Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa

03. Tổ Thương Na Hòa Tu



(Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn)

Ngài dòng Tỳ-xá-đa nước Ma-đột-la, cha tên Lâm Thắng, mẹ là Kiều-xa-da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh. Tục truyền ở Ấn Độ khi nào cỏ Thương-nặc-ca sanh là có một vị Thánh nhân ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha mẹ Ngài đặt tên là Thương-na-hòa-tu.

Lúc đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được thần thông, sau gặp Tổ A-nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp.

Tổ A-nan thấy Ngài đã thâm ngộ diệu tâm nên truyền pháp kệ rằng:

Bản lai truyền hữu pháp,
Truyền liễu ngôn vô pháp.
Các các tu tự ngộ,
Ngộ liễu vô vô pháp.

Dịch:

Xưa nay truyền có pháp,
Truyền rồi nói không pháp.
Mỗi mỗi cần tự ngộ,
Ngộ rồi không không pháp.

Tổ lại dặn: “Xưa Đức Như Lai đem Đại pháp nhãn này trao cho Ngài Ca-diếp, Ngài Ca-diếp trao lại cho ta, nay ta sắp vào Niết-bàn đem trao lại cho ngươi. Ngươi phải khéo gìn giữ truyền trao, không để dứt mất.”

Sau khi đắc pháp nơi Tổ A-nan, Ngài đi đến khu rừng Ưu-lưu-trà cất tinh xá, hoằng hóa Phật pháp rất hưng thịnh. Chính nơi đây, khi Phật còn tại thế, có lần đi giáo hóa ngang khu rừng này, Phật nói với A-nan: “Sau khi ta Niết-bàn khoảng 100 năm, có một Tỳ-kheo tên Thương-na-hòa-tu ở tại khu rừng này hoằng truyền chánh pháp.”

Thấy cơ duyên hóa đạo đã viên mãn, Ngài đem chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho đệ tử Ưu-ba-cúc-đa, vào núi Bạch Tượng phía Nam nước Kế Tân chuẩn bị nhập Niết-bàn. Nhân trong chánh định Ngài thấy nhóm 500 đệ tử của Ưu-ba-cúc-đa thường hay lười biếng và khinh mạn, Ngài liền đến cảnh tỉnh họ.

Khi Ngài đến, Ưu-ba-cúc-đa đi vắng. Ngài lại tòa của Ưu-ba-cúc-đa ngồi, đệ tử Ưu-ba-cúc-đa không biết Ngài là người gì, tất cả đều bực tức, không phục. Họ chạy báo cho Ưu-ba-cúc-đa hay. Ưu-ba-cúc-đa về đến thấy thầy mình liền đảnh lễ. Song đệ tử vẫn còn tâm khinh mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư không liền có sữa thơm chảy xuống, rồi hỏi Ưu-ba-cúc-đa: – Ngươi biết gì chăng?

Ưu-ba-cúc-đa thưa: – Chẳng biết.

Ưu-ba-cúc-đa bèn nhập chánh định để xem xét, cũng không thể hiểu. Ưu-ba-cúc-đa thưa: – Điềm lành này do chánh định gì xuất hiện?

– Đây là chánh định Long Phấn Tấn. Còn cả năm trăm thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh định của Như Lai, hàng Bích Chi không thể biết. Chánh định của Bích Chi, hàng La-hán không thể biết. Chánh định thầy ta là A-nan, ta cũng không biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu thể biết. Chánh định ấy là tâm không sanh diệt, trụ trong sức đại từ, cung kính lẫn nhau, được thế đó mới có thể biết.

Đệ tử của Ưu-ba-cúc-đa trông thấy những điều kỳ diệu ấy đều kính phục, chí thành sám hối.

Ngài lại nói kệ:

Thông đạt phi bỉ thử,
Chí Thánh vô trường đoản.
Nhữ trừ khinh mạn ý,
Tất đắc A-la-hán.

Dịch:

Thông suốt không kia đây,
Chí Thánh không hay dở.
Ngươi trừ tâm khinh mạn,
Chóng được A-la-hán.

Sau đó, Ngài thị tịch bằng cách dùng hỏa quang tam muội thiêu thân. Thầy trò Ưu-ba-cúc-đa thu nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.