượng, không thấy ghi chép Tổ một ngày ngồi thiền bao lâu, nhưng Tổ từng nói: “Một ngày không làm một ngày không ăn.” Điều đó cho thấy cách tu hành chủ yếu của Tổ chính là “Lên núi khai hoang, xuống ruộng cày bừa.”

Lục Tổ Huệ Năng cũng vậy. Trước khi gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Ngài là một người đốn củi, sau khi gặp Ngũ Tổ, Tổ cũng không bảo Ngài đi tọa thiền, trái lại bảo Ngài xuống nhà bếp giã gạo. Chúng ta phải biết rằng ngay khi làm việc, tâm Ngài luôn ở trong trạng thái ổn định, bình tĩnh, sáng rỡ, không một gợn sóng tình phàm. Người như thế mới có thể đạt được sự khai ngộ thật sự.

Nhưng cũng cần có sự dẫn đạo về giáo lý. Đại sự Huệ Năng thật sự khai ngộ khi nghe được kinh Kim Cang, nhờ đó Ngài có thể biện biệt được chỗ giống nhau và khác nhau của chấp trước và không chấp trước, ngã và vô ngã v.v…

Do đây có thể thấy giáo lý vẫn rất quan trọng. Tuy Thiền tông nói “không lập văn tự”, nhưng ý là nói không chấp trước vào ngôn ngữ văn tự, nhưng vẫn phải từ ngôn ngữ văn tự nhận được tin tức, có được sự chỉ đạo đúng đắn, đó gọi là “mượn giáo để ngộ tông.”

Nếu Lục Tổ không nghe được câu kinh “Nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia” trong kinh Kim Cang thì Ngài không thể khai ngộ. Và nếu Ngài chỉ ôm giữ, chấp cứng câu đó thì Ngài cũng không thể khai ngộ. Cho nên Thiền tông dụ công dụng của Kinh giáo giống như “dùng ngón tay chỉ mặt trăng”. Nếu không có ngón tay, người mê không biết mặt trăng ở đâu. Nếu người mê chỉ xem ngón tay, không chịu xem mặt trăng, thì ngón tay sẽ trở thành vô dụng. Nếu người mê nương ngón tay thấy được mặt trăng rồi, ngón tay cũng không còn công dụng nữa.

Do người bình thường không biết cách làm cho tâm yên tĩnh, dù có yên tĩnh cũng khó giữ được sự yên tĩnh dài lâu, cho nên vẫn phải tĩnh tọa. Có thể nói để ngộ thiền không nhất định phải tĩnh tọa, nhưng định lực của tĩnh tọa có thể trợ giúp cho việc ngộ thiền, nhưng chỉ tĩnh tọa suông cũng không ngộ được thiền.

  • HỎI ĐÁP

Sư: Tôi nghĩ các vị ở đây phần lớn đã hiểu được Phật pháp cơ bản, cũng có người đang tu thiền, hoặc tu theo Phật giáo Tây Tạng. Tôi tin rằng quý vị có nhiều vấn đề muốn hỏi. Câu nào tôi có thể trả lời tôi sẽ trả lời, câu nào tôi không biết tôi sẽ nói không biết.

Hỏi: Ngài nghĩ thế nào về Tông Tào Động coi trọng việc tu hành, không coi trọng việc khai ngộ, cho rằng bản thân việc tu hành là cách giảng về khai ngộ?

Sư: Tôi cho rằng đó là quan niệm tương đối an toàn, bảo đảm. Nếu theo đuổi việc khai ngộ, nhấn mạnh sự khai ngộ thì có thể khiến người nuôi dưỡng tâm lý nắm giữ kỹ xảo, lấy nhân làm quả, dễ hình thành cái tệ không muốn tu hành, cho rằng sau khi khai ngộ không cần tu hành nữa. Ngoài ra cũng có thể khiến người tu lâu mà chưa triệt ngộ thất vọng không muốn tu hành. Cho nên tôi cũng chủ trương coi trọng quá trình tu hành, nó tốt hơn coi trọng mục đích khai ngộ. Ông có đồng ý ý kiến của tôi không?

Đáp: Đương nhiên là đồng ý. Khi con hỏi thầy con về vấn đề khai ngộ, thầy con khuyên con không cần lo lắng, những người chấp trước kinh nghiệm khai ngộ, thường cho kinh nghiệm khai ngộ là một loại bảo bối, ôm giữ nó, chấp trước nó.

Sư: Đúng, theo đuổi khai ngộ, khoe khoang sự khai ngộ, bản thân nó chính là một sự chấp trước.

Hỏi: Nghe nói có một vị Tỳ-kheo Hàn quốc, lúc tu đặt tấm bảng viết chữ “Tử” ở ngay trước mặt. Con xin Ngài chỉ dạy, có nhất định phải có quyết tâm chết mới có thể tu tốt.

Sư: Chúng tôi cũng dạy người khi đi vào Thiền đường phải hạ quyết tâm “đại tử” một phen. Chết có chia ra đại tử (chết lớn) và tiểu tử (chết nhỏ). Tiểu tử là thân chết nhưng các nghiệp sanh tử như vọng niệm, phiền não v.v… chưa chết. Đại tử là đem tất cả những kinh nghiệm và quan niệm của mình từ quá khứ, hiện tại, vị lai, bất kể là tốt hay xấu, toàn bộ bỏ hết, như vậy ông mới có thể thực sự dụng công. Tôi không biết tấm bảng viết chữ “Tử” của vị sư Hàn quốc kia có ý gì. Nhưng trong Thiền đường Trung quốc, vị thầy giám thiền sẽ bảo chúng: “Các vị ngay lúc này phải cố gắng dụng công. Chỉ cho phép sống đi vào, chết đi ra. Tâm trộm vọng niệm không chết thì không được ra khỏi Thiền đường.”

Hỏi: Có thể vị sư Hàn quốc đó lúc tham thoại đầu hoặc công án muốn dựa vào phương thức này phá vỡ khối nghi.

Sư: Loại quyết tâm này rất tốt, nhưng kiểu tu dõng mãnh như thế rất nguy hiểm, chỉ có một số ít người sức khỏe tốt, tình trạng tâm lý cũng tốt mới có thể sử dụng.

Hỏi: Chúng con nên dùng thái độ như thế nào ứng xử với tình cảm?

Sư: Vẫn có tình cảm, nhưng không bị sự tốt xấu của tình cảm làm phiền não.

Hỏi: Có thể dùng tình cảm dạy người không?

Sư: Đối với chúng sanh là tình cảm, đối với Bồ-tát là từ bi. Như Bồ-tát Quán Thế Âm, Ngài dùng đủ loại hình tướng, đủ loại phương thức giúp người, nếu không dùng tình cảm giúp người, người ta sẽ sợ Ngài. Vì Bồ-tát không chấp trước nên cũng không có phiền não. Người không học Phật, không tu hành, tình cảm sẽ trở thành phiền não của chính mình, cũng hay gây ra phiền não cho người khác.

Hỏi: Làm thế nào dùng tình cảm mà không bị phiền não?

Sư: Có hai phương thức: Một là thường dùng giáo lý Phật pháp dần dần điều chỉnh tình cảm theo đúng hướng được chỉ dạy. Hai là dùng phương pháp tu thiền từ từ làm trong sạch tình cảm, biến nó thành lòng từ bi.

Hỏi: Tình cảm là việc tự nhiên, nếu kềm thúc, phủ định nó thì sẽ mất tự nhiên.

Sư: Bất cứ việc gì khi được huấn luyện, cải đổi, thì chắc chắn không còn tự nhiên nữa. Như nước chảy xuống là tự nhiên, chúng ta cho nước đi lên là không tự nhiên. Nhưng chúng ta lại luôn cho nước đi lên chứa vào hồ hoặc máng để dùng. Có tạo áp lực cho nó thì mới sử dụng được nó.

Hỏi: Địa vị của từ bi trong pháp thiền như thế nào?

Sư: Ý nghĩa của từ bi và trí tuệ giống nhau, nhưng cách biểu đạt không đồng. Người thật có trí tuệ, nhất định có từ bi. Biểu hiện của từ bi là rộng độ chúng sanh. Nhưng trong tâm của vị ấy không có mình cũng không có chúng sanh, đó là thực chứng trí tuệ vô ngã tánh không. Chỉ có trí tuệ vô ngã, không chấp trước mới hay biểu hiện lòng từ bi chân thật.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.