Tất niên năm nay, trước hết tôi xin kể một câu chuyện thế gian. Thuở xưa trong thời Xuân Thu nước Sở ở Trung Hoa, trên ngọn Kinh Sơn có một người tìm ngọc tên là Biện Hòa. Anh vô núi, tìm được một hòn ngọc bích, anh đem về dâng lên cho vua Sở. Vua Sở lúc đó là Sở Lệ Vương, mới đưa cho thợ ngọc xem. Họ trả lời đó là đá chớ không phải ngọc. Vua Sở nổi giận bắt chàng họ Hòa chặt một chân, bảo là khi quân. Bị chặt một chân, chàng ta mang ngọc về. Thời gian sau Sở Lệ Vương thăng hà. Sở Võ Vương lên ngôi, chàng họ Hòa còn một chân, nhưng cũng mang ngọc tới dâng. Sở Võ Vương bảo thợ ngọc xem, lần này họ cũng trả lời là đá chớ không phải ngọc. Vua nổi giận bắt chàng họ Hòa chặt một chân nữa. Sau Sở Võ Vương tới Sở Văn Vương lên ngôi. Chàng họ Hòa không còn chân đem dâng ngọc nữa, đành ôm hòn ngọc ở Kinh Sơn mà khóc. Khóc năm, bảy ngày đến máu ra nước mắt. Sở Văn Vương nghe vậy cảm động cho đòi y về triều. Vua Sở hỏi: Tại sao ngươi khóc lắm vậy? Có phải bị chặt chân mà ngươi khóc hay chăng? Ông ấy trả lời: Tôi khóc không phải vì bị chặt hai chân, mà khóc vì ngọc mà nói là đá, vì nói thật mà cho là nói dối.
Vua Sở Văn Vương bảo thợ ngọc xét lại cho kỹ, coi phải thật là ngọc hay không. Rốt cuộc đó là một viên ngọc bích rất đẹp. Từ đó về sau mới đặt tên là “Ngọc Bích họ Hòa”.
Qua câu chuyện đó chúng ta thấy điều gì?
Thiện chí của chàng họ Hòa đưa đến kết quả cụt hai chân. Chàng đau khổ không phải vì cụt hai chân, mà vì ngọc lại nói là đá. Đau khổ vì nói thật mà cho là nói dối. Chúng ta nghĩ sao về tâm trạng chàng họ Hòa? Hòn ngọc bích của chàng có quí thật hay không? Nếu theo thế gian thì hòn ngọc ấy rất quí. Nhưng giả sử có người tặng ta hòn ngọc quí hơn thì sao?
Tôi nhắc lại như trường hợp trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu gặp ai cũng chấp tay bái bái nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Như vậy phải chăng Bồ-tát Thường Bất Khinh đã tặng cho chúng ta một hòn ngọc. Khi đó có kẻ rầy la, có kẻ vác đá chọi Ngài… nhưng dù muốn dù không hòn ngọc ấy cũng được trở về với mọi người.
Thực tế mà nhìn, giả sử có người tặng chúng ta một hòn ngọc quí hơn trăm ngàn lần hòn ngọc ở Kinh Sơn, mình có ưng nhận hay không? Nếu ưng nhận, có chịu giữ hay là quăng lang lệ ở ngoài đường? Như vậy người tặng ngọc có buồn không? Chúng ta thử tưởng tượng một việc tầm thường, ngọc mà mắt người không chuyên môn, cho là đá, khi thì người biết chắc chắn là ngọc có đau khổ hay không. Đau khổ chặt chân vẫn chưa đau khổ bằng ngọc mà cho là đá, chưa đau khổ bằng nói thật mà cho là nói dối.
Đó là chuyện xưa mà cũng là tình trạng hiện giờ. Có người tặng chúng ta hòn ngọc quí hơn trăm ngàn lần hòn ngọc Kinh Sơn của họ Hòa. Thế nhưng có nhiều người xem thường hoặc không chấp nhận nó, hoặc chấp nhận rồi cũng bỏ rơi không gìn giữ. Như vậy có tội nghiệp cho người tặng ngọc không? Bây giờ hòn ngọc đó ở đâu và ai tặng cho chúng ta? Chúng ta có giống như hai ông vua Sở trước hay không? Mỗi người có hòn ngọc mà không biết giữ. Hòn ngọc bích có quí chăng chỉ là lóng lánh đẹp đẽ trong việc trang sức thôi. Còn có hòn ngọc quí không biết bao nhiêu lần, đem lại cho ta sự an lành tự tại. Có người tặng ngọc cho một trăm một ngàn người, trăm ngàn người có ngọc mà ngọc đem tặng không mất. Vậy hòn ngọc này hẳn quí hơn nhiều. Hòn ngọc này chẳng những làm cho chúng ta an lành tự tại mà còn bảo đảm kiếp kiếp đời đời không bao giờ mất, không bao giờ khổ. Đó là hòn ngọc quí tối thượng. Trong kinh Pháp Hoa, đó là hạt minh châu trong búi tóc của nhà vua tặng cho người thắng trận sau khi trở về, hoặc của người bạn thân tặng cho anh bạn cũ đang lang thang, cột trong chéo áo. Đức Phật đã nói rất nhiều về hòn ngọc này.
Tôi nói việc tặng ngọc của họ Hòa để chúng ta thấy tâm trạng của người tặng ngọc. Bây giờ cũng có người tặng ngọc cho mình, chúng ta nhớ nhận và giữ cho người tặng khỏi tủi buồn, mới thật không hoài công, không phụ lòng người sẵn sàng tặng ngọc cho mình.
Hạt minh châu như thế nào? Tôi sẽ dẫn các Thiền sư để nói lên hạt minh châu có sẵn nơi chúng ta. Có một vị Tăng đến hỏi Thiền sư Thạch Cựu: Thế nào là hạt châu trong tay Địa Tạng? Thiền sư Thạch Cựu trả lời: Trong tay ông lại có chăng? Tăng thưa: Con chẳng hội. Thiền sư Thạch Cựu nói: Chớ dối đại chúng. Như vậy Ngài xác nhận cái gì? Quả tang trong tay ông có hòn ngọc mà ông không biết có hay không. Nếu nói không có là ông dối đại chúng. Kế đó Ngài làm bài kệ:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân.
Tạm dịch:
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Người nhìn gương mất đầu.
Bất thức tự gia bảo: nghĩa là không biết được của báu chính nhà mình.
Tùy tha nhận ngoại trần: nghĩa là theo kẻ khác mà nhận bụi bặm bên ngoài.
Nhật trung đào ảnh chất: nghĩa là giữa trưa mà người chạy ngoài nắng trốn bóng.
Cảnh lý thất đầu nhân: nghĩa là nhìn vô gương thấy đầu, mặt mình trong gương, quên mất đầu mặt thật của mình. Xoay gương lại không thấy đầu kêu lên “tôi mất đầu rồi”.
Đó là hình ảnh của chàng Diễn-nhã-đạt-đa trong kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta có giống như chàng ấy hay không? Mỗi người có sẵn hạt minh châu trong tay, không chịu nhận mà lại nhận những gì loanh quanh tầm phào bên ngoài. Người như vậy chẳng khác nào tự chối mình không có hạt minh châu, giống như kẻ trốn bóng chạy ngoài trời lúc trưa nắng hay người nhìn gương xoay gương lại, cho mình không có đầu, thật là cuồng vọng. Qua bài kệ Thiền sư nhắc cho chúng ta biết mỗi người có hòn ngọc như vậy.
Sau đây là câu chuyện của đức Phật: Một hôm năm vị Thiên vương đến hỏi đạo đức Thế Tôn, Ngài để hạt châu ở giữa, năm vị đứng năm góc. Ngài hỏi hạt châu này màu gì, mỗi vị nói mỗi màu khác nhau. Ông ở phương Đông thấy phản ánh màu trắng, nói hạt châu màu trắng. Ông ở phương Tây thấy phản ánh màu đỏ, nói hạt châu màu đỏ. Cả năm ông nói năm màu khác nhau. Thế Tôn cất hạt châu, đưa tay lên hỏi: Hạt châu này màu gì? Mấy vị Thiên vương thưa: Trong tay Phật không có châu, chỗ nào có màu? Đức Phật quở: Tại sao các ông điên đảo lắm vậy? Ta đem thế châu chỉ cho liền nói có màu xanh vàng đỏ trắng. Ta đem chân châu chỉ cho thảy đều không biết. Năm vị Thiên vương nghe xong đều ngộ đạo thấy hạt chân châu. Tại sao Phật đưa tay không lại nói là chân châu? Quí vị có thấy hạt châu đó không? Quí vị có thấy thì tự thấy, chớ tôi không giải thích. Đó là tôi đã chỉ châu cho quí vị.
Một câu chuyện khác cũng nói về châu. Có vị Tăng hỏi Thiền sư Pháp Đăng: Đầu sào trăm trượng làm sao tiến bước?
Thiền sư Pháp Đăng đáp: Câm.
Ngài Úc Sơn Chủ khán câu đó do một vị Hóa Sĩ ở Lô Sơn dạy trải qua ba năm. Một hôm Ngài cưỡi ngựa qua cầu ván, bất thần con ngựa đạp nhằm chỗ ván mục bị lọt chân. Ngài té nhào xuống ngựa, bỗng nhiên đại ngộ làm bài tụng:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
Cữu bị trần lao quan tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Dịch:
Ta có một viên minh châu
Đã lâu bị bụi vùi sâu
Hôm nay bụi sạch sáng sanh
Soi thấu núi sông vạn cảnh.
Như vậy Ngài lượm được hạt châu ở đâu? Chỉ cần khán câu đó bất thần Ngài thấy hạt châu của mình. Viên minh châu chôn vùi dưới bụi lâu rồi, hôm nay bất thần bụi tan nên ánh sáng phát hiện, chiếu khắp sơn hà đại địa. Diệu dụng của hạt minh châu như thế, nên quí vô cùng vô tận.
Hạt minh châu, còn có tên khác nữa nhưng thể vẫn không khác. Trong hội Quốc sư Đức Thiều, một hôm ngài Hồng Thọ – Hưng Giáo bửa củi. Một búa củi tét ra, Ngài liền ngộ đạo, nói kệ:
Phốc lạc phi tha vật
Tung hoành bất thị trần
Sơn hà cập đại địa
Toàn lộ Pháp vương thân.
Dịch:
Bửa tét không vật khác
Dọc ngang chẳng phải trần
Núi sông và quả đất
Toàn bày thân pháp vương.
Bửa củi tét ra thì bày thân Pháp vương chớ không ở đâu xa lạ. Người tu thiền ngộ đạo không hẳn ở trong giờ phút yên lặng, mà có thể trong khi làm công tác hay lúc đi đường, bất chợt gặp cái gì đó cũng ngộ được. Đó là tinh thần Thiền tông thấy đạo bất cứ lúc nào và ở đâu. Cũng như ngài Hồng Thọ bửa củi, ngài Úc Sơn Chủ cưỡi ngựa, có tu hay không? Nếu không tu tại sao bất thần các Ngài ngộ đạo. Như vậy để thấy người xưa, đi đứng nằm ngồi, bất cứ hoạt động nào các ngài cũng không bỏ quên tâm niệm tu hành của mình. Chính ôm ấp, mài dũa như vậy nên mới có cơ phát hiện ra. Còn chúng ta, đi thì lo nói chuyện thế gian, bửa củi thì nói chuyện vui để quên mệt, vì vậy mà chúng ta không thấy đạo.
Thiền sư Thạch Thê, cháu gọi Nam Tuyền bằng Sư ông. Một hôm, Thị giả mời Ngài đi tắm.
Sư bảo:
– Đã chẳng rửa bụi cũng chẳng rửa bợn tắm làm gì?
Thị giả thưa:
– Hòa thượng đi trước con đem xà phòng đến sau.
Sư cười.
Hôm khác Sư hỏi Thị giả:
– Đi đâu?
Thị giả thưa:
– Con lên trai đường.
Sư bảo:
– Ta đâu không biết ngươi lên trai đường.
Thị giả thưa:
– Trừ ngoài việc này, riêng nói cái gì?
Sư bảo:
– Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ngươi.
Thị giả thưa:
– Nếu hỏi việc bổn phận, con thật là đi lên trai đường.
Sư bảo:
– Quả thật là Thị giả của ta.
Chúng ta thấy Thị giả của Ngài nói năng như lệch lạc vậy.
Mời đi tắm, Ngài bảo: Nước không phải rửa bụi cũng không phải rửa bợn, tắm làm gì? Thị giả không trả lời câu đó mà nói: Hòa thượng đi trước con đem xà phòng theo sau.
Sư cười.
Có phải Thị giả lạc đề nên Ngài cười không?
Sao lạ vậy? Đoạn sau thấy Thị giả bưng bát lên trai đường, Ngài hỏi đi đâu, Thị giả thưa: Con đi lên trai đường. Ngài nói: Ta đã biết ông đi lên trai đường. Ý Ngài muốn hỏi cái gì đó.
Thị giả thưa: Ngoài việc đi lên trai đường, Hòa thượng bảo con nói cái gì bây giờ?
Ngài đáp: Ta hỏi việc bổn phận của ngươi.
Thị giả thưa: Nếu Hòa thượng hỏi việc bổn phận của con thì quả thật là con đi lên trai đường. Ngài liền khen: Ông mới thật là Thị giả của ta.
Chúng ta thấy vị Thị giả này đáng là Thị giả chưa?
Tôi nhắc thêm một Thiền sư nữa. Ngài Bổn Nhân ở huyện Bạch Thủy, đệ tử của ngài Động Sơn. Một hôm Ngài thượng đường nói với chúng:
– Trong con mắt dính cát chẳng được, trong lỗ tai dính nước chẳng được.
Một vị Tăng bước ra hỏi:
– Tại sao trong con mắt dính cát chẳng được?
Ngài đáp:
– Hợp chân không sánh.
Tăng hỏi:
– Tại sao trong lỗ tai dính nước chẳng được?
Ngài đáp:
– Trắng sạch không nhơ.
Trả lời sao mà lệch lạc vậy? Trong con mắt dính cát không được, điều đó ai cũng nhận rõ. Trong lỗ tai dính nước không được, đó cũng chẳng khó hiểu. Nhưng tại sao con mắt dính cát không được? Ngài đáp: Hợp chân không sánh. Tức là hợp với cái chân, không có gì so sánh được.
Hỏi: Tại sao lỗ tai dính nước không được?
Ngài đáp: Trắng sạch không nhơ.
Như vậy, Ngài nói chuyện gì, có chỉ hạt châu không, có giống đức Phật đưa tay lên cho năm vị Thiên vương đó chăng?
Đó là lối diễn tả khác mà cùng một nghĩa của các Thiền sư. Đạo vị này thâm thúy mà người đọc hơi đau đầu, không biết đức Phật nói gì, Thiền sư nói gì? Ở đây nếu tôi giải thích hết, sẽ không hay.
Bây giờ tôi kể chuyện Thiền sư ni Viên Ấn, ở đời nhà Thanh niên hiệu Khang Hi, đến tham vấn Thiền sư Chân Diễn ở Trúc Am.
Thiền sư hỏi:
– Thế Tôn đưa cành hoa, ngài Ca-diếp cười chúm chím, là cười cái gì?
Ni Viên Ấn hét một tiếng.
Thiền sư bảo:
– Tiếng hét này rơi vào chỗ nào?
Ni thưa:
– Chẳng cần nghĩ đến.
Thiền sư dựng phất tử hỏi:
– Cái này là gì?
Ni thưa:
– Chẳng được vọng thông tin tức.
Thiền sư hỏi:
– Vừa rồi Sơn tăng nói gì?
Ni thưa:
– Lời trước đâu còn.
Thiền sư bảo:
– Sơn tăng tuổi già.
Ni thưa:
– Tuổi già thì được.
Ni liền lễ bái.
Chúng ta thấy trả lời như vậy có lạc đề không?
Thiền sư đưa cây phất tử lên hỏi “cái này là gì”, Ni Viên Ấn nói “không được dối thông tin tức”.
Trả lời như vậy, chúng ta thấy vị Ni ấy ra sao? Tiếc rằng câu chuyện này kể ra nghe hơi đau lỗ tai, nhưng tôi cứ kể vì muốn hiến châu cho quí vị.
Đến câu chuyện Thiền sư Huyền Thiết Dung thượng đường nói chuyện với đại chúng. Vừa đăng pháp tòa chúng nhóm họp đầy đủ thì Ngài bước xuống tòa. Thầy Tri sự tức quá chạy đến nắm đứng Ngài lại hỏi: “Tại sao không dạy một lời liền bước xuống tòa?” Ngài trả lời: “Sơn tăng sáng ăn hai chén cháo nguội, trong bụng có chút bất an, đợi đi cầu một chút, hãy vì các ông nói.” Chúng ngơ ngác không biết gì. Ngài về phương trượng không ra nữa.
Tại sao kỳ vậy? Câu chuyện này có lạ không? Ngài có nói pháp cho chúng ta nghe chưa? Thật tình Ngài có đau bụng hay không? Đó là một câu chuyện đặc biệt.
Hôm khác Ngài cũng thượng đường nói: Sơn tăng hôm qua đi thọ trai trong xóm, nhai nhằm một hạt cát hắc quang, cho đến sáng nay răng vẫn còn đau không thể cùng chư huynh đệ nói vàng nói trắng. Nói xong Ngài bước xuống tòa và trở về phương trượng.
Sao lạ vậy. Ngài có thuyết pháp câu nào chưa?
Lại một hôm, Ngài hỏi một vị Tăng:
– Người xưa nói “ăn cháo xong rửa bát đi” là thế nào?
Tăng trả lời:
– Khi hôm trong mộng có người hỏi con câu này, vì lúc đó con mê ngủ nên không đáp cho y.
Sư bèn thôi và gật đầu.
Vị Tăng có lạc đề không? Tôi không giải thích mỗi người tự hiểu.
Một Thiền sư khác, ngài Quảng Thanh. Đầu mùa Xuân năm Canh Thân niên hiệu Khang Hi đời Thanh, Ngài mang bệnh ba tháng trời. Một hôm đệ tử là Viên Tịnh dẫn chúng vào phương trượng viếng thăm và cầu chỉ dạy.
Sư bảo: Sơn tăng xưa nay không dính mê ngộ. Bị bệnh kiết ba tháng khiến thân gầy bày xương. Nếu người hiểu đạo như thế bảo đảm siêu Phật vượt Tổ.
Nói xong Ngài nằm nghiêng bên mặt mà tịch.
Như vậy Ngài dạy cái gì? Tôi nhớ lại câu Tổ Hoàng Bá nói: “Dưới Mã Tổ có tám mươi tư thiện tri thức nhưng chỉ có ngài Qui Tông là tiêu chảy đầy đất.” Trong nhà Thiền có những câu chuyện tương tự như vậy. Ngài Quảng Thanh nói Ngài bị bệnh kiết ba tháng, bây giờ sạch hết thân gầy bày xương. Nếu người nào hiểu được việc đó, thì siêu Phật vượt Tổ.
Khi đọc qua câu chuyện đó chúng ta cảm thấy như Ngài tả bệnh trạng của mình. Bệnh hoành hành làm cho Ngài đi tiêu chảy, không còn gì trong bụng hết, ốm gầy còn da bọc xương.
Thiền sư nói nửa thật nửa hư, mượn bệnh của mình để chỉ cái khác. Thật tình nếu chúng ta là người tu Thiền hay tu theo đạo Phật, chỉ có một chuyện là uống thuốc xổ thôi, thì chúng ta hết bệnh. Chúng ta tích lũy chất độc đã nhiều năm, độc tố chứa lâu quá rồi thành ra sanh bá bệnh. Bây giờ muốn hết chỉ còn phương thuốc là xổ. Xổ sạch rồi là lành bệnh. Đó là phương pháp duy nhất, nhưng khổ nỗi thiên hạ không chịu xổ hết. Đã tích độc rồi mà muốn tích thêm hoài, ngày nào cũng thêm chớ không chịu xổ.
Ra chợ nghe người ta nói câu gì bất như ý, về nhà nằm thở ra thở vô rồi tức. Người như vậy là biết xổ chưa? Những gì hay, những gì dở năm trên năm dưới, nếu rảnh ngồi lại thì ôn mãi trong đầu. Ôn tới ôn lui hoặc cười hoặc tức. Chúng ta tích lũy những thứ đó từ ngàn đời, do không chịu xổ, nên biến ra đủ thứ bệnh trạng. Rồi cứ than đau quá, khổ quá không ai cứu giùm. Phật bảo xổ không chịu xổ thì bệnh không thể cứu được.
Cuối năm, không có gì hơn là chúng ta xổ hết mọi thứ mà trọn năm đã dồn vô làm cho mình bận bịu, khổ sở. Cuối năm xổ hết thì sang năm tới chúng ta sạch bong như ngài Quảng Thanh, chỉ còn thân gầy bụng trống. Nếu không thì cứ ấm ách trong bụng và chúng ta sẽ đau khổ dài dài không biết đến bao giờ hết.
Như tôi đã nói, chúng ta có sẵn viên ngọc quí vô giá không gì bì được, mà lại vùi nó trong bụi. Bây giờ muốn viên ngọc bày ra thì phải phủi cho sạch bụi.
Ở đây chúng ta xổ hết chất độc thì tức nhiên trắng sạch, cái chân thật hiện ra. Tu là biết buông tất cả những gì đã nắm. Nếu càng tích lũy thì càng khổ đau. Cho nên người biết tu chỉ cần xả hết các thứ tích lũy thì an lành tự tại.
Thiền sư không muốn nói danh từ chuyên môn mà nói tiêu chảy. Bao nhiêu phiền não tích lũy, mình xổ được rồi thì sẽ nhẹ nhàng. Khi chúng ta sạch hết trần lao thì viên ngọc phát ánh sáng, hết phiền não là Bồ-đề hiện. Đó là chủ yếu của sự tu hành.
Tất cả chúng ta cùng tu, nguyện một đời đi tới chỗ an lành tự tại, tức là nắm được hòn ngọc của mình. Lau nó sạch, không để dính bụi bặm, thì tất cả diệu dụng hiện tiền. Đó là việc thiết yếu của người tu. Được như vậy, bao nhiêu đau khổ sẽ theo đó mà hết. Cũng như kẻ nghèo, đói khát lang thang được của quí rồi thì sẽ hết nghèo, trở thành sang cả. Đó là đường lối tu đơn giản thẳng tắt nhất để tiến đến chỗ an lạc giải thoát.
Tôi mong rằng sang năm mới này tất cả chúng ta đều xổ hết những cái cũ để tâm hồn trong trắng hầu hưởng trọn vẹn một mùa Xuân Di-lặc.