Kinh Đại Bảo Tích

60. Pháp Hội Nhựt Mật Bồ Tát



Như vậy tôi nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn vẫn ở Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục và Sắc, cùng vô lượng đại Bồ Tát câu hội.

Đức Thế Tôn vì đại chúng nói pháp Hư Không Mục xuất tức nhập tức cam lộ môn rồi yên lặng mà trụ. Tất cả đại chúng cũng đều ngồi yên lặng suy nghĩ rằng:

Ngày nay đức Như Lai biết rất rõ tâm tôi, cầu muốn chánh pháp không nhàm, ắt sẽ tuôn mưa pháp cam lộ.

Suy nghĩ vậy rồi, đại chúng đều chắp tay cung kính chăm nhìn Như Lai dường như người bịnh nặng ưa nhìn lương y, như người ở trong chỗ tối ưa nhìn ánh sáng, như người chìm trong nước ưa muốn đến bờ, như người bị nạn khổ ưa được chỗ nương cậy.

Trong chúng ấy có một Bồ Tát tên là Liên Hoa Quang Công Đức Đại Phạm. Bồ Tát nầy đã ở nơi vô lượng vô biên chư Phật vun trồng các công đức, thiện căn tăng trưởng, với Vô thượng Bồ đề tâm không thối chuyển, thành tựu đầy đủ pháp duyên đại từ, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính quỳ dài bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ tâm sở duyên của tất cả chúng sanh không có biên tế, nhanh chóng vô hình. Tánh nó bổn lai thanh tịnh ở trong các cõi không có gì chướng ngại được. Vì muốn thông đạt biết rõ chơn thiệt nên siêng năng tu tập Tứ vô lượng tâm, nhơn tu tập nên được tận trí.

Bạch đức Thế Tôn! Giả sử tam giới tánh bổn tịnh cớ chi tu tập tận trí như vậy? Duy nguyện đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà tuyên dương nói rộng để người thối chuyển được bất thối, để xô dẹp vô lượng phiền não giới, để dứt phá vô biên khối khổ não. Duy nguyện Như Lai thương xót diễn nói pháp chưa từng được nghe. Chúng sanh nghe pháp chưa từng nghe rồi qua khỏi biển sanh tử, xô gãy cây ái. Tại sao? Vì trong tất cả phiền não thì ái là căn bản vậy.

Duy nguyện Như Lai thương xót phân biệt diễn nói tội lỗi của ái. Như Lai có thể tịnh chúng sanh sáu căn. Nguyện đức Như Lai diễn nói pháp tụ thanh tịnh”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Liên Hoa Quang! Nếu người có thể hành lục Ba la mật thì có thể tự biết chỗ sở hành của tâm, người ấy trọn chẳng tưởng niệm Thanh Văn thừa. Dầu còn tu hành vô lượng các hành chưa được cứu cánh, nhưng cũng chẳng kinh sợ thối lui, sa vào hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật.

Nếu có Bồ Tát chẳng thể tu tập Tứ vô lượng tâm, Bồ Tát như vậy nơi đạo Bồ đề là có thối thất, đây gọi là chẳng thể thanh tịnh sáu căn, đây gọi là nơi pháp có tham có xan, như vậy gọi là hành nơi tha hành, mà chẳng hành nơi tự hành, đây gọi là chẳng thành tựu được Thất thánh tài, chẳng thể độ thoát tất cả chúng sanh nơi biển sanh tử. Vì vậy nên Phật gọi hành giả như vậy là Thanh Văn hành, là Bích Chi Phật hành. Lúc ban sơ Phật diễn nói Tứ thánh đế hành, sau đó tiếp nối dạy chư Bồ Tát hành”.

Lúc ấy đại chúng đều nghĩ rằng: Đây là Như Lai sắp sửa muốn nói Thanh Văn thừa mà chẳng nói Đại thừa chăng? Phải chăng đức Như Lai chẳng thích chúng Bồ Tát như vậy chăng? Như Lai chẳng muốn đoạn dứt chủng tánh Tam bửu chăng?

Tại sao đức Như Lai chẳng nói diệu pháp Đại thừa để hàng chư Thiên thế nhơn được tín tâm. Để người chưa phát tâm Bồ đề thì phát tâm, người đã phát tâm Bồ đề thì được tăng trưởng. Để các chúng sanh được tín tâm vậy.

Đức Như Lai nếu nói pháp Đại thừa thì vô lượng chúng sanh sẽ được phát khởi tâm Bồ đề, do được tu hành pháp Đại thừa bất cộng nên thành tựu đầy đủ pháp đà la ni.

Biết rõ tâm niệm của đại chúng, đức Phật nói: “Nầy chư thiện nam tử! Thanh Văn thừa ấy tức là Đại thừa, Đại thừa ấy tức là Thanh Văn thừa, hai thừa  như vậy không có sai khác”.

Bấy giờ, trong đại chúng chư Bồ Tát ở bực Thập trụ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đã được Vô sanh pháp nhẫn. Chúng tôi đã có thể hành mười tám pháp hành bất cộng của Như Lai. Chúng tôi đã hiểu rõ Thanh Văn thừa và Đại thừa. Trong đại chúng nầy còn vô lượng chúng sanh chẳng thể hiểu được Tiểu thừa và Đại thừa”.

Đức Phật bảo chư Bồ Tát ấy: “Nầy các thiện nam tử! Các ông nên tu bất thối thiền định”.

Chư Bồ Tát ấy liền tu nhập bất thối thiền định. Lúc nhập rồi, hoặc có Bồ Tát thân phóng quang minh như một ngọn đèn một ngọn đuốc, hoặc có thân phóng quang minh như thân Đế Thích, Phạm Vương, hoặc như quang minh nhựt nguyệt, hoặc như bốn mặt nhựt, hoặc như tám mặt nhựt, như ngàn mặt nhựt, như ánh sáng cả ức mặt nhựt. Ánh sáng nơi thân chư Bồ Tát ấy phóng ra chiếu khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Quang minh ấy có thể làm cho vô lượng chúng sanh thân tâm tịch tĩnh. Kẻ trong ba ác đạo được rời lìa khổ não. Kẻ tà kiến xa lìa ác kiến. Lìa hẳn tham dục, sân hận, ngu si bố uý, các nạn khổ đói khát.

Chúng sanh cõi nầy đồng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, tăng trưởng pháp lành.

Lúc bấy giờ, thế giới Ta Bà nầy cùng mười phương vô lượng hằng hà sa số thế giới, hoặc không hay bất không, hoặc tịnh hay bất tịnh, quang minh ấy đều chiếu khắp. Chư Bồ Tát trong thập phương thế giới, những người có thể tu hành thánh hạnh Bồ đề đạo trong khoảng một niệm đều đến tụ tập trong Đại Bửu Phường Đình. Đến rồi đầu mặt lễ Phật ngồi qua một phía.

Đức Phật bảo chúng Thanh Văn rằng: “Nầy chư Tỳ Kheo! Các ông có thấy thiện thần túc như vậy chăng?

Thần túc như vậy hay phá hoại tất cả ác ma cảnh giới và các hữu xứ, hay hộ pháp giới, hay hành tất cả chư Phật cảnh giới, hay phân biệt cảnh giới Thanh Văn và Bích Chi Phật, hơn hẳn tất cả các thần thông.

Nầy chư Tỳ Kheo! Tất cả Bồ Tát sở dĩ thị hiện đại thần thông là để tăng trưởng các thiện căn cho chúng sanh, để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam bửu, để kẻ chưa tin thì được tín tâm, kẻ đã tin thì được tăng trưởng, để cho chúng sanh được thọ an lạc, để trưởng dưỡng pháp Đại thừa, để thân được thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các nhơn duyên như vậy nên Bồ Tát vì chúng sanh mà thị hiện thần thông như vậy.

Nầy chư Tỳ Kheo! Tùy chỗ nào mà chư Bồ Tát như vậy đi đến thì trong ấy Phật pháp liền được tăng trưởng, hoặc hiện tại hay vị lai, Phật pháp còn ở lâu chẳng diệt mất. Nơi đó các chúng sanh xây dựng tháp miếu, cúng dường chúng Tăng, cầu thân vô tận, thân không khổ não. Các sự cúng dường ấy là tạo sanh thân và pháp thân. Sanh thân cúng dường là Pháp tượng. Pháp thân cúng dường là thơ tả đọc tụng mười hai bộ kinh. Cúng dường như vậy hơn đem thất bửu, hương hoa, kỹ nhạc, phan lọng, anh lạc cúng dường.

Nầy chư Tỳ Kheo! Lúc ấy tâm ta cũng nhận thọ đó. Do cúng dường như vậy, các chúng sanh ấy sẽ được đầy đủ quả báo tam thừa, tâm chẳng thối chuyển.

Nếu có chúng sanh vì ta mà tạo nhà cửa, chỗ kinh hành, ta liền thọ dụng, hoặc là rừng cây, vườn hoa, giảng đường, tinh xá dâng cúng dường ta. Các hàng đệ tử có những ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, phòng nhà, ta cũng thọ dụng. Nếu các Pháp sư thăng tòa cao thuyết pháp, lúc ấy ta cũng chí tâm lắng nghe. Nếu cúng thí cho Pháp sư ấy những y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, phòng nhà, vườn rừng, xe cộ, ruộng nương, nô tỳ, ta cũng thọ đó. Đây gọi là pháp cúng dường.

Người nầy như vậy có thể tịnh thân tâm, trang nghiêm thân tâm, cũng có thể trang nghiêm Vô thượng Bồ đề, có thể được an lạc vi diệu, hay bố thí tất cả vật, cho tất cả người, trong tất cả thời gian, có thể thọ tất cả quả báo, thọ tất cả người, thọ tất cả thời. Đây gọi là thành tựu phước bố thí. Người nầy trọn chẳng đến ba ác đạo, được pháp chẳng đọa lạc, như ý sở cầu, chẳng thối chuyển tam thừa.

Người nầy thường được có đủ hai thứ, đó là của cải và chánh pháp. Vì vậy nên những vật mong cầu đều tùy ý liền được. Thường được thập phương chư Phật hộ niệm. Hay phá tất cả cảnh giới ma.

Nếu có người kính tin đem vật sở hữu của mình phụng dâng cho Pháp sư, nếu người phá giới mà thọ vật phụng dâng ấy, nhẫn đến một là, một bông, một trái, người ngu si nầy do cớ phá giới thọ cúng dường ấy nên mắc quả báo bất thiện, hiện tại liền bị bốn quả ác lớn, đó là tiếng ác đồn xa, thầy bạn thân thiện đều xa lìa, mắc phải bịnh nặng khổ ác mà chết, đó là lúc sắp chết ăn uống không vô, thấy cảnh ác dữ, miệng không nói được, nằm ỉa đái dơ dáy và sau khi chết, sáu vật sở hữu cùng những của cải khác chẳng đến trong tăng, hoặc bị lửa cháy, hoặc trộm cướp lấy. Đời sau còn bị bốn ác báo, đó là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và nếu được làm người thì thân không có tay chưn. Lúc thọ thân quỷ thì trong vô lượng năm chẳng thấy nước uống cũng chẳng nghe danh từ nước uống, lúc thọ thân súc sanh thì thường ăn bùn đất, nếu trở lại làm người thì ở xứ không có Tam bửu. Đời ngũ trược đui mù không mắt sáng, thường bị bịnh nặng ăn món dơ hôi. Bỏ thân người lại đọa vào địa ngục. Tại sao phải ác báo lớn như vậy? Vì kẻ phá giới mà thọ vật đáng là của Pháp sư. Ác Tỳ Kheo nầy có thể hoại diệt, có thể làm dứt Tam bửu nên phải bị ác báo như vậy”.

Trong chúng có một Đại Đức Tỳ Kheo tên là Già Gia Ca Diếp bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thân người như vậy đáng gọi là người chăng? Nay tôi suy nghĩ thì chẳng phải là người vậy. Tại sao? Vì người ấy lòng rất vì lợi dưỡng mà thọ cấm giới nên chẳng phải là người vậy”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Ca Diếp! Thọ các thân địa ngục v.v…, trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy.

Nầy Ca Diếp! Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó gặp nay đã gặp, cấm giới khó thọ nay đã thọ, như vậy mà chẳng xu hướng thánh hạnh phạm hạnh, đây gọi là hư mất sự đại lợi ích.

Ác Tỳ Kheo ấy vì tâm tham ăn, tham tài lợi mà thọ cấm giới, chớ chẳng phải tâm vì chánh pháp. Người ngu si ấy cậy sức đa văn và thế lực quốc vương hay đại thần mà muốn thọ các vật tịnh thí ấy bèn sẽ bị ác quả lớn”.

Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người xuất gia thọ vật như vậy mắc quả như vậy. Còn người tại gia thọ, tội ấy như thế nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nay vua chẳng nên hỏi sự như vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi tu thánh hạnh trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy. Tôi vì các vua ác đời vị lai mà hỏi sự ấy”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu Phật tuyên nói ác nghiệp quả của các ác vương đời vị lai, nếu có kẻ chẳng tin lời Phật sẽ bị ác quả báo lớn. Vì vậy nên Phật thôi không nói đến”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì đời vị lai các Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, người có lòng kính tin phụng trì Phật pháp thủ hộ Pháp sư và tài vật mà phân biệt nói đủ cả cho”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Đại Vương! Nếu các ác vương đời vị lai mà xâm đoạt các vật của Pháp sư như vậy, nên biết ác vương ấy hiện đời mắc hai mươi điều ác:

Một là chư Thiên chẳng vệ hộ. Hai là tiếng ác đồn xa. Ba là thân hữu xa lìa. Bốn là oán địch tăng trưởng. Năm là tài vật tổn hao. Sáu là tâm nhiều tán loạn. Bảy là thân chẳng đầy đủ. Tám là ngủ chẳng yên. Chín là thường lo đói kém. Mười là món uống ăn biến thành ác độc. Mười một là nhơn dân chẳng ái kính. Mười hai là lân quốc hằng xâm lăng. Mười ba là quyến thuộc chẳng chịu nghe lời. Mười bốn là quốc sự bí mật bị mưu thần hiển lộ. Mười lăm là tài vật bị thủy hỏa xâm đoạt. Mười sáu là thường có bịnh nặng. Mười bảy là thuốc men không nghiệm. Mười tám là chẳng chữa lành được. Mười chín là uống nước không xuống. Hai mươi là thường nhớ tưởng bất tịnh. Xả thân rồi liền lại sẽ sanh vô gián ngục chịu khổ một kiếp. Quá một kiếp rồi thọ thân ngạ quỷ ở đồng hoang vắng, chẳng nghe tên nước uống, món ăn, thân thể tàn tật không đủ các căn, thọ khổ não nhiều trong vô lượng kiếp. Thọ quả ngạ quỷ rồi sẽ sanh làm thân thú lớn trong đại hải, thân lớn nhiều do tuần như khối thịt lớn, thường bị các chúng sanh nút cắn rất là đau khổ. Nếu được thân người thì sanh nhằm đời ngũ trược ác không có Phật xuất thế, tàn tật không đủ tai mắt.

Các ác vương vị lai bị những ác báo lớn như vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi thà thọ thân địa ngục chớ trọn chẳng thọ thân ác vương như vậy”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nay Phật đem các tài vật ấy của Pháp sư giao phó cho các vua, những quốc vương có tín tâm. Tại sao? Vì Pháp sư là tạng pháp thân của Như Lai vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể hộ trì pháp tài như vậy, người nầy sẽ được những công đức gì?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Người như vậy hơn tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác.

Nầy Đại Vương! Ví như có kẻ có khả năng giết chết tất cả thập phương chúng sanh, đoạt cả mắt, chặt cả tay chưn.

Nầy Đại Vương! Kẻ ấy mắc tội báo nhiều ít?”.

Vua Tần Bà Sa La yên lặng không đáp.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Cớ sao không đáp?”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Kẻ ấy mắc nghiệp quả ác chẳng thể cân lường, chẳng thể tính đếm.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu gây ác hại như vậy cho một người, tội còn khó kể được, huống là với tất cả người”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Phật tại thế hoặc sau khi diệt độ, nếu có ác vương Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà xâm đoạt những vật như vậy của Pháp sư, mắc tội báo chia làm trăm phần, kẻ ác trên tội báo chẳng bằng một phần trăm ấy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng chánh pháp mà trị nước vua như vậy khó có được. Nếu chẳng phóng dật thì có thể hộ pháp, nếu phóng dật thì chẳng thể hộ.

Bạch đức Thế Tôn! Người hay hộ chánh pháp được công đức gì?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Ví như có người hay ban cho tất cả chúng sanh như trên sự sống còn và mắt sáng cùng tay chưn, người nầy được phước chừng có nhiều chăng?”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Có thể ban cho một người sự sống, mắt sáng và tay chưn, phước còn nhiều, huống là ban cho tất cả ngần ấy người”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu người hộ pháp được công đức chia làm trăm phần, người ban thí trên được phước chẳng bằng một phần trăm ấy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp sư thì có mắc tội chăng? Nếu người ủng hộ một Pháp sư lại có được phước chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp sư cùng của năm Pháp sư mắc tội bằng nhau. Nếu có người hộ trì tài vật của một Pháp sư cùng của năm Pháp sư được phước như nhau không sai khác.

Nầy Đại Vương! Nếu một chùa miếu, hoặc một thôn lạc, một rừng cây trụ năm Pháp sư. Nếu đánh kiền chùy hội tứ phương Tăng. Khách Tăng tập hội rồi theo thứ đệ cung cấp phòng nhà, món uống ăn, ngọa cụ, y dược không tâm lẫn tiếc. Đầu hôm cuối đêm đọc tụng giảng luận nhàm sợ sanh tử chuyên ưa Niết bàn, chẳng tự tán thán thân mình, chẳng nói chỗ dở kẻ khác, thiểu dục tri túc, thường thích tán thán thiểu dục tri túc, siêng tu tinh tiến, chí thích tịch tĩnh, tu tập niệm định, thương mến chúng sanh. Nầy Đại Vương! Đây gọi là chúng Tăng như pháp mà trụ hộ giới, tinh tiến trì mật tạng của Phật, đọc tụng thơ tả phân biệt thánh giáo. Đây gọi là chúng Tăng lân mẫn chúng sanh, lợi ích chúng sanh, hay thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh, cũng hay thọ trì cấm giới tịch tĩnh, đầy đủ tàm quý hiền thánh công đức.

Nầy Đại Vương! Đây gọi là chúng Tăng biển đại công đức, là thầy nhơn thiên hay đại lợi ích vô lượng chúng sanh, hay dứt chúng sanh vô lượng khổ não, hay ban cho tất cả chúng sanh giải thoát. Năm Tỳ Kheo ấy còn gọi là chúng Tăng, hà huống gì đông vô lượng.

Nầy Đại Vương! Nếu vô lượng Tăng đều phá cấm giới, chỉ được năm Tỳ Kheo thanh tịnh như pháp mà trụ, người bố thí được phước vô lượng, chẳng thể cân lường, chẳng thể tính đếm. Tại sao? Do có người hộ trì Phật pháp, thương xót tất cả chúng sanh vậy, vì tâm bình đẳng không có hai tướng vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tỳ Kheo phá giới có được ở trong đại chúng thọ tín thí chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Như trong nước vua có một người tội chưa kịp đày đuổi, vua cấp thí cho hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, người tội ấy có được thọ lạc chăng?”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Không được thọ lạc”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Cũng vậy, phá giới Tỳ Kheo dầu ở trong chúng thọ lấy tín thí chẳng được an lạc. Tại sao? Vì phá cấm giới, vì chẳng như pháp vậy.

Nầy Đại Vương! Người như vậy tất cả mười phương chư Phật chẳng hộ niệm, dầu gọi là Tỳ Kheo mà chẳng ở Tăng số. Tại sao? Vì nhập vào ma giới vậy. Người trì giới là đệ tử Phật. Người phá giới là đệ tử ma. Người trì giới là xuất thế đạo. Người phá giới là nhập thế đạo. Phật đều chẳng cho kẻ phá giới thọ của tín thí chừng bằng hột đình lịch, tại sao? Vì kẻ ấy xa lìa Như Lai pháp vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Người phá giới có những tướng gì có biết được chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Người có trí thì biết được.

Nầy Đại Vương! Nếu có người chẳng có thể cung kính Tam bửu, chẳng sanh tín tâm, không có tàm quý, với Sư trưởng, Hòa thượng, kỳ lão trưởng túc, đồng sư đồng học chẳng sanh cung kính, xô ngã tràng thánh, chẳng tu phạm hạnh, tăng trưởng xan tham, thích ở nhà tục, chẳng có thể thanh tịnh được bốn nghiệp ở nơi miệng, thường tu tâm thực, xa lìa tâm pháp, thích nói sự thế gian vô ích, đây gọi là Tỳ Kheo tướng ban sơ phá giới. Nếu người nầy thọ chứa tôi tớ, voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, lừa, gà, heo, nhẫn đến tám thứ vật bất tịnh, đây gọi là đầy đủ phá cấm giới vậy. Đây gọi là cặn bã trong Sa Môn, là vạy vò trong Sa Môn, là ảo huyễn trong Sa Môn, là giặc trong Sa Môn, là say sưa trong Sa Môn, là Chiên Đà La trong Sa Môn. Tỳ Kheo như vậy chẳng nên cộng trụ, chẳng cộng hòa hiệp, chẳng nên chung làm chín mươi chín yết ma. Đây gọi hư mất sự nghiệp Tỳ Kheo, đọa vào chỗ nghèo cùng.

Nầy Đại Vương! Thà cùng chung ở với hàng Chiên Đà La mà chẳng ở chung với ác Tỳ Kheo như vậy. Tại sao? Vì Tỳ Kheo như vậy thiêu diệt thiện căn, dứt tam thế tâm thiện từ mẫn. Ác Tỳ Kheo ấy chính là cầu tiêu thêm lớn pháp sanh tử, tức là chủng tử ác nhơn thiên, tại sao? Vì người nầy khi dối nhơn thiên khác. Tỳ Kheo nầy làm tắt đèn giải thoát, xô ngã tràng pháp, làm khô biển pháp, hay phá người thuyết pháp, hay phỉnh gạt thí chủ, phá hòa hiệp Tăng. Nếu có ác vương hoặc hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà ủng hộ các ác Tỳ Kheo như vậy, thì là thêm lớn nghiệp ác đạo, là gieo trồng các giống ác nhơn thiên.

Nầy Đại Vương! Nếu ác Tỳ Kheo quở mắng Tỳ Kheo như pháp trụ, thì các vua quan kính tin Tam bửu phải nên phạt đuổi. Nếu phạt đuổi kẻ ấy thì được nhiều phước. Nếu là vua không có tín tâm thì như pháp Tỳ Kheo chẳng nên cùng ác Tỳ Kheo cộng trụ.

Tỳ Kheo có trí nên trước qua chỗ vua mà thưa rằng: “Nay vua có thể hộ trì Phật pháp chăng? Nếu vua đáp là hay hộ trì thì Tỳ Kheo có trí nên nín lặng. Nếu vua ấy có tâm tham, bảo rằng: Nầy Đại Đức! Trong chùa miếu ấy có đông chúng Tăng, sao ta lại vì năm Tỳ Kheo mà xua đuổi nhiều người. Tỳ Kheo có trí nghe lời ấy thì chẳng nên đến nữa, bèn nên bỏ đi đến chỗ tịch tĩnh”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có ác vương tùy thuận theo lời ác Tỳ Kheo như vậy thì cả đại địa nầy làm sao chở được vua ấy, từ đây quá hằng hà sa số kiếp sau trọn không còn được thọ thân người. Vô lượng chúng sanh được giải thoát rồi, ác vương ấy vẫn còn chưa khỏi được nghiệp ba ác đạo”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu đời vị lai có các vua có lòng kính tin Tam bửu, hoặc Sát Lợi, hoặc Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể thủ hộ Pháp sư, tạo lập tháp tượng, cúng dường chúng Tăng các món cần dùng, vì hộ chánh pháp mà trị ác Tỳ Kheo, thà bỏ thân mạng để hộ một Tỳ Kheo như pháp, chớ chẳng hộ vô lượng ác Tỳ Kheo, người hộ pháp nầy xả thân sẽ sanh thanh tịnh Phật độ, thường gặp Tam Bửu, chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Đại Vương! Nay Phật chẳng cho một người thọ chứa tám vật bất tịnh, chỉ cho đại chúng được thọ chứa và dùng.

Nầy Đại Vương! Nếu có người có thể hộ trì chánh pháp, nên biết người nầy là đại đàn việt của thập phương chư Phật Thế Tôn.

Nầy Đại Vương! Tăng vật khó chấp chưởng. Nay Phật chỉ cho hai hạng người chưởng hộ: một là A La Hán Tỳ Kheo đủ bát giải thoát, hai là người Tu Đà Hoàn. Trừ hai hạng người nầy không còn có ai chưởng hộ được Tăng vật vậy”.

Lúc đức Thế Tôn vì vua Tần Bà Sa La nói pháp ấy rồi, phương Đông có quốc độ tên là Vô lượng, có Phật hiệu là Ngũ Công Đức thường nói diệu pháp giáo hóa chúng sanh. Cõi ấy có một Bồ Tát tên là Nhựt Mật chí tâm lắng nghe pháp ngước nhìn hư không thấy có vô lượng vô biên Bồ Tát từ phương Đông đến đi thẳng qua Tây phương, liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thấy phương Đông vô lượng Bồ Tát đi qua phương Tây. Có nhơn duyên gì mà họ bỏ nước tịnh diệu đi qua uế độ?”.

Đức Phật Ngũ Công Đức nói: “Nầy Nhựt Mật! Phương Tây quá đây vô lượng vô biên hằng hà sa số thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, chúng sanh tệ ác đầy trong nước ấy. Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở trong thế giới ấy nói pháp tam thừa, vì muốn tăng trưởng Phật chánh pháp, vì chẳng dứt chủng tánh Tam bửu, vì phá ma giới dựng pháp tràng, vì chánh pháp còn ở lâu mà chẳng diệt tận. Thế giới ấy có vô lượng Phật, vô lượng Bồ Tát tuyên nói bửu kế đà la ni pháp. Đã nói pháp ấy rồi, Thích Ca Như Lai lại nói pháp tam thừa tứ vô ngại trí, bốn thứ phạm hạnh và bốn nhiếp pháp. Vô lượng chúng sanh lúc nghe pháp ấy lòng không mỏi nhàm vì họ thích vị cam lộ vậy. Do bổn nguyện lực của Thích Ca Như Lai nên vô lượng chư Phật, vô lượng chư Bồ Tát đều tập hội cõi ấy. Lúc Phật Thích Ca nói pháp chúng Bồ Tát nhập thiền định. Đã nhập định rồi thân phóng quang minh sáng như một ngọn đèn đuốc, nhẫn đến sáng như ánh sáng cả ức mặt nhựt. Nầy Nhựt Mật! Nếu muốn hộ pháp thì nên khởi định đi đến thế giới Ta Bà.

Nầy Nhựt Mật! Chúng sanh cõi Ta Bà phiền não bền chặt, hệ phược sâu nặng, thân hình xấu xí hôi dơ, họ nhiều kiêu mạn ác khẩu lưỡng thiệt xa lìa thiệt ngữ, họ thiệt ngu si mà hiện tướng trí huệ, nhiều lòng xan tham mà hiện tướng xả ly, có nhiều siểm khúc mà hiện tướng chất trực, tâm nhiều trược loạn mà hiện tướng thanh tịnh, có nhiều tật đố mà hiện tướng nhu nhuyến, thích làm cho người ly biệt mà hiện tướng hòa hiệp, lòng nhiều tà kiến mà hiện tướng chánh kiến. Chúng sanh cõi ấy theo lời phụ nữ, vì nghe theo lời phụ nữ nên đoạn tuyệt thiện căn tăng trưởng ba ác đạo.

Nầy Nhựt Mật! Nay ông vả có thể vì ta mà làm sứ giả chăng? Ta muốn giữ dục khiến Như Lai ấy khéo nói pháp yếu. Nói dục ấy đó là chơn đà la ni. Chơn đà la ni nầy thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt được dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, ngã mạn, tất cả thủ tham, tất cả ngũ cái, tất cả ngã kiến, đoạn kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến, thường kiến, chúng sanh kiến, sĩ phu kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, nhơn kiến, thiên kiến, sắc, thanh, hương, vị, xúc kiến, tứ đại kiến, xuất kiến, sanh kiến, trụ kiến, diệt kiến. Đây gọi là tùy như thuận nhẫn. Đà la ni nầy chơn thiệt biết sắc đến thức, nhãn đến ý, ấm nhập giới, giải thoát pháp giới, vô thượng diệu lạc.

Nầy Nhựt Mật! Chúng sanh Ta Bà thế giới kia như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á, tham dục say cuồng, vì vậy nên ta giữ dục pháp tùy như chơn thiệt đà la ni, đây là tạng tất cả pháp, là pháp môn bất khả tư nghị có thể phá hoại tất cả bạn đảng ma và cảnh giới ma.

Nầy Nhựt Mật! Đà la ni nầy cũng hay điều phục tất cả ma chúng, hay khủng bố tất cả ác độc long, hay khiến ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay cảm hóa tất cả A Tu La chúng, hay điều tất cả kim sí điểu, hay bố tất cả Khẩn Na La, hay làm cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà sanh lòng kính tin, hay phá tất cả kẻ tham thân nữ, khiến người đa văn sanh lòng ưa thích, người tập thiền định tâm được tịch tĩnh, hay khéo chữa lành tất cả ác trọng bịnh, hay trừ tất cả ác tướng trong quốc độ như là ác tặc, ác điểu, ác thú, ác phong, ác vũ, ác hàn, ác nhiệt.

Nầy Nhựt Mật! Nếu có người hay tụng đà la ni nầy thì có thể được thấy vô lượng chư Phật.

Nầy Nhựt Mật! Ông thọ trì chú nầy đến thế giới Ta Bà kia hướng hàng tứ chúng mà tuyên nói đầy đủ đó”.

Đức Ngũ Công Đức Như Lai liền nói đà la ni rằng:

Bà di bà xà ba lợi bà linh, bà hê bà ha ba lợi bà linh, ti lợi si tỉ ti lợi si ba lợi bà linh, a tỳ a bà ba lợi bà linh, để để để xà ba lợi bà linh, ma linh ma la ba lợi bà linh, khê kỳ khước già ba lợi bà linh, a lộ xí a lộ ca ba lợi bà linh, đá mế đá ma ba lợi bà linh, tư linh tư la ba lợi bà linh, già mế già ma ba lợi bà linh, a bộ bà a bộ bà ba lợi bà linh, la ma, la ma, la ma, la mế, la ma, lã la, lã la, ma tỉ tóa nhã na, phục đa kỳ hê phục đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, giá táp kỳ lực hê giá táp kỳ lực ma ba lợi bà linh, thâu lộ đa kỳ lực hê thâu lộ đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, kỳ lãng na kỳ lực hê kỳ lãng na kỳ lãng ma ba lợi bà linh, thời chúc kỳ lực hê thời chúc kỳ lãng ma ba lợi bà linh, ca xà kỳ lực hê ca xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, ma na kỳ lực hê ma na kỳ lực ma ba lợi bà linh, bát thi kỳ lực he bát đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, tỳ đà na kỳ lực hê tỳ đa na kỳ lực ma ba lợi bà linh, thất nang kỳ lực hê thất nang kỳ lực ma ba lợi bà linh, ưu ba đà kỳ lực hê ưu ba đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, bà bà kỳ lực hê bà bà kỳ lực ma ba lợi bà linh, xa đề kỳ lực hê xà đề kỳ lực ma ba lợi bà linh, xà lã ma na la kỳ lực hê xà lã ma na la kỳ lực ma ba lợi bà linh, đậu khê tát đa ba kỳ lực hê đậu khê tát đa ba kỳ lực ma ba lợi bà linh, a lã ba lã chùy xà kỳ lực hê a lã ba lã chùy xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, a bạt đa, tỉ bạt la tả, a ba lã mâu ba ma tát tả tỉ già, tỉ ni bạt đa, a đà lợi dã lại mế, tán tỉ già phiến đề, sá ha.

Nhựt Mật đại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có thể đến nơi Ta Bà thế giới kia tuyên nói chú ấy, chỉ ở nơi cõi ấy sanh lòng e sợ. Tại sao? Vì vừa rồi Như Lai vì tôi mà tuyên nói chúng sanh cõi Ta Bà có nhiều tệ ác dường như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á, tùy theo ý nữ nhơn.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thuận theo ý nữ nhơn thì nên biết người ấy dứt hẳn thiện căn”.

Đức Ngũ Công Đức Như Lai nói: “Nầy Nhựt Mật! Nay ông chẳng vì hiện lợi hậu lợi mà nên vì lợi ích tất cả chúng sanh, chỉ qua đó tuyên nói thần chú chớ có lo sợ.

Nầy Nhựt Mật! Ông chẳng phải là Duy Ma Cật ở bên kia ư! Cớ chi ông lại lo sợ?”.

Nhựt Mật Bồ Tát nín lặng không đáp.

Đức Phật nói: “Nầy Nhựt Mật! Sao ông yên lặng vậy?”.

Nhựt Mật Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy Ma Cật kia tức là thân tôi. Tôi ở cõi kia hiện thân hình bạch y vì các chúng sanh mà tuyên nói pháp yếu, hoặc có lúc tôi hiện thân Bà La Môn, hoặc Sát Lợi, thân Tỳ Xá, thân Thủ Đà, hoặc thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đế Thích, thân Phạm Thiên, hoặc hiện thân Long Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, hoặc hiện thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Trưởng giả, thân Nữ nhơn, thân Đồng nam, thân Đồng nữ, thân Súc sanh, thân Ngạ quỷ, thân Địa ngục, tôi hiện các thứ thân hình như vậy để điều phục chúng sanh”.

Lúc ấy trong chúng có tám vạn Bồ Tát đồng một tam muội, xuất nhập cùng đồng, còn có vô lượng vô số Bồ Tát tâm điệu động, chí tâm hệ niệm muốn được gần lễ lạy Thích Ca Mâu Ni Phật và đại chúng, cũng muốn nghe học kinh điển Đại thừa vi diệu. Đại chúng như vậy đều đồng lòng muốn qua Ta Bà thế giới.

Nhựt Mật Bồ Tát nghĩ rằng: Ta vì đại chúng nầy muốn nói đại sự. Tại sao? Vì đại chúng nầy tâm họ chưa định, nếu qua cõi kia hoặc có thể họ sanh tâm điên đảo gần kề ác tri thức.

Đức Ngũ Công Đức Phật bảo Nhựt Mật Bồ Tát rằng: “Nầy Nhựt Mật! Nay ông chớ nên sanh lòng e sợ, nay ta sẽ ban cho đại chúng Bồ Tát bất cộng pháp hành, vô tưởng hành, điều phục hành, giải thoát hành, phân biệt sanh tử hành, bất đoạn Tam bửu hành, đại từ đại bi hành, Nhứt thiết trí giải thoát hành, phá hoại tứ ma ác tà luận hành, tận trí vô sanh trí hành, tất cánh nhập Niết bàn hành. Đây gọi là liên hoa đà la ni môn. Đà la ni nầy làm cho Bồ Tát chẳng thích ưa tam giơi mà chứng vô tướng giải thoát môn và nhập vô hành giải thoát môn.

Nầy Nhựt Mật! Nếu người tin thì nên chí tâm lắng nghe liên hoa đà la ni nầy, người ấy hay nhẹ mỏng tất cả tham dục, tất cả phiền não, xả thân bảy đời thường được sanh cõi trời, nhớ biết túc mạng, dầu ở Dục giới chẳng bị dục làm ô nhiễm, thường thích xuất gia, được nhơn thiên vui cúng dường. Nếu có người hay bảy ngày chí tâm rồi lắng nghe đà la ni nầy thì trọn chẳng đọa lạc trong ba ác đạo. Nếu hàng nhơn thiên lắng nghe đà la ni nầy thì xa lìa tham dục mà tu tập thiền định. Nếu có người hay đối với Quốc Vương, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà tuyên nói liên hoa đà la ni nầy, người nghe liền phát tâm xuất gia. Nếu nữ nhơn chí tâm nghe đà la ni nầy, thọ trì đọc tụng liền chuyển thân nữ nhơn, được thân nam tử, nơi Vô thượng Bồ đề tâm không thối chuyển, nhẫn đến được Đại bát Niết bàn, trọn chẳng còn thọ thân nữ nhơn, trừ tự phát nguyện.

Nầy Nhựt Mật! Nếu có người hay đem chú nầy mà chú các cây cỏ thuốc, rồi đem sơn trét trống loa, lúc đánh lúc thổi, người nghe tiếng, tất cả tà kiến cổ độc, các bịnh tệ ác đều không làm hại được. Liên hoa đà la ni nầy thành tựu vô lượng phước đức”.

Liền nói chú rằng:

Tư đà ma đề, tỉ lộ ca ma đề, y lê sí để lợi tỉ, lưu giá tu lưu giá, phật đề tỉ phật đề, ma ha phật đề, ôn ma đề ôn ma đa ba la đề tỉ đa ninh, la già bà la ca đà ba lợi đề tỉ đà ninh, tần đậu tần đậu ma đề, chí tra chí tra ba la đề tỉ đà ninh, át sí chiến đà đậu, ha ha chí trí, ha đa ni mế, ha đa ca ma tỉ kỳ, ha đa phú na bà bà la xà, ha đa tam mộ để, ha đa tỉ ma đa phật đề, ha đa xà kỳ ly, ha đa tỉ tam ma kỳ ly, ha đa tam mâu đà xà tỳ, ha đa tỉ ma đa lã kỳ, ha đa hi hê, ha đa giá tri, ha đa đạt ba la xà, ha đa bà hưu la xà, ha đa bà xà ma đề, ha đa lưu già ma đề, ha đa ô già lại mế, ha đa đà ma mật đề, ha đa tát bà ưu ba đà na, nhã nhã nhã, tỉ xà nhã nhã, tỉ bà xà nhã nhã, bà lã mạt lực già nhã nhã, y sa an đâu lã già đậu xí, sá ha.

Nầy Nhựt Mật! Liên hoa đà la ni ấy hay dứt tứ lưu, ông nên chí tâm thọ trì đà la ni ấy mà đến cõi Ta Bà. Tại sao? Vì thế giới kia có trăm ức ma chúng hay phá hoại các thiện pháp của chúng sanh, các ông nếu tụng đà la ni ấy thì chẳng bị ác ma kia xâm phạm.

Nhựt Mật Bồ Tát cùng vô lượng ức chư Bồ Tát và vô số nhơn thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Lai trí huệ bất khả tư nghị, từ trước chúng tôi chưa từng nghe đà la ni ấy”.

Lúc ấy tám vạn bốn ngàn nữ nhơn thế giới vô lượng nghe liên hoa đà la ni rồi liền chuyển thân nữ thành thân nam.

Phật Ngũ Công Đức lấy tràng hoa chiêm bà bảo Nhựt Mật Bồ Tát rằng: “Nầy Nhựt Mật! Ông cầm tràng hoa chiêm bặc nầy và đà la ni qua thế giới Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni”.

Trong đại hội có tám vạn Bồ Tát đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới”.

Đức Ngũ Công Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Các ông nếu đi thì nên hiện thân Phạm Thiên”.

Đại chúng Bồ Tát ấy liền hóa làm thân Phạm Thiên qua Ta Bà thế giới đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, đầu mặt lễ lạy, hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía, bấy giờ, cả cõi Ta Bà liền có trận mưa hoa chiêm bà khắp mọi nơi.

Đức Phật vẫn vì vua Tần Bà Sa La tuyên nói pháp hành.

Nam phương quá số thế giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có một thế giới tên là Ca Sa Tràng đủ ngũ trược, có Phật hiệu là Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại vì chúng sanh tuyên nói pháp yếu. Có một Bồ Tát hiệu là Hương Tượng Vương ngước nhìn hư không thấy có vô lượng Bồ Tát từ phương Nam đến đi thẳng qua phương Bắc liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng đại Bồ Tát từ phương Nam đi thẳng qua phương Bắc?”.

Đức Phật Sơn Vương Như Lai nói: “Nầy Hương Tượng Vương! Về phương Bắc quá số thế giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có thế giới tên Ta Bà, Phật Thích Ca Mâu Ni ở đó tuyên nói kinh Đại Tập vi diệu, phân biệt tam thừa để chẳng dứt chủng tánh Tam bửu, chẳng dứt pháp hành, phá ma giới, dựng pháp tràng. Tất cả mười phương chư Phật Thế Tôn ở nơi cõi ấy tuyên nói giải bày Bửu tràng đà la ni, nói chư Phật trở về bổn xứ. Thích Ca Như Lai vì chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn tuyên nói pháp yếu. Các ông có muốn qua Ta Bà thế giới nghe học pháp chăng? Nay ta cũng muốn giữ dục cho đức Phật ấy, đó là Đoạn nghiệp đà la ni, tùy thuận không môn, dứt tham sắc, kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn, nhẫn đến để được tận trí, vô sanh trí vậy”.

Liền nói chú rằng:

Đậu mạc đề, đậu mạc đề, áo xoa đậu mạc đề, ba la bà sa đậu mạc đề, tát bà a ca xá đậu ma, a tỳ khê già, tỳ mế đa khê già, a tỳ xoa khê già, a bà mạc a khước già, a na nhã khước già, tỳ dã phật đề khước già, bà lộ giá khước già, thức xí khước già, tỉ đề di lã khước già ô số ma khước già, ô la khước già, a xoa khước già, xà bà ma na khước già, thấp ba ba khước già, xà bà tỉ nhã na khước già, giá táp đà đâu khước già, xà bà ma ná tỉ nhã na đà đâu khước già, ti lợi si tỉ đà đâu khước già, xà bà tỉ nhã na đà đâu khước già, chiết tóa lợi mật đâu ba na khước tỉ già, xà bà a tỳ đà ni ca khước già, đậu khê khước già, xà bà mạt lực khước già, tỉ bà bà na, a tỉ xoa bà, a bà na na, tỉ na na, bà mâu đà na na, tát bà ca lã na na, tát bà tán đá na tỉ cụ ba na na, a ký chi na na, xoa bà, xoa bà, y lợi, mật lợi, y y lợi, y y lan di lợi, sá ha.

Nầy Hương Tượng Vương! Đây gọi là tùy không tam muội đà la ni vậy. Đà la ni nầy có năng lực dứt hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham, nhẫn đến dứt trừ tất cả phiền não. Ông nên nhứt tâm thọ trì đọc tụng đà la ni nầy, qua thế giới Ta Bà kia giáo hóa chúng sanh”.

Hương Tượng Vương Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đọc tụng đà la ni tùy thuận không tam muội ấy, nay tôi muốn qua thế giới kia nhưng có lòng e sợ. Tại sao? Vì tôi từng nghe đức Phật nói chúng sanh cõi Ta Bà tệ ác, có nhiều tham sân si”.

Đức Phật Sơn Vương nói: “Nầy Hương Tượng Vương! Ông thường hóa hiện nhiều thân để giáo hóa chúng sanh, hoặc hiện thân Bà La Môn, thân Ma Hê Thủ La, thân Đế Thích, thân Na La Diên, thân chư Thiên, thân Quỷ, thân Rồng, thân A Tu La, thân Chuyển Luân Vương, thân Bà La Môn, thân Sát Lợi, thân Tỳ Xá, thân Thủ Đà, thân Đại thần, thân Trưởng giả, thân Thanh Văn, thân Duyên Giác, thân Nam, thân Nữ để giáo hóa chúng sanh. Sao lại nói với thế giới kia có lòng e sợ ư!

Nay ta sẽ ban cho ông đại pháp hành pháp Nhứt thiết trí huệ hay biết được các hành, hay phá tứ ma hành, hay điều tất cả chúng sanh hành, hay hỉ tất cả chúng sanh hành, chẳng dứt Tam bửu hành, hay điều tất cả ác long hành, hay phá tất cả chúng sanh ác nghiệp hành, đại từ đại bi hành, phá tam ác đạo hành, cứu chúng sanh hành, phá ác kiến hành, hay phá nữ nghiệp hành, tất cả pháp vô tận hành, hay phá tất cả xan tham hành, hay được tất cả tam muội thần thông hành, hay khiến chúng sanh hoan hỉ hành, nhẫn đến có thể được Bồ đề đạo hành.

Nếu có chúng sanh nghe các hành nầy thì nên biết người nầy có thể phá hoại hằng hà sa các ác nghiệp nhơn duyên, dứt tuyệt ba chướng, chỉ trừ tội ngũ nghịch, hủy báng kinh phương đẳng Đại thừa và chê bai Thánh nhơn. Vì thế nên có người tín tâm hay nghe hay học các hành như vậy, thì người nầy tùy ý chứng được tam thừa, chẳng rời thập phương chư Phật, chư Bồ Tát, A La Hán, hay thanh tịnh ba nghiệp, tùy chúng sanh ý. Nên biết người nầy có thể xả thí tất cả, nhẫn đến đầu mắt, tất cả các ác độc chẳng gia hại được. Người nầy nếu lúc Thi la Ba la mật thì được đủ nhẫn giới, giới Thánh nhơn ưa, giới Thánh nhơn nhớ, giới đại tịch tĩnh, giới điều phục Phạm, Thích, Tứ Vương, giới điều phục Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, người nầy trọn chẳng tự khen mình mà chê trách người, tâm thường quở trách lợi dưỡng thế gian, ngủ yên thức an, thân không bịnh khổ, dễ được uống ăn, mọi người đều thích thấy, lúc chết người ấy được thấy chư Phật, chư Bồ Tát khen rằng: Lành thay, lành thay! Ngươi khéo trì cấm giới tinh tiến không lười sẽ sanh nước ta, ta có thể làm cho ngươi trụ bực Thập trụ. Do thấy Phật lòng hoan hỷ, do nhơn duyên ấy nên xả thân liền sanh tịnh quốc, vị ngang bực Thập trụ, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.

Người nầy nếu hành Tỳ lê gia Ba la mật thì thành tựu đại lực, thân tâm không tật bịnh, đi đứng mạnh mẽ, thành tựu Bố thí Giới Ba la mật. Hàng chư Thiên và Bát Bộ Thần đều đến cúng dường, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.

Nếu lúc hành Sằn đề Ba la mật, được pháp duyên nhẫn, chẳng giác chẳng thấy tất cả chúng sanh. Người nầy nếu bị tất cả chúng sanh cắt thẻo thân thể trọn chẳng sanh một niệm giận thù, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được nhơn thiên cúng dường.

Người nầy nếu lúc hành Thiền Ba la mật được pháp duyên thiền định giải thoát, thập phương chư Phật không lúc nào chẳng hộ niệm, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được hàng nhơn thiên cúng dường.

Người nầy nếu lúc hành Bát Nhã Ba la mật, thường được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, thích nơi tịch tĩnh, điều phục tâm giới, tỏ rõ, thông đạt tất cả pháp giới, tâm không nghi ngại, tất cả nhơn thiên chẳng thể trở ngại, phá hoại được tâm người nầy, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được nhơn thiên cúng dường.

Nầy Hương Tượng Vương! Người thọ trì hành ấy thì qua thế giới Ta Bà không còn kinh sợ.

Nầy Hương Tượng Vương! Nếu là kẻ mà tịnh thế giới không chấp nhận thì đều ở cõi Ta Bà ấy, đó là kẻ phạm tội ngũ nghịch, hủy báng kinh điển phương đẳng Đại thừa, chê bai Thánh nhơn, phạm tứ trọng cấm. Những kẻ như vậy làm ô nhục thế giới Ta Bà. Phật Thích Ca Mâu Ni vì bổn nguyện nhơn duyên nên hiện thân trong cõi ấy.

Nầy Hương Tượng Vương! Nếu người ác cõi ấy nghe hành nầy thì trong bảy năm tu từ bi tâm, lìa bốn lỗi nơi miệng, tu tập lục niệm. Người nầy lại phải tự tắm gội sạch sẽ, mặc y phục mới sạch, hướng về phương Đông, chí tâm lễ lạy, tụng đại hành đà la ni, nhẫn đến bảy năm, tất cả các tội ác đều tiêu diệt cả. Nếu có nữ nhơn hay hành như vậy liền chuyển thân nữ thành thân nam, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề”.

Liền nói chú rằng:

Xá la na tỳ xà, thức xoa tỳ xà, mật đề tỳ xà, ba la ha na tỳ xà, luật đề tỳ xà, nhơn đề lợi xà tỳ xà, bà la tỳ xà, bộ trừng già tỳ xà, tam ma đề tỳ xà, đà la ni tỳ xà, xoa đề tỳ xà, trường na tỳ xà, a lưu ba tỳ xà, đà ni xà tỳ xà, mạt lực già tỳ xà, a bí nhã tỳ xà, ba la đề tán tỉ đà tỳ xà, phục di tỳ xà, bí đà tỳ xà, ma ha mế la tỳ xà, ma ha già lưu na tỳ xà, ty lợi si tỉ tỳ xà, tát đoả tỳ xà, đà ma tỳ xà, đa ma tỳ xà, a lộ ca tỳ xà, ba la đề ba sa tỳ xà, ba la đề thủ lục ca tỳ xà, già già na tỳ xà, ma lưu đa tỳ xà, thủ nhã đa tỳ xà, ba la đề đa tỳ xà, a ni mật đa tỳ xà, cụ sa tỳ xà, cần giá na tỳ xà, a tỷ bà sa, a nâu na, a nâu na, a bà ha giá giá, giá giá la tỉ mâu, xoa xà tỉ mâu, a ma tỳ xà tỉ mâu, a tam mâu đà giá la tỉ mâu, xa đà tỉ mâu, a ca xá tỉ mâu, bộ ba xá ma tỉ mâu, a na bà sa tỉ mâu, a ha ha tỉ mâu, a la ba lã tỉ mâu, úc ba xá ma sa lợi la tỉ mâu, sá ha.

Hương Tượng Vương Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi thọ trì đọc tụng thơ tả đại hành đà la ni rồi qua Ta Bà thế giới”.

Cõi ấy còn có vô lượng đại Bồ Tát khởi định đồng bạch Phật Ngũ Công Đức rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn cùng qua Ta Bà thế giới kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và nghe học kinh điển Đại Tập”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Các ông muốn qua cõi đó thì tùy ý, nay chánh là phải lúc. Các ông nên hóa làm thân Thiên Đế Thích”.

Hương Tượng Vương Đại Bồ Tát cùng đại chúng Bồ Tát đều biến thân làm Thiên Đế Thích cùng đến Ta Bà thế giới. Đến nơi rồi, liền mưa các thứ hương xuống Ta Bà thế giới, đó là hương ngưu đầu chiên đàn, hương kiên ngạnh, hương đa ma la bạt, hương trầm thủy, hương đa già la để cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật.

Hương Tượng Vương đại Bồ Tát cùng chúng Bồ Tát từ hư không xuống, đầu mặt lễ Phật, hữu nhiễu ba vòng, ngồi qua một phía.

Tây phương thế giới quá bốn mươi hằng hà sa số chư Phật thế giới, có thế giới tên là Kiên Tràng đủ ngủ trược, có Phật hiệu là Cao Quý Đức Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn hiện đương tuyên nói pháp yếu giáo hóa chúng sanh. Có một Bồ Tát tên là Quang Mật Công Đức ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng Bồ Tát chúng từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông?”.

Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Phương Đông quá bốn mươi hằng hà sa số chư Phật thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, do nhơn duyên ấy nên Thích Ca Mâu Ni Như Lai vì các chúng sanh tuyên nói diệu pháp tên là Đại Tập phân biệt tam thừa để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam bửu, để phá ma giới, để dựng pháp tràng, ấy tuyên nói pháp tràng đà la ni, nói rồi chư Phật đều trở về bổn trụ xứ.

Thích Ca Như Lai vì chư Bồ Tát chúng Thanh Văn phô diễn tuyên nói tứ vô ngại trí thanh tịnh phạm hạnh.

Nay ông có muốn qua cõi đó để thấy đức Phật Thích Ca chăng? Nay ta cũng muốn giữ dục cho đức Phật ấy. Nói là dục ấy, đó là đoạn nghiệp đà la ni, tùy vô nguyện định, thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn, nhẫn đến tận trí, vô sanh trí, được Vô thượng Bồ đề”.

Liền nói chú rằng:

Xá na xá bà, ma xá na xá bà, a bà xoa xá, xoa táp xá bà, giá táp xá bà, thâu lô đa xá bà, kỳ lãng na xá bà, thị chúc bà, ca xà xá bà, ma na xá bà, xoa bà bí đà, giá táp ti lợi si tỉ xoa bà, thâu lô đa a bà xoa bà, kỳ lãng na để kỳ xoa bà, thị chúc bà do xoa bà, ca xa ca lã ma xoa bà, ma na ô xà xoa bà, a lộ ca nhã xà xoa bà, tần xà tán ca la ma xoa bà, an cừu lã khước già xoa bà, ma lưu ba tỳ xà xoa bà, xá ma ca xà xoa bà, xoa xà lã sa xoa bà, phiến đa tỳ sa lã xoa bà, na nô na, nê na nô na, a bà nê na nô na, na xà ba na di na nô na, y bàn đô đầu khê tả, sá ha.

Nầy Quang Mật Công Đức! Ông thọ trì đà la ni nầy qua thế giới Ta Bà, trước lễ Phật thăm hỏi mạnh khoẻ rồi tuyên đọc chú ấy.

Quang Mật Công Đức Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đà la ni ấy. Tôi dầu muốn qua đó mà lòng e sợ. Tại sao? Tôi có từng nghe đức Thế Tôn nói chúng sanh cõi Ta Bà thành tựu ác kiến, nhiều tham sân si, tùy theo lời nữ nhơn, hay mau tạo nghiệp địa ngục A Tỳ”.

Đức Phật nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Ông chẳng phải chính là đại kim sí điểu ở tứ thiên hạ giữa hai giới Dục Sắc, nơi cõi kia ngày hai mươi mốt khủng bố đại hải sáu vạn bốn ngàn ức các đại Long Vương khiến được quy y Tam bửu Phật, Pháp, Tăng, phát tâm Vô thượng Bồ đề ư?”.

Bồ Tát nói: “Thiệt như lời Phật dạy, bạch đức Thế Tôn!”.

Đức Phật nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Quốc độ bị khô hạn, ông chẳng phải là tượng long, mã long, kim sí điểu long trong bảy ngày đêm tuôn mưa lớn và khủng bố các ác long ư?”.

Bồ Tát nói: “Thiệt như lời Phật vừa nói, bạch đức Thế Tôn!”.

Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Ở trong các ác long như vậy mà ông còn chẳng e sợ, nay duyên cớ gì mà lại e sợ ư?”.

Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Ví như người trí nghe xứ khác có nhiều bửu tàng bèn đến nơi ấy bươi tìm. Bươi lần lần thấy báu, lòng rất vui mừng, trọn không mỏi nhàm. Nay tôi cũng vậy, nhơn hỏi Phật được nghe thiệt ngữ. Nghe lời Phật rồi, tôi được đại thế lực, có thể chấp Phật ấn điều phục chúng sanh cõi Ta Bà ấy”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Ta sẽ ban cho ông đại thần chú hay tịnh các nghiệp, hay tịnh nhơn duyên, hay tịnh điều phục, hay tịnh nơi dục, tịnh tăng trưởng, tịnh bình đẳng, tịnh ác phong, tịnh hành, tịnh vô minh, tịnh sanh tử, tịnh tất cả phiền não, tịnh tất cả pháp hữu vi tam giới, tịnh bỉ thử. Đây gọi là thần chú.

Nầy Quang Mật Công Đức! Chúng sanh cõi ấy được nghe thần chú nầy thì kiết sử thượng trung hạ đều mỏng kém, Sắc giới, Vô Sắc giới phiền não cúng kém mỏng, đều được siêu việt các nghiệp trong hằng hà sa số kiếp, tất cả ngũ đạo thân khẩu ý ác đều khiến thanh tịnh.

Nếu có người nghe học chú nầy thọ trì đọc tụng, nhẫn đến bảy ngày chí tâm chẳng quên, nên biết rằng người nầy tất cả tội ác đều tiêu diệt, trừ ngũ nghịch, hủy báng kinh điển phương đẳng Đại thừa, chê bai thánh nhơn, phạm bốn trọng tội. Người nầy cầu mong điều gì, nhẫn đến Bồ đề đều tùy ý liền được. Nếu người nầy muốn tu hành Đàn Ba la mật, nhẫn đến Bát Nhã Ba la mật liền được thành tựu.

Nầy Quang Mật Công Đức! Chúng sanh nơi thế giới Ta Bà kia không có nhơn duyên gì mà phải bị pháp quở trách, tại sao? Vì mười phương thế giới các chúng sanh bị phạt đuổi đều đến sanh trong thế giới Ta Bà. Vì vậy mà họ hay tạo nghiệp ngũ nghịch, hủy báng Đại thừa chê bai thánh nhơn phạm bốn tội trọng. Do nhơn duyên nghiệp ác như vậy nên họ sanh trong ba ác đạo, thọ vô lượng khổ. Đã thọ khổ rồi họ lại chẳng thể được pháp thập thiện, vì vậy mà họ lại sanh ở Ta Bà thế giới. Người ấy nếu trước có tu tập thiện căn như tín căn đến huệ căn thì trọn chẳng sanh vào quốc độ tệ ác. Vì họ tạo nghiệp nhơn ác nên sanh nơi ác quốc độ, các căn thiếu khuyết tàn tật, thân người chẳng đủ, không có niệm tâm, những món cần dùng và các thứ uống ăn, y phục, ngọa cụ, thuốc men, phòng nhà đều khó được, thọ mạng ngắn ngủi, ngủ thức chẳng yên, trí huệ, thiện căn, phước đức đều không đủ, sự lành tốt ít có, họ không có tâm từ bi, ưa làm việc ác độc, ưa tu ác kiến, thích đọc sách tà luận, ưa tin bạn xấu ác, ưa phát nguyện xấu ác, thân nhiều bịnh dữ, nhiều sự việc ác, thường vui thích thêm lớn nhiều pháp tam ác đạo, kính thờ tà thần, bẩm tánh tệ ác, ưa cợt đùa, ganh ghét, thành tựu đầy đủ các nghiệp bất thiện, ưa hủy báng Tam bửu, thích đi trong ba ác đạo.

Các chúng sanh như vậy nếu được nghe thần chú nầy rồi thì ở trong sanh tử, họ sẽ sanh lòng hối, rời lìa ác đạo, tu tập tín căn đến huệ căn, họ cũng sẽ thích tu hành sáu Ba la mật, thanh tịnh phạm hạnh, thêm thọ thêm phước, trừ bịnh ác khổ, trí huệ xí thạnh, thân hậu không giảm, tất cả thiện pháp không có hao tổn, thành tựu đầy đủ pháp thập thiện, thêm thạnh Tam bửu, thích tu pháp hành. Thần chú nầy có thể làm cho các chúng sanh đầy đủ vô lượng thiện pháp như vậy.

Nầy Quang Mật Công Đức! Các chúng sanh cõi Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu là người thọ trì cấm giới, kính tin Tam bửu, thưa hỏi diệu pháp, đọc tụng thơ tả, được tâm hoan hỉ, do nhơn duyên ấy liền được qua khỏi nghiệp ba ác đạo, nếu có tội trọng ác vị lai thì hiện tại thọ, hoặc hơi nhức đầu, hoặc mất tài vật, hoặc quyến thuộc hư lìa, danh xấu đồn xa, hoặc bị đánh mắng thì được trừ khỏi.

Thần chú này hay phá tất cả ác nghiệp đã có, hay làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay làm đại quang minh, được đại niệm tâm, làm đại tịch tĩnh. Người nầy thường được thập phương chư Phật, chư Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác hộ niệm, được Thiên, Long, Quỷ, Thần thường ủng hộ. Lúc lâm chung, người nầy thấy thập phương chư Phật, nghe Phật thuyết pháp, chư Phật khen rằng: Lành thay, lành thay! Nhà ngươi đến sanh trong quốc độ tịnh diệu của ta, ta có thể khiến ngươi mau trụ bực Thập địa. Người nầy nghe lời Phật nói liền sanh lòng hoan hỉ. Vì tâm hoan hỉ nên được thâm tín, do đây được sanh nơi quốc độ tịnh diệu. Sanh rồi liền lên bực Thập trụ được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Quang Mật Công Đức! Ông nên thọ trì thần chú nầy, đọc tụng thông thuộc, qua Ta Bà thế giới, trước thăm hỏi lễ kính Thích Ca Mâu Ni Như Lai rồi sau tuyên đọc đó”.

Đức Phật Cao Quý Đức Vương liền nói chú rằng:

Khước già ba lợi xa đà, kiệt bà xoa tư, kiệt bà linh, bí đà ba lã bà già sai, xoa bà du kỳ, ba lã đề ha linh, xa ma na tư ca đề, tam ma mế già thọ tỉ, ha xoa xà na để, xoa bà bà kỳ, ni đà na xà tỉ, tam ma na xà tỉ, a đà xá xà xà tỉ, tỉ ba lã bà xà tỉ, tư xoa xà tỉ, tư nhã xà bà xà tỉ, xa lợi la cừu ha xà tỉ, sa la cừu ha xà tỉ, xí bà na câu thi, sa đà na câu bạc, tư bà đà na đề, tỉ bà ba lã la để, ưu ba ca la ma na đề, a na bà đá la xí, ba la đề ca lã mế na, ba ca tha thi, bà lô giá na bà mế ca lã tha đà linh, ca ma sa thi, a xá khước kỳ, na xà quân kỳ, bí đà bà ninh, cơ ly na bà ninh, lưu giá bà ninh, bà mế ma ca linh, xá lợi xà bà ninh, ma già xà tỉ, ha lợi câu na bà, na xà na mục xí, sa la xoa câu la, na xà na thọ linh, nhơn đà la bà sa ninh, ô a, a bà a, a lã bà a, bà lã a bà lã lã, bà mế già đậu khê ni đề la niết bàn hi, sá ha.

Đức Cao Quý Đức Vương Như Lai nói thần chú xong, Quang Mật Công Đức đại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đà la ni ấy sẽ qua Ta Bà thế giới tuyên đọc điều phục chúng sanh”.

Còn có vô lượng Bồ Tát đại chúng đồng thanh nói: “Lành thay, lành thay! Hôm nay chúng tôi cũng đều muốn qua thế giới đó”.

Đức Phật nói: “Đã phải lúc, các ông có qua đó thì nên biến làm thân Na La Diên”.

Quang Mật Công Đức đại Bồ Tát và đại chúng Bồ Tát tất cả biến thân làm Na La Diên đồng đến Ta Bà thế giới. Đến rồi mưa cát vàng ròng mịn nhuyễn để cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni rồi từ hư không xuống, đầu mặt kính lễ, hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.

Phương Bắc quá tám vạn hằng hà sa số thế giới chư Phật, có thế giới tên là Phổ Hương Thân đủ ngũ trược, Phật hiệu là Đức Hoa Mật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại vì chúng sanh thuyết pháp giáo hóa. Có Bồ Tát tên là Hư Không Mật ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ Bắc phương đến đi thẳng qua phương Nam, liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng Bồ Tát từ phương Bắc đến đi thẳng qua Nam phương?”.

Đức Phật nói: “Nầy Hư Không Mật! Phương Nam quá tám vạn hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiện tại vì chúng sanh tuyên nói diệu pháp, phân biệt tam thừa, dựng pháp tràng, rộng nói pháp tụ. Thập phương chư Phật đều tập hội cõi ấy, vì chư Bồ Tát giải nói bửu tràng đà la ni rồi đều trở về bổn trụ xứ. Thích Ca Như Lai vẫn vì đại chúng Bồ Tát Thanh Văn tuyên nói pháp yếu có nhiều lời bí mật cam lồ. Nếu muốn nghe thì nên qua cõi đó.

Thích Ca Như Lai thường phát đại nguyện, nếu có thập phương chư Bồ Tát đến nghe ta nói pháp liền được mười tám pháp bất cộng. Lại nguyện rằng lúc ta thành Phật rồi, nguyện đất đai cõi ta có đủ thượng vị. Chư Bồ Tát cõi ấy có đại niệm tâm, tinh tiến, trì giới, trí huệ đầy đủ như ở thế giới thanh tịnh chư Phật, tu tập đầy đủ thiền định, lúc nhập thiền định thân họ phóng quang minh hoặc sáng như một ngọn đèn, nhẫn đến sáng như trăm ngàn vô lượng nhựt nguyệt. Họ đều tập hội nghe Phật thuyết pháp. Hoặc có thập phương chư Bồ Tát chúng khởi định đều đến cõi ấy kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai, lắng nghe đà la ni du hí thần thông.

Nầy Hư Không Mật! Chúng sanh thế giới Ta Bà thọ mạng ngắn ngủi, nhiều ác bịnh, trí huệ, thiện căn, phước đức, thiện hành thảy đều kém mỏng, họ chẳng biết sợ ba ác đạo khổ, họ tham trước của cải, tâm chẳng thanh tịnh, lòng nhiều tật đố, không có tàm quý, ưa làm mười điều ác, các chúng sanh ấy hoặc có tạp hành, sau khi xả thân liền ở cõi ấy làm đại ác quỉ, nhẫn đến làm ác ca na, phú đơn na, họ làm ác quỷ rồi thâu lấy vị đất, nhẫn đến tất cả các vị dưa trái, lúa gạo, cỏ cây, ai ăn thứ ấy thì sanh ác bịnh, thân mất thể lực. Các ác quỷ ấy thường rình chúng sanh lúc sơ sanh, lúc trưởng đại có thể cướp mất tánh mạng, đây cũng là một cớ mà chúng sanh cõi ấy đoản thọ.

Nầy Hư Không Mật! Trước kia lúc ta tu tập Bồ đề đạo cũng thường phát nguyện: Tôi đời vị lai thường siêng tinh tiến chẳng thôi chẳng nghỉ, cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, nghe học chánh pháp, thưa hỏi thâm nghĩa. Tôi sẽ thế nào thủ hộ người ở thai khiến mẹ con kia sản sanh yên ổn. Hoặc Trời, Rồng, Quỷ Thần, hoặc Quỷ La Sát, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, hoặc Câu Biện Trà, Lệ Lê Đa, Tỳ Xá Giá, Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Thọ Đa La, A Vệ Mạt La, hoặc nhứt hành đến tứ hành, hoặc quỷ khởi thi, hoặc độc cổ, hoặc ác độc dược xúc thân tâm, các độc sự như vậy không làm tổn hại được mẹ con ấy, nhẫn đến lúc bú mớm, ăn uống, nuôi lớn khôn cũng chẳng làm hại được, cũng chẳng khiến tâm loạn trược được, cho đến trong giấc mộng cũng không làm tổn não được, thường hành thập thiện, thích bố thí, thích trì giới, với ba ác đạo lòng sanh bố uý, có chú dược nào hay xong những sự việc như vậy. Lúc bấy giờ, vô lượng Phật liền ban cho ta tịnh đà la ni. Do sức lực của đà la ni ấy khiến ta thuở trước trong vô lượng đời điều phục vô lượng vô số chúng sanh, khuyên họ thật hành sáu Ba la mật.

Trong vô lượng vô số đời trước, ta thường nghĩ nhớ xứ nào có nữ nhơn chửa nghén để phòng ngăn ác quỷ, nhẫn đến độc dược. Ta đến chỗ họ dạy tam quy y. Dạy họ tam quy rồi tất cả ác quỷ độc dược chẳng làm hại được. Đứa con sanh ra thường được thiện tâm, trí huệ đầy đủ, thân thể không thiếu khuyết, lúc nó du hành thường được vô lượng thiện thần ủng hộ, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy, ưa tu từ bi, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, ở nơi tịch tĩnh thích tu thiền định, gần thiện tri thức, có đủ trí huệ, phá các khổ não, nhàm lìa sanh tử, ưa mến Niết bàn, tất cả thiên thần, quỷ thích cúng dường. Nếu nó phát tâm Vô thượng Bồ đề thì được Bồ đề Vô thượng, nếu phát tâm Bích Chi Phật thì được Bích Chi Phật đạo, nếu phát tâm Thanh Văn thì được như thiệt nhẫn. Các chúng sanh ấy xa lìa hẳn ba ác đạo, thường đi trong thiện đạo.

Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh vì Vô thượng Bồ đề.

Nầy Hư Không Mật! Nếu có chúng sanh bị bịnh rất nặng, lấy da sư tử tụng chú nầy vào rồi trao cho người bịnh. Nếu không có da thì dùng thịt hoặc xương. Nếu không có thịt xương sư tử thì dùng phẩn hoặc chỗ đất mà sư tử đái. Nếu không có phẩn có đất ấy thì tụng chú cột gút hoặc làm sách bùa trao cho người bịnh, thì bịnh liền lành. Nếu cây không trổ hoa trái thì tụng chú vào nước mưa rồi xối tưới, cây ấy liền có bông trái. Hoặc lúc hạn khô, tìm tim rùa tụng chú năm biến đem đặt trong long tuyền thì trời sẽ mưa lớn. Hoặc lúc mưa nhiều lũ lụt hại lúa mạ, thành ấp, tụ lạc, tìm da mãng xà tụng chú bảy biến đem đặt trong long tuyền thì mưa liền dứt. Nếu quốc độ nhiều tướng quái dị, ác phong, ác vũ, ác tinh nhựt nguyệt, thì nên bảy ngày tắm gội sạch sẽ, ăn cháo sữa, trong bảy ngày đọc tụng chú nầy thì các tướng quái dị liền tiêu diệt.

Nầy Hư Không Mật! Nếu có người nghe đà la ni nầy thì bao nhiêu phiền não đều nhẹ mỏng, nhập chánh định tụ.

Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh khiến họ tu tập sáu Ba la mật, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Hư Không Mật! Đà la ni nầy có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay dứt tất cả các ác trọng bịnh, hay thủ hộ tất cả nữ nhơn thai nghén và kẻ ở trong thai, hay dứt tất cả kiết sử, biết ấm nhập giới, xô dẹp bốn ma cảnh giới, hay làm cho tất cả chư Thiên hoan hỉ, khiến các ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay làm các ác long kinh sợ, hay phá tất cả các luận tà ác khiến hàng tứ tánh hoan hỉ, hay khiến nữ nhơn trừ dứt tâm tham, khiến người đa văn niệm tâm vững chắc, người tọa thiền tâm được thiện tịch, hay trừ tất cả tướng xấu trong quốc độ, hay làm cho chủng tánh Tam bửu không đoạn tuyệt, hay làm cho pháp giới tăng trưởng không giảm, hay làm cho Phật pháp lưu bố khắp nơi, hay phá tất cả khối si vô minh, hay được tận trí vô sanh trí. Tất cánh hết khổ, đây gọi là chú”.

Đức Phật Đức Hoa Mật Như Lai liền nói đà la ni chú:

Ma na xoa, a bà xoa, già la bà xoa, xà la xoa, ma ma na xoa, ma đà xoa, na đồ xoa, na đồ la hưu, tỉ bà na tra, khước già na tra, a tra na tra, cứu na tra, ba lợi cứu bà na tra, na đồ na tra, phú lợi ca na tra, ưu đa la na tra, già tỳ na tra, quân xà na tra, a mục khê na tra, giá phàm bà la na tra, khước kìm bà la na tra. phật ca la na tra, đế bà lưu đà lã na tra, ma la xà na tra, thi lợi câu bà na tra, kiêu đa tra, đa đồ la bà, ma lưu đa khước bà, đề hưu xoa, bà đề lã thù, tóa ma na thù, bà ha na phú trí, tán đề lã xà bà, a ma ma xà bà, ma hưu la già xà la, a niết na, a niết na lã bà, a niết na xoa, a bà ha mạt lực già niết na xoa, y bàn đô đậu khư tả, sá ha.

Lúc Phật nói chú ấy, trong đại chúng kia có sáu vạn ức người được như pháp nhẫn. Lại có sáu vạn người nhập chánh định tụ.

“Nầy Hư Không Mật! Nay ta dùng tịnh đà la ni nây giữ dục cho Phật Thích Ca Mâu Ni, ông nên thọ trì phúng tụng thơ tả”.

Hư Không Mật đại Bồ Tát kính vâng lời Phật thọ trì thơ tả đà la ni ấy rồi cùng vô lượng Bồ Tát đến Ta Bà thế giới, tất cả đều biến thân làm Chuyển Luân Vương, dâng các thứ châu báu cúng dường Phật, đầu mặt kính lễ, hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.

Vua Tần Bà Sa La thấy vô lượng Bồ Tát hoặc là Phạm Vương, hoặc là Thiên Đế Thích, hoặc là Na La Diên, hoặc là Chuyển Luân Vương, từ bốn phương đến tập hội, vua liền đứng dậy cung kính chắp tay.

Nhựt Mật đại Bồ Tát ở trước đức Phật nói kệ tán thán:

Trong các bực Thánh rất thù thắng

Ban đại quang minh trừ ác kiến

Người hành chánh đạo cho pháp ấn

Xô diệt ác long và tứ ma

Dựng vững pháp tràng, ban giải thoát

Dùng đuốc pháp sáng phá tối tăm

Thân cận thiện hữu tu tập định

Vì thương chúng sanh nói phước điền

Phật Pháp Tăng bửu rất khó được

Thân người lòng tin cũng còn khó

Được thiện hữu phá được phiền não

Chúng sanh đi tối chìm sông kiết

Như Lai thuyền sư hay cứu vớt

Bốn phương chư Phật sai tôi đến

Nay trong đại hội nói giữ dục.

Nhựt Mật Bồ Tát nói kệ ấy rồi, như ở bổn độ đã được bổn Phật giáo giới đều nói y như vậy.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: “Nầy Xá Lợi Phất! Đà la ni nầy là của tứ phương chư Phật giữ dục để làm lợi ích cho các chúng sanh cõi nầy. Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà la ni nầy rồi ở trong hàng tứ chúng rộng phân biệt nói”.

Nhựt Mật đại Bồ Tát nói kệ tán thán:

Như Lai chơn thiệt biết pháp giới

Dạy ma chúng sanh đạo chánh trực

Nếu người chơn thiệt sanh tín tâm

Người nầy hay phá ba ác đạo

Cúng dường Như Lai một hương hoa

Vô lượng đời thọ vô thượng lạc

Trong vô lượng đời thân đầy đủ

Cũng được vô thượng chơn trí huệ

Nếu một lần nghe tổng trì nầy

Liền trừ diệt được các phiền não

Được hàng nhơn thiên thường cúng dường

Chứng được vô sanh và tận trí.

Đức Thế Tôn bảo bốn đại chúng Bồ Tát rằng: “Nầy chư thiện nam tử! Nếu các ông thích ở thế giới nầy thì tùy ý tu tập các thiện pháp đã có”.

Bốn đại Bồ Tát và đại chúng Bồ Tát liền tùy ý nhập định. Đã nhập định rồi thân phát quang minh, hoặc như một ngọn đèn sáng, nhẫn đến hoặc như ánh sáng vô lượng nhựt nguyệt.

Thừa Phật thần lực, A Nhã Kiều Trần Như suy nghĩ rằng: Nay nếu ta hỏi Phật một nghĩa nhơn đó hoặc Phật sẽ phân biệt nói rộng bốn đà la ni như vậy, tiếng nói của Phật ắt được nghe khắp Ta Bà thế giới, chúng sanh nghe rồi dứt lòng nghi, ở trong hướng pháp được đại quang minh đến bờ kia nhập chánh định, tự chẳng đọa ác đạo, tất cả đều hành pháp thuần thiện.

Suy nghĩ rồi Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, kính ý yên lặng, chắp tay mà đứng.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Có phải ông muốn hỏi Phật đại nghĩa ư?”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng vậy, tôi muốn thưa hỏi, duy nguyện Thế Tôn hứa cho”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Nay ông biết phải lúc. Phật sẽ phá hoại tất cả điều nghi”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như trong kinh Phật nói có hai thứ là ái và sĩ phu đi trong sanh tử. Thế nào là ái, là sĩ phu? Cớ chi Phật nói hai thứ nầy đi trong sanh tử?”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Kiều Trần Như! Ông khéo phát lời hỏi ấy, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh. Đây là biết phải lúc mà hỏi, đây là hỏi đáp đúng. Lắng nghe lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

Nầy Kiều Trần Như! Ái có ba thứ, đó là dục ái, sắc ái và vô sắc ái. Còn có ba thứ là hữu ái, đoạn ái và pháp ái.

Thế nào là dục ái?

Nói là dục ấy gọi là phóng dật, phóng dật nhơn duyên là tham xúc, do xúc nhơn duyên thì sanh tưởng lạc, lạc tưởng nhơn duyên thì đốt cháy thân tâm, vì đốt thân tâm nên ưa làm thập ác nghiệp, thập ác nhơn duyên thì hay tăng trưởng ba ác đạo khổ, nếu thọ thân người thì nghèo cùng khốn khổ. Vì tham nhơn duyên nên thọ sanh trong ngũ đạo, sanh trong loài dê nhiều thọ khổ não. Dầu thọ khổ mà tâm không có tàm quý, chẳng biết hối hận. Nếu nhơn chút ít thiện được sanh làm người thì lòng ái tăng trưởng. Vì ái tăng trưởng nên thân khẩu bất tịnh, tạo gây vô lượng tội ác nặng, nhẫn đến tội ngũ nghịch. Do nhơn duyên nầy lại sa địa ngục thọ đại khổ não. Tất cả thọ khổ đều nhơn tâm ái. Vì vậy nên Như Lai nói chánh pháp để giải thoát tâm ái, quở trách tham dục. Nếu có chúng sanh nghe lời quở trách lòng dục rồi, xem dục như ngọn lửa, như cây đại độc, như độc bồn hành xí, như dao bén, như giặc ác, như chiên đà la, như hoàn sắt nóng, như mưa đá ác, như gió ác, như độc xà, như oán thù, như quỷ La Sát nơi đồng hoang, như kẻ giết hại, như phẩn, như mả mồ. Nếu có người hay quán sát như vậy thì người nầy có bao nhiêu sự ái cùng tham, ái nhị, ái trước, ái trạch, ái nhiệt, ái tăng thảy đều trừ diệt. Dứt ái rồi niệm pháp, thích pháp, học pháp, thọ pháp, thủ pháp, siêng cầu pháp, cất chứa pháp, tịnh pháp, hành pháp, quy y nơi pháp. Người nầy lâm chung được pháp niệm. Nhơn sức pháp niệm liền nghe thập phương chư Phật tuyên nói pháp yếu giáo hóa chúng sanh. Nghe pháp rồi lòng hoan hỉ. Vì hoan hỉ nên thấy sắc thân chư Phật. Người nầy xả thân sanh quốc độ thanh tịnh không có ba ác đạo, thường cùng thượng thiện nhơn chung ở, đầy đủ trí huệ, xả thí, tinh tiến, tu tập từ bi điều phục chúng sanh, dứt phiền não tập khí, đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Ví như hộp hương thơm đựng y phục, y phục đều thơm mà hộp hương không giảm hơi thơm.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu các chúng sanh do sức thiện nguyện sanh quốc độ thanh tịnh cùng thượng hữu đồng sự nghiệp thiện tự tăng thiện pháp mà thiện của thượng thiện hữu cũng không giảm bớt. Vì vậy nên có thiện nam thiện nữ muốn tự lợi lợi tha và cộng lợi thường nên cần cầu y dựa các thiện hữu.

Nếu có người hay quán sát tướng của dục tham như vậy, thì nên biết người ấy chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là thiện hữu?”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Thiện hữu ấy là chư Phật chư Bồ Tát chư A La Hán. Lại thiện hữu ấy là thân Phật ta đây. Tại sao? Vì ta thường thương xót tất cả chúng sanh, hay nói những lỗi họa của dục tham, vì vậy nên đại chúng phải học lời của ta. Lời Phật nói trọn không có hai, không có hư vọng, chẳng có lưỡng thiệt, chẳng phải vô nghĩa, chẳng phải thô ác. Là lời thành thiệt, lời từ, lời bi, lời an lạc chúng sanh.

Nay Phật nói tội lỗi của dục tham, các ông phải nên thọ trì. Đã thọ trì rồi thoát khỏi ba ác đạo, mau được Vô thượng Bồ đề”.

Lúc bấy giờ, Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh đồng thanh nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện tuyên nói tội lỗi của dục tham. Nay chúng tôi sẽ chí tâm thọ trì”.

Đức Phật nói: “Nầy các Thiện nam tử! Dục có bốn thứ là sắc dục, hình dục, thiên dục và dục dục.

Thế nào là sắc dục?

Sắc do tứ đại tạo ra, hàng phàm phu chẳng thấy là không có ngã không có chúng sanh nên sanh tưởng điên đảo thấy tướng nam, tướng nữ, tướng thượng sắc, tướng hạ sắc, thấy sắc nầy đáng yêu, sắc nầy đáng ghét. Nhơn vì điên đảo thấy tướng nam nữ nên làm cho tham dục chưa sanh thì sanh, sanh rồi thì tăng trưởng. Người nầy do đó mà xa lìa thiện căn và thiện tri thức, chẳng thể thủ hộ khéo thân khẩu ý nghiệp. Vì vậy nên gọi là khối ác pháp. Tại sao? Vì chẳng thể quán sát dục giải thoát vậy. Do nghĩa nầy nên tăng ba ác đạo, thọ các thân địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong vô lượng đời thọ đại khổ não đều do tham dục. Tham dục nhơn duyên khiến dục tăng trưởng.

Nếu có người trí quán sát nữ sắc thấy tướng bất tịnh da thứa, thịt xương, gân cốt, máu mủ, mạch lạc, thấy vậy rồi tâm thích tu tập quán tưởng ấy. Như quán sát nữ thân, quán sát nam thân cũng như vậy. Như quán sát người gần, quán sát người xa cũng vậy. Như quán sát người nầy, quán sát người kia cũng vậy. Như quán sát người, quán sát mình cũng vậy.

Người ấy nếu có thể tu tập pháp tâm nầy thì ở nơi tham ái mau được giải thoát.

Quán sát thân nầy gân cốt lóng đốt dính liền nhau, tâm theo thân hành, bấy giờ, buộc tâm trụ tại trán chừng bằng trái táo. Tâm thích tu tập tướng như vậy rồi thì thân được tịch tĩnh, chẳng thấy ác tướng, chẳng thấy ác sự, chẳng thấy ác duyên. Đây gọi là Xa ma tha, gọi là tâm tịch tĩnh.

Thế nào gọi là thân tịch tĩnh?

Người nầy nhập định diệt nhập tức. Đã không có nhập tức thì nào có xuất tức. Đây thì gọi là thân tâm tịch tĩnh. Thân tâm tịch tĩnh tức là Xa ma tha nhơn duyên vậy. Người nầy quán thân bao nhiêu lóng xương lìa tan như cát bụi bị gió thổi. Thấy rồi liền sanh ý tưởng không rỗng không có vật, quán nơi hư không. Đây thì gọi là thân tâm tịch tĩnh. Đây gọi là nhơn xa ma tha định mà được giải thoát”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tướng hư không ấy có là tướng hữu vi chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Hư không là tướng hữu vi”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn ! Hư không nếu là tướng hữu vi thì là tự tướng hay là tha tướng ?”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như ! Nếu có thể quán sát tất cả pháp giới và hữu vi giới, đây gọi là tự tướng. Tại sao? Vì nếu có thể quán sắc tịch tĩnh ấy liền thấy Phật thân. Tại sao? Nếu người quán xương có thể thành cát bị gió thổi, người nầy có thể phá sắc tham sắc dục, có thể thâm quán sát sắc dục thiệt tánh, chỗ thấy của người nầy đều như hư không, thập phương các sắc rỗng không như lưu ly, trong ấy lại thấy vô lượng chư Phật, thấy mười phương cũng như vậy. Lại thấy Như Lai đủ ba mươi hai tướng tám mươi hảo. Thấy thập phương thế giới chư Phật cũng như vậy. Người nầy nếu được hối pháp sanh tử liền tự tư duy, ta sẽ hội Phật, hư không như vậy ai làm ra? Sẽ thế nào diệt ? Tư duy như vậy rồi tự biết rằng ta đã hỏi rồi, ta đã biết rồi. Tánh hư không không có tác giả, đã không có tác giả thì làm sao diệt. Nói là hư không ấy, không có giác quán, không có vật, không có số, không có tướng mạo, không xuất, không diệt. Tất cả các pháp cũng như vậy. Lúc quán như vậy, người nầy được quả A Na Hàm. Người A Na Hàm dứt hết tâm tham dục. Chỉ có năm sự chưa trừ diệt được, đó là sắc ái, vô sắc ái, diệu, mạn, vô minh.

Người nầy nếu được thấy thân Như Lai bèn suy nghĩ như vầy: Ta nên biết số. Lúc ấy người nầy quán ít thấy ít, quán nhiều thấy nhiều. Lại suy nghĩ chư Phật như vậy từ xứ nào đến ? Liền suy nghĩ rằng chư Phật  như vậy không từ đâu lại, đi cũng không chỗ đến. Tâm tam giới của ta, tâm nầy nhơn nơi thân. Ta theo giác quán muốn nhiều thấy nhiều, muốn ít thấy ít. Chư Phật Như Lai ấy tức là tâm ta. Tại sao ? Vì theo tâm mà thấy, tâm là thân ta, ta là hư không. Ta nhơn giác quán thấy vô lượng Phật. Ta dùng giác tâm thấy Phật biết Phật. Tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng biết tâm. Ta quán pháp giới tánh không vững chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhơn duyên mà sanh. Vì vậy mà tất cả bao nhiêu tánh tướng tức là hư không. Tánh hư không cũng là không. Nếu có người sơ phát Bồ đề tâm thì nên quán vô lượng các pháp nhơn duyên. Người nầy nếu phát tâm cầu Thanh Văn liền được vô tướng tam muội khiến vô minh kia dứt hẳn, được tịch tĩnh, cũng chứng được tùy thuận không nhẫn. Người nầy nếu thấy hư không là không liền được thân tâm tịch tĩnh. Đây gọi là không giải thoát môn, lấy quả A La Hán không khó.

Người nầy nếu lại tu hành diệt định giải thoát, để diệt vô lượng các pháp nhơn duyên”.

Lúc nói pháp ấy, có chín vạn chín ngàn ức chúng sanh được tu định nhẫn. Tám vạn bốn ngàn chúng sanh được tu không nhẫn. Sáu vạn chúng sanh được không tam muội giải thoát môn. Hai vạn chúng sanh được hiện kiến chư Phật tam muội. Tám vạn bốn ngàn chúng sanh được quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn.

Đức Phật phán tiếp: “Lại nầy Kiều Trần Như ! Nếu có Tỳ Kheo tự quán thân mình làm tướng bất tịnh mà không điều phục được tự tâm mình. Người nầy nên tiếp quán tử thi, hoặc sắc xanh bầm, hoặc thúi rã, hoặc màu đỏ, hoặc sình trương, hoặc rời rã, hoặc xương trắng như vỏ ốc, nên quán kỹ tâm mình thích trụ chỗ nào, biết rồi thì trụ tâm nơi tướng ấy. Như quán thân người, quán thân mình cũng vậy, hoặc sắc xanh bầm, nhẫn đến như vỏ ốc, như ngày, ban đêm cũng vậy. Như đêm, ban ngày cũng vậy. Như quá khứ, vị lai cũng vậy. Như vị lai, quá khứ cũng vậy.

Lúc bấy giờ, nếu thấy vật ngoài hoặc cỏ, cây, người, vật, tạp vật đều quán xương trắng. Quán như vậy, nhẫn đến mạng chung chẳng sanh tâm tham. Người nầy hiện tại hay lìa ái dục, đời khác cũng lìa.

Người nầy nếu có thể được tu không đà la ni thì có thể quán xương làm tướng lìa tan như cát vi trần. Hoặc nơi mình nơi người chẳng thấy tướng sắc như vi trần, liền chứng được tướng hư không, thấy tất cả sắc như thanh lưu ly. Thấy rồi lại quán hư không sắc vàng. Có thể quán sắc vàng, sắc đỏ, sắc trắng, nhiều màu, màu lưu ly. Nếu thấy đất và nước cũng như lưu ly, người nầy có thể thấy tất cả đại địa như chừng bằng bốn ngón tay. Nếu muốn lay động liền lấy ngón tay chưn nhấn đó khiến động, tùy ý gần xa, nhẫn đến cả đại địa cây cối núi sông đều bị lay động. Hoặc quán các dòng nước làm nhiều thứ màu, hoặc hoa phân đà lợi, hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, trên mặt nước tự ý đi đứng ngồi nằm. Quán tất cả núi làm nhiều thứ màu, hình nó dịu mềm như bông đâu la rồi ở trong đó đi đứng ngồi nằm. Lại tự quán thân nhẹ bay như gió. Tác quán như vậy rồi có thể đi đứng ngồi nằm trên hư không. Người nầy lại nhập  hỏa quang tam muội, thân phóng ra các thứ quang minh sắc vi diệu, lại di nhập viêm ma ca định, trên thân ra nước dưới thân ra lửa. Làm đại thần biến như vậy rồi suy nghĩ rằng: Ta sẽ thế nào được thấy chư Phật ? Lúc ấy tùy phương diện được quán sát đều được thấy Phật, quán nhiều thấy nhiều, quán ít thấy ít. Thấy rồi lại suy nghĩ chư Phật ấy không từ đâu lại đi cũng không chỗ đến. Tâm tam giới của ta, tâm ấy theo thân, ta theo giác quán muốn nhiều thấy nhiều, muốn ít thấy ít. Chư Phật Như Lai tức là tâm ta. Tại sao? Vì theo tâm mà thấy vậy. Tâm ấy tức là thân ta, ta tức là hư không. Ta nhơn giác quán thấy vô lượng Phật. Ta do giác tâm mà thấy Phật, biết Phật. Tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng biết tâm. Ta quán pháp giới tánh không vũng chắc, tất cả các pháp đều từ giác quán nhơn duyên mà sanh, vì vậy nên pháp tánh tức là hư không, hư không tánh cũng là rỗng không. Ta nhơn tâm ấy thấy xanh vàng đỏ trắng, tạp sắc và hư không. Làm thấy biến ấy rồi, cảnh được thấy như gió không có chơn thiệt. Đây thì gọi là chung đồng người phàm phu như thiệt đà la ni.

Người nầy lại suy nghĩ rằng: Nếu có hư không tức là không có thủ không có giác quán, không thể tuyên nói được. Như tâm ta rời lìa tướng quán hư không, cũng quán tâm tướng chẳng có tác là viễn ly, lìa tất cả các tướng, chẳng tác phát tâm. Giả sử có phát liền diệt. Vì tâm duyên diệt nên tâm ấy bèn diệt, tịnh thân khẩu ý, tu tập diệt định. Người nầy lâu dài cột tâm tại định, từ diệt định khởi nhập vào Niết bàn. Đây gọi là chẳng chung đồng người phàm phu như thiệt đà la ni.

Thế nào gọi là cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni ?

Nếu người ấy hay suy nghĩ như vậy:

Ta tùy ý quán sắc thì liền thấy sắc, sắc ấy tức là tâm ta, tâm ta tức là sắc. Như  ta rời xa tất cả sắc tướng mà quán hư không tướng. Người ấy lúc bấy giờ, tu hư không tướng. Đây  gọi là cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni.

Thế nào gọi là bất cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la  ni ?

Người ấy nếu suy nghĩ như vậy:

Sắc tức là hư không. Ta do sắc nhơn duyên như vậy được thấy hư không. Tánh hư không gọi là không chướng ngại, là trụ xứ của gió. Gió như vậy nhơn tứ đại sanh, sắc tướng nầy của ta cũng nhơn tứ đại khởi. Hư không với gió và sắc tướng bình đẳng không sai biệt. Tất cả pháp tánh, tánh tự không tịch, tự tánh và tha tánh cũng không tịch. Hư không ấy tức là không sanh không diệt. Lúc quán như vậy cột niệm Như Lai. Niệm Như Lai rồi thấy trong hư không có vô lượng Phật, liền  chứng được quả A Na Hàm. Đây gọi là bất cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni vậy.

Người ấy lại suy nghĩ rằng:

Hư không ấy tức là ta, tức là ta tịnh, tức là tâm ta, ta không có sắc, như hư không vô biên cũng vô biên. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Nếu người ấy suy nghĩ rằng:

Trong tất cả pháp không có ta, không có sở hữu của ta. Nói hư không ấy tức là không có ta, sắc không có ta. Nếu niệm Như Lai liền thấy Như Lai. Như Lai ấy tức là ta vậy. Ta thấy Phật rồi được quả Sa Môn đến quả A La Hán. Đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Người ấy nếu quán ta tịnh tức là hư không xứ, hư không tức là tâm ta, nếu hay dứt hẳn tất cả phiền não tức là tịnh tâm, nếu hay tu tập bát chánh đạo thì gọi là tịnh tâm, hay tu như vậy thì có thể được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Nếu người ấy quán sắc, quán sắc tướng tức là phân biệt tướng, phân biệt tướng ấy tức là sân hận tướng, sân hận tướng ấy tức là sanh tử tướng. Nay ta vì đoạn dứt tướng sanh tử mà quán tâm tướng rỗng không. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Người ấy lại quán ta tức là tịch tĩnh, nay ta cũng chưa dứt giác quán. Nếu ta quán ta, ta như hư không, ta ấy tức là khổ, nhơn sanh ra khổ tức gọi là tập, khổ và tập ấy là pháp đoạn dứt được, đây gọi là diệt, quán sát khổ tập và diệt ấy đây gọi là đạo. Được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Người ấy lại suy nghĩ rằng:

Ta cớ chi quán hư không, hư không ấy tức là ta của ta. Nếu xa lìa quán hư không kế đến quán thức xứ. Như quán hư không, quán thức xứ cũng vậy. Như hư không vô biên, thức xứ cũng vô biên. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Nếu người ấy quán thức tức là khổ, biết sở nhơn của khổ gọi đó là tập, khổ và tập ấy đoạn dứt được, đây gọi là diệt, quán khổ tập diệt, đây gọi là đạo. Được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đây gọi là bất cộng phàm phu như thiệt đà la ni vậy.

Người ấy lại quán thức xứ tức là giác quán ghẻ chốc phiền não. Như ta xa lìa không xứ. thức xứ. tu vô tưởng xứ. Tu vô tưởng rồi được vô tưởng định. Đây gọi là cộng phàm phu như thiệt đà la ni.

Người ấy nếu quán thức xứ tức là pháp ghẻ chốc khổ não. Như ta xa lìa quán thức tướng kế quán vô tưởng tướng. Nói vô tưởng ấy tức là không có ta, của ta. Quán như vậy rồi liền được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đây gọi là bất cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni vậy.

Người ấy nếu có thể quán vô tưởng xứ ấy tức là tế tưởng. Nếu ta xa lìa vô tưởng xứ mà quán phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Đây gọi là cộng phàm phu nhơn như thiệt đà la ni.

Người ấy nếu quán phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy là đại khổ não xứ, có thể dứt, có thể được giải thoát. Lúc quán như vậy được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đoạn hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham, rời lìa phàm phu, gọi là được hiệu Thánh nhơn. Dứt  hẳn nhơn của ba ác đạo. Đây gọi là như thiệt đà la ni vậy.

Đây là dục được chư Phật kia sai Nhựt Mật đại Bồ Tát mang đến, có thể dứt tất cả kiết sử phiền não, tất cả ác kiến, ngã kiến, thủ kiến, giới kiến, thường kiến, đoạn kiến, thọ mạng kiến, sĩ phu kiến, tác kiến, thọ kiến, sắc kiến, xúc kiến, xuất kiến, tứ đại kiến, hay đoạn dứt các kiến như vậy.

Đà la ni ấy khéo có thể rõ thấu ấm nhập giới, hay tịnh các kiến, hay kiến người thọ trì vĩnh viễn thọ an lạc, trở hoại chúng ma, điều phục ác ma, làm cho chư Thiên hoan hỉ, phá A Tu La, điều Ca Lâu La, hay đem lại sự vui mừng cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, hay dứt ác đạo. Hay khiến người tọa thiền ưa thích tịch tĩnh, hay chữa tất cả các ác trọng bịnh, hay phòng tất cả các ác đấu tụng, hay tăng pháp giới, hay hộ Tam bảo, hay được tận trí và vô sanh trí, phá hoại khối vô minh”.

Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, vô lượng chúng sanh được quả A La Hán, vô lượng chúng sanh được đà la ni ấy, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh được Vô sanh nhẫn.

Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là liên hoa đà la ni được người trí thọ trì đọc tụng thơ tả, được lợi ích lớn, chẳng ưa tam giới, được vô tướng giải thoát môn, đều có thể dứt các phiền não, bảy lần thọ thân nhơn thiên, dầu ở Dục giới mà chẳng bị dục ái nhiễm ô, thường được chư Thiên và thế nhơn cung kính. Đà la ni ấy trước đây được Nhựt Mật đại Bồ Tát tuyên nói”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như ! Liên hoa đà la ni mà ông hỏi đó, chẳng phải là chỗ biết của Thanh Văn và Duyên Giác, đà la ni nầy, nhẫn đến mười tám pháp hành bất cộng.

Nầy Kiều Trần Như ! Giả sử ta ở trong vô lượng kiếp nói đà la ni ấy trọn chẳng hết được, cũng làm cho người nghe sanh tâm mê muộn. Đà la ni ấy chỉ có Phật hay nói được, chỉ có Phật hay nghe được. Tại sao? Vì đà la ni ấy khó biết khó hiểu, ba đà la ni khác cũng vậy”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện Như Lai sẽ nói như không không hành đà la ni”.

Đức Phật nói: “nầy Kiều Trần Như ! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà tuyên nói.

Nầy Kiều Trần Như ! Nếu có chúng sanh vì nhơn duyên phóng dật mà sanh tâm xúc dục, người nầy chẳng biết chỗ giải thoát, lưu chuyển sanh tử trong vô lượng đời ở ba ác đạo, thọ đại khổ não. Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh thọ vô lượng khổ não như vậy nên sanh lòng thương xót, siêng năng chẳng nghỉ dứt, tu khắp các trợ Bồ đề đạo. Tu tập các hành pháp rồi được Vô thượng Bồ đề, tuyên nói khổ giải thoát. Chúng sanh nghe rồi liền được thoát khổ. Khổ giải thoát ấy tức là Sơ quả đến quả A La Hán.

Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào gọi là xúc dục ?

Nói xúc dục ấy là hai thân hiệp nhau. Nhơn vì hai thân chung hiệp mà sanh cảm xúc. Nhơn xúc sanh thọ lạc, nhơn lạc thọ sanh khổ thọ. Vì khổ nhơn duyên nên sanh tử khổ não nhơn đó màng sanh. Nầy Kiều Trần Như ! Như bốn độc xà dùng bốn nhơn duyên có thể hại chúng sanh, đó là nhìn thấy, hà hơi, cắn mổ và chạm xúc. Dục cũng như vậy, có kiến nhơn duyên, văn nhơn duyên, niệm nhơn duyên và xúc nhơn duyên. Do bốn nhơn duyên ấy làm cho các chúng sanh xa lìa tất cả các thiện căn bổn, ở trong sanh tử thọ đại khổ não.

Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào gọi là xúc dục giải thoát ?

Nếu Tỳ Kheo có thể quán bạch cốt, suy nghĩ như vầy: Sắc ấy là sở tạo của tứ đại. Được tứ đại tạo ra, là vô thường, tánh nó không bền chắc, là pháp ly tán, là do thịt máu xương. Người trí sao lại ở nơi thân như vậy mà sanh tướng sạch tốt. Quán như vậy rồi với tất cả tịnh sắc mười phương đều liền được tướng chẳng nên thích. Tỳ Kheo ấy lại suy nghĩ rằng: Ta thích tu tập tướng chẳng nên thích ấy thì dứt trừ tất cả phiền não sanh lão bịnh tử. Đây gọi là Xa ma.

Nếu quán xương trắng, nhẫn đến xương đầu thì gọi là bà xá na.

Đã được Tỳ bà xá na và Xa ma tha ấy rồi quán sát tức nhập xuất. Thấy hơi ra liền suy nghĩ rằng: Hơi gió ấy từ nơi nào đến, lại đi đến chỗ nào. Lúc quán như vậy, xa lìa thân tướng, sanh ra không tướng. Chẳng thấy nội thân, đây gọi là nội không. Chẳng thấy vật sở hữu các sắc tướng ngoài, đây gọi là ngoại không.

Quán nội không và ngoại không rồi lại suy nghĩ rằng: Nay ta tu tập tướng nhập tức rồi làm lợi ích lớn, có thể phá hoại tất cả  nội ngoại các sắc. Ta phá hoại nội ngoại sắc tướng như vậy đều là nhập tức quán nhơn duyên vậy. Do nhơn duyên ấy khiến tôi chẳng thấy nội ngoại các sắc. Ta không có sắc tướng tức là hư không lực. Nay ta quyết định biết tất cả các pháp không có chỗ đi không có chỗ đến. Quán như vậy thì tất cả giác quán đều dứt hẳn.

Lại quán thức ấy biết là tất cả giác quán nhơn duyên, ta nên xa lìa tâm ý thức hành. Tại sao ? Vì nếu có sanh thì biết quyết định diệt. Lúc quán như vậy được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Hoặc được như pháp nhẫn, hoặc được Bồ đề.

Nếu quán sát giác quán là tướng diệt liền được diệt định.

Đây gọi là bất cộng phàm phu như không đà la ni. Đà la ni thành tựu vô lượng công đức, dứt hẳn vô lượng các khổ não lớn”.

Lúc nói pháp ấy, chín vạn hai ngàn chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, sáu vạn chúng sanh được quả A La Hán, chín vạn chín ngàn chúng sanh được như không đà la ni, tám vạn chúng sanh được quả Bích Chi Phật, tám ngàn ức chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh được tâm bất thối.

Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Phật Cao Quý Vương Như Lai ban cho dục tùy vô nguyện đà la ni. Duy nguyện Như Lai phân biệt giải nói”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như ! Ông nên chí tâm lắng nghe, nay ta sẽ tuyên nói đó.

Nầy Kiều Trần Như ! Có các chúng sanh bị xúc dục trói buột chẳng giải thoát được. Người nầy nên quán vô nguyện giải thoát.

Người ấy suy nghĩ rằng: Dục dục, Sắc dục và Vô sắc dục, xúc dục, giải dục, các dục như vậy nhơn giác quán sanh các hành nhơn duyên. Các hành như vậy không có tác giả, không có thọ giả, nhơn gió mà sanh. Thân khẩu hành của ta cũng nhơn phong mà sanh. Nhơn nơi gió nầy mà thân được tăng trưởng. Nhơn nơi gió nầy mà khẩu được tăng trưởng. Như ta quán gió ấy tức là hơi thở vào ra. Quán kỹ tất cả lỗ lông từ phong nhơn duyên. Lại quán tất cả vật bất tịnh. Lại quán thân nầy lúc chết, thây ấy không còn gió vào ra. Lại suy nghĩ   rằng: Thân khẩu hành của ta nhơn phong nhơn duyên. Nếu không có phong thì không có thân khẩu hành nhơn duyên. Do cớ ấy nên lúc nầy được không tam muội, tu tập tăng trưởng, nhơn vì tu tập nên có thể dứt dục tham đến xúc dục. Quán như vậy rồi được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Hoặc phát tâm Vô thượng Bồ đề”.

Lúc bấy giờ, Thiện Ý Giác Quán Bồ Tát Ma ha tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người Thanh Văn tu bất tịnh tướng, thành tựu tướng ấy rồi thì có những tướng gì ?”.

Đức Phật nói: “Nầy Thiện Ý Giác Quán ! Nếu người ấy vì phá hoại kiết sử dục tham mà tu bất tịnh tướng, cột tâm giữa mày mà quán xương thân mình, đây gọi là một tướng. Nếu quán xương thân mình và xương thân người thì gọi là hai tướng. Lại quán tất cả đều là bất tịnh, đây gọi là ba tướng. Người nầy hay quán khổ tập, đều sạch, gọi là xa ma tha, được tướng noãn pháp.

Người ấy lúc quán bạch cốt như vậy, thấy trí mình như ngọn đèn sáng, quán thân bốn hành, nhẫn đến vi trần, đây gọi là đảnh pháp. Quán tứ chơn đế, đây gọi là Thanh Văn. Bất tịnh quán thành tựu chứng được Xa ma tha định, đây gọi là tướng quán bạch cốt.

Lúc quán tướng ấy được bát chánh đạo. Nhơn bát chánh đạo được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.

Nầy Thiện Ý Giác Quán ! Quang Minh Phật độ, hàng Thanh Văn quán pháp như vậy liền được đạo quả”.

Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được như pháp nhẫn, vô lượng chúng sanh được như thiệt nhẫn.

Đức Phật lại bảo Tôn giả Kiều Trần Như rằng: “Nầy Kiều Trần Như! Nếu tứ chơn đế có thể trong một niệm chứng được đó, Như Lai lẽ ra vì tất cả chúng sanh diễn nói một hạnh một pháp một sự, lẽ ra lúc một người chứng thì tất cả chúng sanh cũng đồng chứng, tại sao? Vì phiền não đồng vậy, và cũng lẽ ra chẳng nên có tám vạn pháp tụ sai biệt.

Nầy Kiều Trần Như ! Vì vậy nên chúng sanh phải dùng nhiều thứ nhơn duyên điều phục, chẳng do một duyên.

Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh thiệt chẳng phải thừa, một hành, một tham, một niệm, một dục, một giải, một tín. Vì vậy nên Như Lai tuyên nói các thứ cú, kệ, danh tự… nhiều loại pháp môn. Do vì nghĩa ấy mà Như Lai đầy đủ mười thứ thần lực.

Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh có đủ các thứ tướng điên đảo, do đây Như Lai vì phá tịnh đảo mà nói tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng thây sình, thây rã, thây xanh bầm, thây hư hoại, tướng thây lìa tan”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào gọi là tướng chẳng đáng nên ưa của tất cả thế giới ? Thế nào gọi là tướng thực Bất tịnh ?”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như ! Nay ông chẳng nên hỏi sự như vậy. Tại sao? Vì giới kia đắc đạo cùng giới nầy đắc đạo, tướng ấy đều khác biệt. Nếu Phật nói đủ, các chúng sanh nghe đó hoặc họ sanh mê muộn”.

Tôn giả nói: “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện Như Lai vì chư Bồ Tát, những người có thể tin hiểu, thương xót mà phân biệt tuyên nói.

Bạch đức Thế Tôn ! Những người nầy nếu nghe Phật tuyên nói hai tướng như vậy thì họ có thể gieo giống lành, tăng trưởng căn lành, hay phá được vô minh.

Bạch đức Thế Tôn ! Các chúng sanh vì si ái nhơn duyên mà thích sanh tử, vì vậy mà sanh tử vô thì vô chung.

Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sanh do thực nhơn duyên mà tăng trưởng tham dục. Vì họ chưa bao giờ được nghe hai tướng như vậy nên họ lưu chuyển sanh tử ngũ đạo, thọ đại khổ não.

Đức Như Lai đại từ đại bi trong vô lượng đời thường nghĩ nhớ đến chúng sanh, duy nguyện đức Như Lai vì thương xót mà tuyên nói tướng chẳng đáng nên ưa và tướng thực bất tịnh.

Nay đức Như Lai tuyên nói hai tướng ấy, các chúng sanh nghe nói rồi chẳng sanh dục tham, chẳng sanh thực tham.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh hay quở trách nặng dục tâm và thực tâm, nên biết người ấy mau đến được bờ kia”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như ! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà tuyên nói tất cả thế giới tướng chẳng đáng nên ưa và tướng thực bất tịnh.

Nầy Kiều Trần Như ! Thế có hai là  chúng sanh thế và khí thế.

Chúng sanh thế là ngũ đạo chúng sanh.

Khí thế là trong Dục giới có hai mươi xứ, trong sắc giới có mười sáu xứ và trong Vô Sắc giới có bốn xứ.

Những gì là hai mươi xứ trong cõi Dục ?

Tám đại địa ngục, mỗi đại địa ngục có mười sáu địa ngục vây quanh.

Tám đại địa ngục là: Hượt, Hắc thằng, Chúng hiệp, Kiếu hoán, Đại hoán, Nhiệt, Đại nhiệt và A Tỳ địa ngục.

Nếu có chúng sanh thân khẩu ý ác đều sanh trong đại địa ngục ấy thọ đại khổ não. Các chúng sanh ấy dầu thấy diệu sắc chẳng sanh ý tưởng vui thích, do nhơn duyên ấy lại sanh đại khổ não. Như thấy sắc, với thanh, hương, vị và xúc cũng như vậy. Người có trí quán sát sự ấy rồi chẳng sanh lòng ưa thích.

Nầy Kiều Trần Như ! Nếu quán sát súc sanh, thân nó nhỏ như vi trần chia làm mười phần, có loài thân như vi trần, thân bằng trái táo, cao lớn một do tuần hoặc thân cao lớn đến trăm ngàn vạn do tuần. Các loài ấy hoặc có thọ mạng bằng thời gian một niệm đến khoảng bảy niệm, hoặc có thọ mạng một kiếp đến thời gian ngàn vạn kiếp. Các loài ấy không có pháp hành, trí huệ, tàm quý, lòng từ mẫn, phải thọ khổ não, sanh kinh sợ nhiều, loài ấy thường sanh lòng giết hại nhau, xa lìa tất cả pháp lành, thường đi trong tối tăm, thường hành tà đạo. Do đây là người trí tu ý tưởng chẳng vui.

Nầy Kiều Trần Như ! Người trí lại quán ngạ quỷ. Thân nó hoặc cao một xích, hoặc bằng nghiệp, hoặc trăm do tuần, hoặc bằng núi Tuyết, thường khổ đói khát, trần truồng không y phục, tóc trùm quanh thân, không có tàm quý, ốm o lòi xương, thân không có máu thịt, họ đều có tâm ác độc, không lòng thương xót, các hơi lạnh ẩm ướt vĩnh viễn không còn có, họ hoặc ăn các thứ sắt hoàn, sắt sợi, nước sắt, phẩn nóng, mủ nóng, máu nóng, gió nóng, cỏ nóng, trái nóng, nhưng chẳng thường được cung cấp đầy đủ, thọ mạng ngàn muôn kiếp, luôn thọ khổ não, đi nơi tối tăm. Người trí quán sát rồi tu tập ý tưởng thế giới chẳng đáng ưa thích.

Nầy Kiều Trần Như ! Người trí kế đến quán thân người trong bốn châu, tất cả đều có sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, cơ khát khốn khổ, tham dục khổ, sân khuể khổ, tật đố các thứ khổ, lưỡng thiệt, ác khẩu, hàn, nhiệt v.v… nhiều khổ não, còn có khổ vì ác thú độc trùng, khổ vì ác vương, ác quan. Trong thân loài người ấy thọ ngần ấy khổ não. Người trí sao lại chẳng tu tập tướng tưởng chẳng đáng ưa thích !

Nầy Kiều Trần Như ! Kế đến, người trí quán sáu từng trời cõi Dục. Chư Thiên trong ấy bị dục ái đốt cháy, họ thọ quả báo chẳng đồng nhau. Họ khổ vì vô thường, khổ vì chấp thủ, khổ vì chết, khổ vì ái biệt ly. Quán sát như vậy người trí có đâu chẳng tu tập tướng chẳng đáng ưa thích !

Người trí kế đến quán Sắc giới mười sáu trụ xứ. Chư Thiên trong ấy tu thiền định thế gian, vì hữu lậu nên khổ, vì tịch tĩnh nên khổ, vì sở dục nên khổ, vì có thắng định nên khổ, vì thiện pháp tạng nên khổ, vì chưa giải thoát nên khổ, vì chẳng biết bỉ ngạn, vì chẳng dứt hẳn nhơn duyên địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nên khổ. Quán sự khổ như vậy nên người trí tu tập tướng chẳng đáng ưa thích.

Lại chư Thiên cõi Sắc hoặc có người tu tập vô lậu thiền định, những người nầy khổ vì chẳng đầy đủ bát chánh đạo, khổ lúc muốn đủ phương tiện bát chánh đạo, khổ vì vô học địa chẳng tự tại, khổ vì chẳng được  Duyên Giác tam muội, khổ vì chẳng được Như Lai tam muội, khổ vì chẳng có thể quán sát cảnh giới tất cả chúng sanh. Người trong Sắc giới như vậy nếu nhập Niết bàn thì thọ khổ như vậy. Người trí sao lại ở trong Sắc giới mà chẳng tu tập thế gian tướng chẳng đáng nên ưa thích.

Kế lại quán sát Vô Sắc giới tướng chẳng đáng ưa thích.

Chư Thiên cõi Vô Sắc khổ vì tu hữu lậu tam muội, khổ vì học địa chẳng được tự tại, khổ vì còn chẳng được nghe chánh pháp, khổ vì chẳng cứu cánh dứt tham ái, khổ vì lúc xả mạng sanh tà kiến, khổ vì chẳng dứt hẳn ba ác đạo, khổ vì xả mạng bị đọa, người trí quán sát biết chư Thiên cõi Vô sắc có những sự khổ như vậy nên với Vô Sắc giới tu tập tướng thế gian chẳng đáng ưa thích.

Còn nữa, nầy Kiều Trần Như ! Thế gian ấy tức là hành. Có ba thứ là thân hành, khẩu hành và ý hành.

Thân hành ấy, đó là thở vào ra.

Khẩu hành ấy, đó là giác quán.

Ý hành ấy, đó là tưởng và thọ.

Ba thứ hành ấy, tướng nó là một.

Người trí quán sát phân biệt thế nào để có thể biết được ?

Người trí lúc quán đếm thở vào ra, quán kỹ lạnh nóng ấm của hơi thở đến hơi vào ra một lỗ lông. Người nầy quán hơi thở biết rõ chắc hơi thở ấy trước không nay có. Nếu trước không mà nay có thì là tướng vô thường. Là tướng không quyết định như điện chớp, như vẽ trong nước. Lúc quán như vậy, được tướng thân hành.

Người trí lại quán sát tướng như vậy từ nhơn duyên gì ? Liền biết tướng ấy nhơn nơi giác quán. Tánh giác quán trước không nay có nên là vô thường, là pháp có thể dứt được. Tướng giác quán ấy nhơn tâm mà sanh, tâm cũng là trước không nay có nên cũng vô thường, có thể phá hoại được, là tướng không có về đến nương dựa, là tướng không có  vật, là tướng không có ngã. Lúc quán như vậy thì ở trong các hành tâm sanh hối có thể tu tập tướng thế gian chẳng đáng ưa thích.

Chúng Tỳ kheo các ông nếu có thể quán kỹ chắc tam thế như vậy thì có thể dứt hẳn các phiền não, hay tịnh chánh kiến, dứt pháp sanh tử, thành tựu đạo bình trực, được nhiếp trong chánh tụ, được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Đây là người trí tu tập tướng chẳng nên ưa thích.

Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào là Tỳ Kheo quán y được mặc ấy là tướng chẳng nên ưa ?

Nếu có Tỳ Kheo lúc vá y, thấy y, chạm y, đắp y, cởi y, quán sát như máu thoa da, thúi rã đáng gớm, là chỗ trùng ở, là chỗ chẳng đáng ưa. Lúc quán như vậy, lòng tham y liền trừ diệt.

Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào là tu tập tướng thực chẳng đáng ưa ?

Nếu có Tỳ Kheo lúc cầm mang bát, quán sát như máu thoa sọ đầu, rã thúi đáng gờm, là chỗ côn trùng ở, là chỗ không đáng ưa. Lúc được món ăn, nên quán sát món ăn ấy như thây trùng chết, nếu thấy bún xem như xương nát, thấy cơm nước tưởng như nước phẩn, thấy bánh tưởng là da người, tích trượng đang cầm tưởng là xương người, thấy nhũ lạc tưởng máu mủ hôi dơ, thấy rau cải tưởng tóc lông, thấy các thứ nước uống tưởng là máu tươi. Quán sát như vậy gọi là nơi các món ăn uống quán tướng chẳng đáng ưa.

Nầy Kiều Trần Như ! Thế nào là nơi phòng xá sanh ý tưởng không đáng ưa thích ?

Lúc vào phòng nhà, Tỳ Kheo nên suy nghĩ như vào địa ngục thọ các khổ não. Phòng nhà như vậy tức là tướng hòa hiệp, bao nhiêu cây gỗ tức là xương người, đất đắp là thịt người, đến tất cả ghế giường mền nệm tức là xương người, là da thịt người. Quán sát như vậy gọi là ý tưởng thế gian chẳng đáng ưa thích.

Nếu có thể quán sát các tướng như vậy, người nầy liền được như thiệt pháp nhẫn, được các nhẫn tùy không, tùy vô tướng, tùy vô nguyện. Người nầy thích tu tập không tướng, thấy tất cả pháp đều sanh diệt, khổ, không, vô ngã, thấy các ấm, nhập, giới, thập nhị nhơn duyên, tất cả pháp tánh đều là khổ, không, vô ngã. Thấy như vậy rồi, người nầy liền được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.

Nầy Kiều Trần Như ! Người tu tập ý tưởng thế gian chẳng đáng ưa thích thì có thể dứt dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, nghi, điệu, vô minh, đến được bực vô học. Đây gọi là đầy đủ tùy vô nguyện đà la ni.

Nầy Kiều Trần Như ! Đà la ni nầy hay phá tất cả ác ma, đến có thể là cho Tam bửu tăng trưởng”.

Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh được pháp nhãn tịnh, vô lượng ức chúng được dứt hẳn các lậu, tám na do tha chúng được tùy vô nguyện đà la ni, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm vạn tám ngàn chúng sanh được bất thối tâm Bồ đề, vô lượng chúng sanh được như Pháp nhẫn.

Vô lượng chúng sanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sanh nếu nghe pháp ấy, thì đâu chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chúng tôi nay hộ trì nghe học pháp ấy”.

Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay! Nầy chư đại đàn việt!  Nay mọi người muốn hộ trì đại pháp. Nhơn hộ pháp mà đời  vị lai sẽ được vô lượng phước đức quả báo”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Phật Đức Hoa Mật Như Lai sai Hư Không Mật đại Bồ Tát mang đến dục tịnh đà la ni ấy, duy nguyện Thế Tôn tuyên nói đó”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất ! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông mà nói.

Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Hoa Mật Phật sai mang đến dục tịnh đà la ni ấy để phá hoại tứ đảo của chúng sanh Ta Bà nầy:

Chúng sanh cõi nầy thường không có ngã mà vì tâm điên đảo nên sanh ý tưởng có ngã. Người trí quán sát kỹ biết không có ngã, liền phá điên đảo.

Thế nào là người trí quán vô ngã ? Đó là quán thân ngũ ấm biết chắc không có ngã, tại sao? Vì là tướng hòa hiệp vậy. Kế quán nhãn căn cũng không có ngã. Tại sao ? Vì là tứ đại hiệp vậy. Nếu mắt chuyển nháy tức là phong lực, phong ấy nhơn nơi hư không mà có khứ lai hồi chuyển, mà tánh hư không là vô sở hữu, cũng là bất khả thuyết. Nếu là vô sở hữu và bất khả thuyết tức là không có ngã. Vì vậy nên hư không thiệt không có ngã, phong trong hư không cũng lại không có vật, chẳng tuyên nói được nên là vô ngã. Như quán phong, quán địa, thủy, hỏa cũng như vậy. Vì vậy mà biết rằng, nhãn căn tứ đại lại cũng không có vật, chẳng tuyên nói được. Thế nên không có ngã.

Nếu còn có người nói rằng vì nhãn sắc nhơn duyên nên có tướng ngã ấy, nghĩa nầy chẳng đúng. Tại sao? Vì trong nhãn không có ngã, trong sắc không có ngã, trong hai thứ hòa hiệp cũng không có ngã. Nhơn duyên hòa hiệp cũng không có ngã, trong hai thứ hòa hiệp cũng không có ngã. Nhơn duyên hòa hiệp sanh ra nhãn thức, trong thức ấy cũng không có ngã. Nhơn thức sanh sắc gọi là danh sắc. Danh sắc nhơn duyên sanh lục nhập. Lục nhập nhơn duyên sanh xúc. Xúc nhơn duyên sanh thọ. Thọ nhơn duyên ái. Ái nhơn duyên thủ. Thủ nhơn duyên hữu. Hữu nhơn duyên sanh lão bịnh tử v.v… Các pháp như vậy nhơn nhãn thức sanh, mà nhãn thức nầy cũng chẳng từ mười phương đến. Niệm sở nhơn sanh nhãn thức ấy, niệm nầy cũng diệt, nhân thức chẳng trụ. Trong hai niệm ấy cũng chẳng bảo nhau: Nay ngươi trụ còn ta diệt. Diệt pháp nầy cũng không có xứ sở. Vì vậy nên các pháp hễ duyên hiệp thì sanh, duyên ly thì diệt. Nếu nhơn duyên thì sanh, không nhơn duyên thì diệt. Vì vậy nên biết thiệt không có ngã, mà nhơn duyên ấy cũng không có tác, không có thọ. Nếu không có tác giả thì không có ngã. Nếu không có ngã thì ngã sở cũng không. Vì vậy nên nhãn tánh không có ngã, ngã sở, không hiệp, không tan, tức là sanh diệt.

Tất cả các pháp cũng như vậy. Tất cả pháp tánh không có thủ không có xả chẳng phải tạo tác bởi chư Thanh Văn, Duyên Giác, chư Phật.

Như nhãn thức không, tất cả pháp không cũng như vậy.

Lúc quán như vậy được môn không tam muội, hoặc được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.

Như quán nơi nhãn, quán nơi nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy.

Quán thân vô ngã, tóc, da, thứa, máu, thịt, xương, gân, tủy, não, ruột, gan, mủ, dãi, hơi ấm, gió trên dưới, thọ mạng, danh tự, tất cả đều vô ngã, chỉ do các duyên hòa hiệp nên gọi là thân. Thân xúc nhơn duyên nên sanh thân thức, thức nhơn duyên danh sắc, đến hữu nhơn duyên sanh lão bịnh tử v.v… Các pháp nhơn duyên như vậy sanh thân thức, mà thân thức cũng chẳng từ mười phương đến. Niệm sở nhơn sanh thân thức ấy, niệm nầy cũng diệt, thân thức chẳng trụ. Trong hai niệm ấy cũng chẳng bảo nhau ngươi trụ ta diệt. Mà pháp diệt ấy cũng không có xứ sở. Vì vậy nên các pháp, hễ duyên hiệp thì sanh mà duyên tan thì diệt. Nếu nhơn duyên thì sanh, không nhơn duyên thì diệt. Vì vậy nên biết thiệt không có ngã. Mà nhơn duyên ấy cũng không có tác, không có thọ. Không có tác giả thì không có ngã, đã không có ngã thì ngã sở cũng không có. Vì vậy mà thân tánh không ngã, ngã sở, không hiệp, không tan, tức là sanh diệt. Tất cả các pháp cũng như vậy, tất cả pháp tánh không có thủ không có xả, chẳng phải chư Thanh Văn, chư Duyên Giác, chư Phật làm ra.

Như thân thức không, tất cả pháp không cũng như vậy.

Lúc quán như vậy, người ấy được không tam muội, hoặc chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.

Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Tỳ Kheo có thể quán nhãn căn đến thân căn vô ngã như vậy, nên biết người ấy được tam muội môn, được chư Thiên và thế nhơn cúng dường”.

Lúc nói pháp ấy, có vô lượng chúng sanh ác nghiệp quá khứ đều được tiêu trừ, vô lượng chúng sanh được pháp nhãn tịnh, vô lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, chín vạn bốn ngàn chúng sanh được tịnh đà la ni như vậy, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh chẳng thối chuyển tâm Bồ đề, vô lượng chúng sanh được như pháp nhẫn, vô lượng chúng sanh phá được dục tham, sắc tham và vô sắc tham, vô lượng chúng sanh được tùy không, tùy vô tướng và tùy vô nguyện đà la ni, vô lượng chúng sanh thành tựu bất tịnh quán, vô lượng chúng sanh thành tựu a ni ba na, hoặc được xa ma tha, hoặc được tỳ bà xá na, hoặc được tánh địa, hoặc được Thanh Văn pháp, Bích Chi Phật pháp, hoặc được Bồ Tát pháp, tất cả nữ nhơn nghe rồi đều được chuyển nam thân, chúng sanh Dục giới đều thọ khoái lạc như đệ Tam thiền.

Tất cả chư Thiên, Nhơn, Bát Bộ cúng dường đức Phật, hoan hỉ ngồi yên.

Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Trong thế giới Ta Bà nầy, vô lượng Bồ Tát được thành tựu quang minh diệu sắc, từ giờ tôi chưa từng thấy, chưa từng nghe.

Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát quang minh ấy có thể chiếu khắp tất cả Ta Bà thế giới. Nếu là bực Bồ Tát gần Vô thượng Bồ đề thì quang minh thế nào ?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương ! Nếu Bồ Tát thành tựu Vô thượng Bồ đề, quang minh chiếu tất cả mười phương thế giới. Tại sao? Vì thiện pháp trang nghiêm các công đức vậy, vì thành tựu đầy đủ pháp trang nghiêm vậy, vì tất cả thiện căn nhiều tăng trưởng vậy, vì gần Vô thượng Bồ đề đạo vậy, vì rốt ráo vô thượng Bồ đề đạo vậy, vì thọ Như Lai chánh pháp quả vậy, vì phân biệt diễn nói vô biên pháp vậy, vì thân đã được không có quái ngại vậy, vì được thanh tịnh chơn thiệt pháp vậy, vì chỗ được tu tập đều đến bờ kia vậy, vì nghiệp đời vị lai đã được hết hẳn vậy, vì thành tựu vô lượng Phật chánh pháp vậy, vì hay chuyển vô thượng diệu pháp luân vậy, vì được tự tại nơi tất cả pháp vậy, vì thông đạt tất cả chúng sanh căn vậy, vì đoạn hẳn tất cả phiền não tập khí vậy. Vì vậy nên quang minh có thể chiếu khắp mười phương thế giới.

Nầy Đại Vương ! Tùy sức thế lực lớn công đức của pháp cũng có thể nhìn thấy thập phương chư Phật”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn được thấy thập phương chư Phật và chư Bồ Tát, chư Thanh Văn”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như: “Nếu người Thanh Văn đệ tử Phật, hoặc tại gia hay xuất gia, thế nhơn đều thâm quán tự tư duy thiện pháp minh đã có. Ta cũng muốn nhập Như Lai tam muội. Nếu có hàng nhơn thiên được như thiệt nhẫn, nếu có người chẳng thối chuyển nơi tam thừa, các người ấy cũng nhập chánh định, nếu có người được  tâm kính tin nơi Tam bửu cũng nhập thiền định như vậy”.

Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Nhứt thiết Phật cảnh giới hành trí, rộng như hư không, tất cả người trí vui mừng, sáng như ánh sáng nhựt nguyệt. Tam muội như vậy tất cả hàng Thanh Văn, Duyên giác, Bồ Tát chẳng biết được, chẳng tính lường được. Đây gọi là Phật cảnh giới tam muội.

Thế Tôn nhập tam muội ấy rồi, Ta Bà thế giới ức tứ thiên hạ, trăm ức Tu Di sơn, trăm ức nhựt nguyệt đến trăm ức  Trời Hữu Đãnh, các cõi như vậy, đều nhập vào thân của Phật. Trong Ta Bà thế giới các địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người và trời, có ai thọ khổ liền được tiêu diệt, tất cả đều hoan hỷ như Tỳ Kheo nhập đệ Tam thiền.

Tất cả đại Bồ Tát đều khởi định thấy Phật quang minh. Thấy Phật quang minh rồi, quang minh của mình có liền tắt không còn hiện.

Tất cả hàng Thanh Văn thọ khoái lạc như Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền.

Tất cả vô lượng chúng sanh thảy đều tự thấy lỗ lông Như Lai. Mỗi mỗi lỗ lông phóng vô lượng ánh sáng như ánh sáng của hằng hà sa nhựt nguyệt, cũng như ánh sáng của hằng hà sa số vị Thập trụ Bồ Tát. Quang minh như vậy đều chiếu khắp mười phương quốc độ chư Phật.

Thập phương chư Phật Thế Tôn đều riêng bảo đại chúng rằng: “Chư thiện nam tử ! Các Ngươi có thấy quang minh của Thích Ca Như Lai chẳng ? Quang minh như vậy thành tựu vô lượng vô biên công đức. Quang minh ấy nhơn nơi đại từ đại bi vì thương xót các chúng sanh vậy. Nay Như Lai ấy hiển thị tướng đại thần biến cho các chúng sanh. Tất cả chúng sanh thấy quang minh ấy rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Thế giới phương khác có các chúng sanh được thần thông đều tập họp tại Ta Bà thế giới, kẻ không được thần thông thì vói lễ lạy cúng dường”.

Lúc bấy giờ, tất cả chư Phật, chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn đều đến Ta Bà thế giới. Tất cả Bồ Tát đều dâng thất bửu, các thứ hương hoa, phan lọng, kỹ nhạc cúng dường Thế Tôn, cung kính, tôn trọng, tán thán. Có các chúng sanh ở thân Phật thảy đều thấy đó, thấy rồi lại thọ vô lượng khoái lạc.

Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh đồng thanh nói rằng: “Chúng ta do nhơn duyên lành nầy, nguyện đời sau đồng sanh trong một quốc độ, được thấy thập phương chư Phật, đã được tiêu diệt hết ba ác nghiệp đạo.

Nếu có chúng sanh nào thấy thần biến của Phật mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề, nên biết người ấy thường đi trong tối tăm. Chư Bồ Tát vì chúng sanh mà thọ nhiều thí khổ. Hoặc hóa làm Phật, làm Bích Chi Phật, làm Thanh Văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, thân Na La Diên, thân Rồng, Quỷ, A Tu La, Chuyển Luân Vương. Nếu có thế giới đáng do Thanh Văn mà được điều phục thì hiện thân Thanh Văn. Ứng hóa như vậy, nếu chẳng phải bực Thập trụ đại Bồ Tát thì không thể làm được. Vì vậy nên tâm Vô thượng Bồ đề thành tựu vô lượng vô biên công đức”.

Bao nhiêu chúng sanh ở trong thân tất cả chư Phật đồng thanh nói kệ rằng:

Do vì các ác tâm nhơn duyên

Lưu chuyển sanh lão bịnh tử khổ

Vì chẳng thân cận thiện tri thức

Thế nên chẳng đến được bờ kia

Nếu hay xa lìa được ác tâm

Các ác tà kiến ác nhơn duyên

Hay dứt sanh tử trong ba cõi

Người nầy được đến nơi bờ kia

Chúng sanh khó được trọn thân người

Được rồi gặp thiện hữu rất khó

Lòng tin chắc vững lại khó được

Có rồi khó được nghe chánh pháp

Nếu người hay phát tâm Bồ đề

Người nầy hay dứt các phiền não

Cũng hay giáo hóa vô lượng chúng

Hiện đại thần biến như Phật nay

Nếu hay dứt hẳn hai pháp ấy

Đó là thường đoạn hai kiến thảy

Nếu thấy tất cả hành vô ngã

Người nầy được gọi thiện tư duy

Nếu hay tu tập khổ tập đế

Người nầy hay dứt các phiền não

Nếu hay phát khởi Bồ đề tâm

Người nầy thắng được các thế gian.

Nghe nói kệ ấy rồi , có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, hoặc có chúng sanh phát tâm Duyên giác, tâm Thanh Văn, hoặc được vô lượng đà la ni, có các chúng sanh được như pháp nhẫn, bất thối nhẫn, như thiệt nhẫn, hoặc được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.

Bấy giờ, ma vương Ba Tuần thấy rõ Ta Bà thế giới ở trong thân Phật, liền buồn khóc sầu não, hoặc ngồi, hoặc dậy, hoặc đi, hoặc đứng, tới lui, ra vào, lấy tay vỗ đầu, càng thêm khổ não. Tất cả quyến thuộc ma cũng khổ não như vậy.

Ba Tuần có một đại thần tên là Không Thọ, thấy ma vương khổ não nên nói kệ rằng:

Cớ chi sầu não mà độc hành

Tâm Vương mê loạn như người cuồng

Đi đến chỗ nào cũng không vui

Mong Thiên Vương nói nhơn duyên ấy,

Ba Tuần nói kệ đáp:

Ta thấy Cù Đàm đại thần lực

Nên ta khổ não đi như điên

Nội tâm tháo động không được an

Sầu nhiệt bức thiết đến quyến thuộc

Nhìn thấy Như Lai vô biên thân

Dung thọ tất cả Ta Bà giới

Khiến cảnh giới ta đều trống hư

Vì vậy nay ta sanh sầu não

Bao nhiêu thánh nhơn ở mười phương

Đều đến tập hội thế giới nầy

Thiết đại cúng dường cúng dường Phật

Vì vậy khiến ta sanh sầu não

Nhìn thấy Như Lai đại thần lực

Và thấy quyến thuộc quy y Phật

Nay ta độc hành không bạn lữ

Vì vậy khiến ta sanh sầu não.

Đại thần Không Thọ lại nói kệ rằng:

Nay tôi có đông các quyến thuộc

Lòng họ tệ ác đủ khí giới

Sức hay phá hoại thân Như Lai

Và hay hủy hoại đại thần lực.

Ba Tuần nói kệ rằng:

Nay quyến thuộc ta rất sợ Phật

Làm sao hoại được đức thần thông

Nếu lúc sanh tâm muốn hủy hoại

Liền tự thấy mình bị ngũ phược.

Không Thọ nói kệ rằng:

Như oán địch ấy thế lực lớn

Nên giả thân hậu thì phá được

Nếu biết Cù Đàm có đại lực

Trước nên trá hiện lòng thân hậu.

Ma vương nói kệ rằng:

Nếu ta trá hiện tâm thân hậu

Vì muốn hủy hoại thân Cù Đàm

Liền thấy cổ mình đeo tử thi

Bị tất cả người đồng chê trách

Đại thần Không Thọ lại nói kệ rằng:

Tất cả cõi Dục thuộc ma giới

Bao nhiêu nhơn thiên thuộc Như Lai

Xin Vương sắc lịnh ác Long Vương

Thì hay phá được thân Cù Đàm.

Ma vương Ba Tuần lại nói kệ rằng:

Nếu ngươi biết rõ rồng đủ sức

Ta đã thất tâm ngươi tự sai

Nếu thiệt rồng phá được Cù Đàm

Ta lại được nước và bổn tâm.

Đại thần tuân lời ma vương liền bảo các ác Long Vương rằng: “Các Long Vương nên vì ta mà hủy hoại thân Cù Đàm”.

Các ác Long vừa muốn bay lên hư không mà không chuyển động được. Họ liền nói với đại thần rằng: “Kính phụng mạng lịnh vừa rồi muốn đi phá hoại Cù Đàm. Vừa sanh tâm ấy liền chẳng bay đi được”.

Đại thần nghe các ác Long Vương nói liền sanh lòng kinh sợ, suy nghĩ rằng: Nay ta hiện ma đại lực khiến các ác Long sanh tâm giận dữ. Vì tâm rồng giận dữ thì có thể phá hoại thân Cù Đàm.

Bấy giờ, cung rồng có hóa tử thi đầy khắp mọi nơi. Các rồng thấy vậy, tự nơi cung thất mình lòng chẳng an vui, suy nghĩ rằng: Đây là ai hóa làm những tử thi ấy.

Dầu có suy tìm mà chẳng biết là ai làm.

Trong tất cả tứ thiên hạ, chư đại Long Vương và quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ đều ra khỏi cung thất đến núi Khê La Kỳ. Núi ấy bằng phẳng ngang rộng bốn vạn do tuần, là chỗ ở của chư Thánh đời trước, có đủ bảy báu.

Nhẫn đến Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương cũng bỏ cung điện mà đến núi ấy.

Trong tứ đại hải, bao nhiêu Long vương và quyến thuộc vô lượng vô biên, như là Y La Bạt Long Vương, Thiện Trụ Long Vương, Quy Long Vương, A Na Bà Đạt Đa Long Vương, Mục Chơn Lân Đà Long Vương, Đức Hải Long Vương, Thủy Đức Long Vương, Xá Đức Long Vương, Lạc Đức Long Vương, A Ba Na La Long Vương, Sơn Đức Long Vương, Ngưu Đức Long Vương, Y La Bạt Đa Long Vương, Trường Tý Long Vương, Trường Phát Long Vương, Tịnh Long Vương, Ca Yết La Long Vương, Thủy Phiêu Long Vương, Hắc Phát Long Vương, Kim Sắc Long Vương, Xá Câu Long Vương, Niệm Di Long Vương, Tượng Long Vương, Lợi Nha Long Vương, Hữu Hành Long Vương, Nghị Võng Long Vương, Trường Diện Long Vương, Xích Nhãn Long Vương, Lạc Kiến Long Vương.

Như vậy châu Diêm Phù Đề có tất cả Long Vương tám vạn và quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương và quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.

Bắc Uất ĐơnViệt có hai Long Vương là  Vô Biên Long Vương và Kim Thân Long Vương cùng vô lượng chúng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương và quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.

Đông Phất Bà Đề có hai Long Vương là Nguyệt Long Vương và Bà Tư Tra Long Vương cùng vô lượng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương cùng quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.

Tây Cù Gia Ni có hai Long Vương là Bửu Phát Long Vương và Quang Phát Long Vương cùng vô lượng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương cùng quyến thuộc đều đến trong núi Khê La Kỳ.

Và trong tứ thiên hạ, hàng tứ sanh Long Vương cùng quyến thuộc cũng đến trong núi Khê La Kỳ. Các Long Vương nầy thân hình đều như củ thuốc bốn tấc, do vì giận dữ nên thân họ cao lớn như núi Tu Di.

Ba Tuần xem thấy chúng Long Vương như vậy rồi bảo quyến thuộc rằng: “Lắng nghe, lắng nghe, do ma lực của ta làm cho các Long Vương như vậy từ cung thất ra đến Khê La sơn kia, họ đều mất thế lực, chẳng phá hoại được Sa Môn Cù Đàm”.

Còn có ma đại thần tên là Giới Thê, thưa ma vương rằng: “Đại Vương ! Các Long Vương như vậy vì muốn phá hoại thân Thích Ca nên tập hội một chỗ. Họ đều nghĩ rằng: Nay ta nên dùng phương tiện gì phá hoại thân Cù Đàm”.

Ba Tuần nói: “Nếu chắc có sự như vậy ngươi nên qua đó xem sao”.

Đại thần Giới Thê cùng trăm ngàn vạn quyến thuộc muốn đến núi Khê La Kỳ.

Lúc ấy đức Thế Tôn từ thiền định khởi ngồi một phía, thị hiện thân bình thường.

Ma đại thần thấy thân thường Như Lai ở nước Ma Già Đà. Thấy rồi nghĩ rằng: Sa Môn Cù Đàm thối thất thần thông, có lẽ sợ ta chăng, hay muốn ta sanh đại ác chăng ? Ta nên trước đến chỗ Cù Đàm kia để cùng bàn luận.

Ma đại thần Giới Thê cùng đại chúng đến Phật nói kệ rằng:

Thân Ngài chưa qua biển sanh tử

Thế nào sẽ độ được chúng sanh

Cù Đàm chớ gạt các chúng sanh

Nói rằng sẽ được đại Niết bàn

Đức Như Lai nói kệ đáp:

Ta đã được qua biển sanh tử

Cũng được thoát hẳn tất cả cõi

Ta vì nhơn duyên đại từ bi

Nói rằng chúng sanh sẽ Niết bàn

Ngươi đã vô lượng đời thuở xưa

Phát khởi Vô thượng Bồ đề tâm

Đã từng cúng dường vô lượng số

Trăm ngàn vạn ức các Thế Tôn

Ngươi nay định sẽ được Phật đạo

Tại sao nói Phật gạt chúng sanh

Nay ta cho ngươi đại niệm lực

Bèn nên chí tâm quán bổn thân.

Ma đại thần Giới Thê nghe lời Phật, tự quán sát quá khứ bổn thân, thấy rõ ràng mình phát Bồ đề tâm, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật, thấy rồi tâm rất hổ thẹn, ở trước Như Lai dập đầu mặt xuống đất, sám hối, tác lễ, bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi đã nhớ vô lượng đời phát tâm Bồ đề, đã từng cúng dường vô lượng ức Phật, ở chỗ chư Phật nghe học diệu pháp, đã được tu hành sáu Ba la mật.

Bạch đức Thế Tôn ! Thuở Phật Ca Diếp có một Tỳ Kheo nói Thanh Văn thừa. Tôi chẳng tư duy bèn nói lời ấy chẳng phải là lời Phật, là lời nói của ma. Tỳ Kheo ấy đã phát tâm Bồ đề, hành Bồ đề đạo. Vì nhơn duyên ấy nên Ca Diếp Như Lai chẳng thọ ký cho tôi. Tôi nhơn việc ấy sanh trong ma giới, thọ thân nầy đến nay đã trải qua năm vạn bảy ngàn ức năm.

Bạch đức Thế Tôn ! Tôi thà đem những thân quá khứ ấy thọ khổ địa ngục chớ trọn chẳng thối tâm Bồ đề”.

Đức Phật nói: “Nầy đại thần ! Lành thay, lành thay! Nếu có người đem hoàng kim như núi Tu Di và các món vật bằng thất bửu trong vô lượng đời cúng dường chư Phật, phước ấy chẳng bằng phát tâm Bồ đề. Tại sao? Vì phát tâm Bồ đề mới là cúng dường thập phương chư Phật”.

Lúc ấy Giới Thê Bồ Tát liền ở tại chỗ được như pháp nhẫn, bèn rời chỗ ngồi, đầu mặt tác lễ, nhiễu Phật ba vòng, đem thượng y nơi thân cúng dường đức Phật, nhẫn đến quyến thuộc bốn vạn bốn ngàn đại chúng cũng cúng dường như vậy.

Ma vương Ba Tuần thấy đại thần của mình cùng đại chúng quyến thuộc đều quy y Phật, tâm rất khổ não, đóng chặt cửa nẻo, ngồi yên một chỗ.

Đức Phật vì đại chúng nói ba thứ từ tâm, đó là Chúng sanh duyên từ, Pháp duyên từ và Vô duyên từ tâm, như trong hội Hư Không Mục đã tuyên nói.

Trong lúc ấy tất cả Long Vương đều tập hội núi Khê La Kỳ, muốn động chẳng động được, muốn đi chẳng đi được, muốn hiện thân lớn cũng lại chẳng được. Họ bèn hướng về Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương mà nói rằng: “Đại Vương  ! Trước kia hóa hiện tử thi trong cung thất là do Ba Tuần làm, vì vậy khiến chúng tôi đều đến núi nầy thọ thân nhỏ nhít. Nếu có thể quy y ma Ba Tuần thì có thể được giải thoát”.

Y la Bạt La Long Vương nói: “Nay ma vương đã thất bổn tâm và thần túc, làm sao cứu tế các Ngài được?”.

Các Long Vương ấy, hoặc có quy y Tứ Thiên Vương, hoặc có quy y Đao Lợi Thiên, hoặc có quy y Dạ Ma Thiên, hoặc Đâu Suất Thiên, hoặc Hóa Lạc Thiên. Hoặc có quy y Tha Hóa Tự Tại Thiên, hoặc có quy y Phạm Thiên.

Hải Long Vương nói: “Các Ngài chẳng thấy Thích Ca Như Lai được tất cả hiền thánh, nhơn thiên, tạp loại thiết đại cúng dường mà quy y đó ư!”.

Có các Long Vương quy y Na Trà tiên nhơn, hoặc Mã Tàng tiên nhơn, hoặc Quảng tiên nhơn, hoặc Quang Vị tiên nhơn, hoặc Bạt Già Bà Tiên Nhơn.

Các Long Vương quy y năm tiên nhơn như vậy. Năm tiên nhơn ấy đều được ngũ thông, ở tại núi Tuyết, đều đang nghe Quang Vị tiên nhơn tuyên nói chánh pháp. Quang Vị Bồ Tát cũng dùng vô lượng các thứ tán thán để tán thán đức Như Lai.

Các tiên nhơn đều nghe âm thanh của tất cả Long Vương, liền bạch Quang Vị tiên nhơn rằng: “Ngài có nghe tiếng khóc kêu của các Long Vương chẳng ?”.

Quang Vị đáp: “Tôi có nghe”.

Chư Thiên nói: “Thưa Đại Sĩ ! Duy nguyện đến đó cứu khổ họ”.

Quang Vị nói: “Các Ngài nên đến đó, tôi đi chẳng được, tại sao? Vì hiện nay có Đại Thiên muốn được nghe Vô duyên từ tâm vậy”.

Bốn tiên nhơn lễ lạy Quang Vị rồi đến núi Khê La Kỳ để cứu tế.

Chư Long Vương thấy bốn tiên liền cất tiếng cầu ai cứu tế.

Chư Tiên nói: “Ta chẳng cứu được. Trong núi Tuyết có một Bồ Tát tên là Quang Vị, người ấy có thể cứu. Các ngươi nên nhứt tâm cầu ai tác lễ”.

Chư Long Vương đều hướng về núi Tuyết làm lễ đồng thanh cầu cứu.

Quang Vị nghe tiếng ấy bèn cùng vô lượng chư Thiên cúng dường đến núi Khê La Kỳ.

Chư Long Vương thấy rồi đầu mặt lễ lạy: “Duy nguyện Đại Sĩ cứu khổ chúng tôi”.

Quang Vị Bồ Tát biết đã đến lúc, muốn nói tinh tú.

Hải Long Vương bạch rằng: “Bạch Đại Sĩ ! Tinh tú ấy của ai nói ? Ai làm đại tinh, ai làm tiểu tinh ? Ai làm nhựt nguyệt ? Trong ngày nào, tinh nào ở trước ? Thế nào là mãn nguyệt ? Thế nào là thời giờ ? Các tinh tú như vậy hệ thuộc Thiên nào, tánh là gì, tinh tú nào khinh, nào trọng, nào thiện, nào ác, nào thực, nào thí ? Ai tạo ngày ? Ai tạo đêm ? Bóng có mấy bộ gọi là chuyển, thế nào gọi là Nam chuyển. Thế nào gọi là Bắc chuyển ? Thưa Đại Sĩ ! Ngài ở trong hàng chư Tiên là đệ nhứt hơn cả, duy nguyện đầy đủ phân biệt giải nói”.

Quang Vị Bồ Tát bảo chư Long Vương rằng: “Nầy Đại Vương ! Đời quá khứ trước, ban sơ của Hiền kiếp, thành Chiên Đà Diên có vua tên là Vô Lượng Tịnh, dùng chánh pháp trị nước. Vua ấy chẳng tham dục lạc, thường thích tịch tĩnh, tài trí thông đạt. Vua có phu nhơn, dục tâm phát động, cùng vua du hành ở trong một khu rừng, lòng tham dục nhìn vua liền có thai, đủ ngày sanh ra một con trai. Đứa trẻ ấy đầu, tai, mắt, môi, miệng, cổ đều giống lừa, các phần khác giống người. Bà mẹ thấy rồi sợ quá, ném nó vào nhà xí, thân nó chưa chạm đất, được lủ quỷ ở trên không tiếp lấy, đem đến núi Tuyết, chăm sóc, nuôi dưỡng như con đẻ. Trong núi Tuyết có thuốc ngọt ngon, lủ quỷ hái lấy cho trẻ ấy ăn. Trẻ ấy ăn rồi thân liền chuyển lạ, có đại quang minh, đầy đủ phước tướng, có đại từ bi. Do cớ ấy nên được chư Thiên lễ bái cúng dường tán thán. Trẻ ấy tất cả thân tướng đều chuyển đổi, chỉ có môi thì giống môi lừa, nên có tên là Lư Thần. Do phước lực của Lư Thần nên trong núi Tuyết sản xuất các thứ dưa quả và dược thảo.

Lư Thần tiên nhân suốt sáu vạn năm thọ trì cấm giới, thường co một chưn lên. Tất cả Phạm Thiên, Ma Thiên, Đế Thích đại thiết cúng dường để cúng dường đó và bạch Lư Thần tiên nhơn muốn cầu sự gì xin được nói cho, chúng tôi biết rồi nếu sức chúng tôi làm được sẽ ban cho Ngài.

Lư Thần tiên nhơn nói:

Nay tôi muốn biết tinh tú để lợi ích mọi người vì lòng tôi thương xót họ.

Tất cả chư Thiên nói:

Nếu vì thương xót tất cả chúng sanh mà muốn được biết, nguyện sẽ nói đó.

Lư Thần tiên nhơn nói:

Thưa Phạm Thiên ! Thiệt tôi chẳng hiểu tinh tú tối sơ v.v…”.

Lúc Quang Vị nói tinh tú ấy, chư đại Long Vương đối với Quang Vị Bồ Tát sanh tâm vui mừng.

Quang Vị Bồ Tát lại vì chư Long Vương phát âm thanh vi diệu tán thán Tam bửu rồi nói rằng: “Chư Đại Vương ! Nay ta thiệt chẳng thể cứu vớt khổ các Ngài. Chỉ có Thích Ca Như Lai Thế Tôn mới cứu được. Đức Thích Ca Như Lai vì muốn điều phục các chúng sanh, nên trong vô lượng đời xả bỏ sở hữu trân quý, tu tập từ bi để cứu khổ não”.

Nghe lời ấy, tất cả Long Vương và quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ đều chí tâm niệm Phật, tán thán, quy y: “Nam mô Phật Thế Tôn, ở trong tất cả chúng sanh rất là thù thắng, ở trong tất cả pháp tâm được tự tại, ở trong các pháp hải đã đến bờ kia, hay cứu tất cả chúng sanh khổ não, ban cho họ an lạc, bình đẳng không hai, thương xót tất cả, hay chỉ đường chánh, ban cho chánh nhãn, được tất cả Thiên Long cúng dường, hay thọ cúng cụ vị diệu của tất cả nhơn thiên trong tất cả thế giới mười phương.

Chúng tôi thọ nhiều vô lượng khổ não, duy nguyện đức Thế Tôn từ bi thương cứu”.

Thành tâm niệm Phật rồi, tất cả chư Long tự thấy thân mình như cũ.

Quang Vị Bồ Tát bảo chư Long Vương rằng: “Như Lai công đức bất khả tư nghị, vì chúng sanh nên trong vô lượng đời Như Lai tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tuyên nói ba thứ từ bi điều phục chúng sanh, tuyên nói tất cả pháp vô ngã, vô tác, tuyên nói ấm, nhập, giới, tứ, đại, các phiền não tuyên nói tánh phiền não, và tánh chúng sanh, tuyên nói tất cả pháp vô tánh, vô tướng, vô ngại, vô tác, vô cấu, vô tịnh, vô minh, vô ám, vô thủ, vô xả, vô hành, vô trụ, vô nhứt, vô nhị, tất cả ấm, nhập, giới, tứ đại cũng đều như vậy. Đây gọi là Đệ nhứt nghĩa không.

Vì vậy nên Như Lai hay điều phục chúng sanh là đấng Vô Thượng Tôn. Vì vậy nên đức Như Lai có thể cứu vô lượng khổ não của các Ngài”.

Quang vị Bồ Tát cùng chư tiên nhơn, tất cả Long Vương và quyến thuộc đồng đến chỗ đức Phật lễ bái, cung kính hữu nhiễu rồi ngồi qua một phía.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Quang Vị Bồ Tát rằng: “Nầy Quang Vị ! Nay ông có muốn nghe nghiệp của chư Long chăng ?”.

Quang Vị Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Nay đã đúng lúc, duy nguyện đức Như Lai tuyên nói đó”.

Đức Phật nói: “ Lành thay, lành thay! Lắng nghe, lắng nghe, nầy Quang Vị ! Phật sẽ  vì ông mà diễn nói”.

Tất cả nhơn thiên dâng hương hoa tốt, phan lọng, kỹ nhạc cúng dường Phật.

Đức Thế Tôn cùng chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, vô lượng Thanh Văn và Bồ Tát từ nước Ma Già Đà thẳng đến núi Tu Di.

Phạm Vương thiết tòa thất bửu để chờ Như Lai, lại còn tạo làm đường thất bửu rồi bạch rằng: “Duy nguyện Như Lai đi trên đường nầy và ngồi tòa của tôi”.

Tha Hóa Tự Tại Thiên dùng diêm phù đàn na bửu làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện như trên.

Hóa Lạc Thiên dùng vàng cõi trời làm tòa ngồi và đường đi cũng ước nguyện như vậy.

Đâu Suất Đà Thiên dùng bạc cõi trời làm tòa ngồi và đường đi cũng cầu nguyện như vậy.

Dạ Ma Thiên dùng lưu ly làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện cầu như vậy.

Đao Lợi Thiên dùng chơn châu làm tòa ngồi và đường đi cũng cầu mong như vậy.

Tứ Thiên Vương dùng mã não làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện như vậy.

Tứ A Tu La Vương dùng chiên đàn làm tòa ngồi và đường đi cũng mong cầu như vậy.

Vì lòng lân mẫn, đức Thế Tôn hóa thân Phật khắp đi bảy đường, khắp ngồi bảy tòa. Còn chơn thân Như Lai thì đi và ngồi đường và tòa của Phạm Vương sắp đặt. Mỗi mỗi Hóa Phật đều có vô lượng Thanh Văn và Bồ Tát làm quyến thuộc. Quang minh của mỗi Hóa Phật như ánh sáng của vô lượng nhựt nguyệt.

Chư Long Vương thấy Hóa Phật rồi lòng rất kính trọng, đồng nói rằng: “Nay núi Tu Di bèn có trăm ngàn nhựt nguyệt như vậy chăng?”.

Nan Đà, Bạt Nan Đà Long Vương nói: “Đức Như Lai Thế Tôn cùng vô lượng Phạm Thiên đến núi Tu Di, đó là quang minh của Phật chớ chẳng phải nhựt nguyệt. Các Ngài nếu muốn giải thoát thì nên chí tâm chuyên niệm Như Lai, Như Lai Thế Tôn đã phá hết vô minh nên nay có quang minh như vậy”.

A Na Bà Đạt Đa Long Vương nói: “Quang minh ấy là của ma vương chẳng phải của Phật. Tại sao? Vì tất cả Dục giới thuộc ma Ba Tuần, ma Ba Tuần hay làm điều ác ấy, nay vì thương xót nên có thể cứu khổ của chư Long Vương như vậy”.

Còn có Long Vương nói là của Hóa Tự Tại Thiên, còn có nói là của Hóa Lạc Thiên, Đâu Suất Thiên, Dạ Ma Thiên, Đao Lợi Thiên, Tứ Vương Thiên, vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy.

Thiện Trụ Long Vương nói: “Quang minh đó là của Quang Vị Bồ Tát, vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy”.

Bửu Kế Long Vương nói: “Quang minh ấy là của người đại đức xuất gia, cạo bỏ râu tóc, vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy”.

Hải Long Vương nói: “Quang minh ấy là của Như Lai. Tại sao? Vì thương xót vậy, Như Lai Thế Tôn ở nơi các chúng sanh tu nhứt tử tưởng, hay cứu chúng sanh tất cả khổ não, trong vô lượng đời tu hành đầy đủ sáu Ba la mật chỉ vì cứu tế tất cả chúng sanh khổ não. Vì vậy nên chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc sắp đặt đại cúng cụ để cúng dường Phật”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích rằng: “Nầy Kiều Thi Ca ! Như ta đi trong thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh, cũng như Ngài ở Đao Lợi Thiên để độ chư Thiên”.

Đế Thích nói: “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi chưa có vô biên trí, sao lại nói là tôi có thể hóa độ chư Thiên.

Bạch đức Thế Tôn ! Nay núi Tu Di nầy có vô lượng chư Thiên, vô lượng Phạm Thiên, vô lượng Quỷ Thần, vô lượng Càn Thác Bà, vô lượng Khẩn Na La, vô lượng Ca Lâu La, vô lượng A Tu La, vô lượng Ma Hầu La Già, vô lượng Chư Long, vô lượng Đại Tiên, vô lượng Thánh nhơn. Duy nguyện Như Lai thương xót hóa độ chúng sanh như vậy”.

Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ miệng Phật phát xuất vô lượng sắc quang: xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê… nhiều màu, chiếu khắp mười phương những chỗ tối tăm, hay phá hoại tất cả các ác nghiệp ma hơn hẳn quang minh của vô lượng ức Phạm Thiên, Đế Thích nhựt nguyệt.

Đức Phật nói với Thiên Đế Thích: “Nầy Kiều Thi Ca ! Tất cả núi trong Ta Bà thế giới, núi Tu Di là lớn hơn cả. Ta cũng vậy, là hơn hết trong tất cả chúng sanh”.

Chư Long Vương nghe lời ấy đều bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện xót thương cứu khổ chúng tôi”.

Đức Phật nói: “Chư Long Vương ! Các ngươi nên trước chí tâm niệm Phật, ta sẽ cứu cho”.

Đức Phật dùng âm thanh nghe khắp mười phương thế giới mà bảo Tôn giả Kiều Trần Như rằng: “Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả các pháp đều vô thường, tất cả các pháp sanh trụ vô thường, tại sao? Vì sanh nhơn duyên vậy. Tất cả nhơn duyên sanh pháp tức là khổ vậy. Nếu lúc pháp sanh tức là khổ, tức là nhọt ghẻ, tức là hữu chi, tức là sanh lão, tức là sanh diệt.

Nầy Kiều Trần Như ! Nhãn tức là vô thường khổ, nhãn sanh ấy tức là khổ, là nhọt ghẻ, là hữu chi, là sanh lão, tức là sanh diệt.

Như nhãn, nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý cũng vậy.

Nầy Kiều Trần Như ! Nếu Nhãn diệt thì tức là sanh, lão, bịnh, tử diệt, tất cả hữu chi diệt, nhẫn đến ý cũng như vậy.

Vì chúng sanh chẳng biết nhãn sanh diệt nên lưu chuyển trong ngũ đạo.

Đức Như Lai vì giúp nhãn sanh diệt nên diễn thuyết pháp, cũng vì nói khổ, đoạn khổ hành pháp.

Vì vậy nên Như Lai là Đại Phạm trong Phạm, là Đại Thiên trong Thiên, là Đại Tượng trong Tượng, là Đại Sa Môn trong Sa Môn, là Đại Bà La Môn trong Bà La Môn, là Đại Từ trong Từ, là Đại Bi trong Bi, là Vô Thượng Tôn, là Đại Trượng Phu, đã đến bờ kia của biển lớn sanh tử, là tối đại phước điền, là vô thắng thí chủ, tâm thường bình đẳng, là đại Pháp Vương trì đại cấm giới, là vô thượng tinh tiến, khéo tu phạm hạnh, biết rõ chánh đạo làm đại Đạo Sư thông đạt các nghiệp khác.

Nầy Kiều Trần Như ! Vì khéo biết nhãn sanh diệt nhơn duyên nên gọi là Như Lai. Vì chẳng biết rõ nhãn sanh diệt nhơn duyên nên gọi là phàm phu.

Thế nào là chẳng biết mà gọi là phàm phu ?

Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh đều nói có ngã, do đây nên chẳng biết tướng nhãn sanh diệt mà phải luân chuyển ngũ đạo.

Nầy Kiều Trần Như ! Có các nhà ngoại đạo nói rằng kiến là ngã, đến nói rằng tri ấy là ngã, nhãn ấy là nhơn duyên của ngã, đến ý ấy là nhơn duyên của ngã. Họ nói nhãn dụ như lỗ trống, ngã dụ như thấy. Nếu như vậy thì gọi là điên đảo, tại sao ? Vì thấy được nói đó là hòa hiệp, ở trong hòa hiệp mà cho là ngã nên là điên đảo.

Nếu nói lỗ trống dụ cho nhãn, còn thấy dụ cho ngã, nghĩa nầy chẳng đúng. Tại sao ? Vì trong lỗ trống mà thấy đó, cũng có thấy, cũng có nghe, cũng có biết, cũng cảm xúc mà nhãn thì không có như vậy. Vì vậy nên thấy ấy chẳng được gọi là ngã.

Lỗ trống dầu lâu cũ mà thấy vẫn tỏ rõ. Nhãn nếu lâu cũ thì chẳng được như vậy.

Ngã ấy gọi là thường. Nếu ngã là thấy, là nghe thì ngã là vô thường. Đã vô thường đâu được gọi là ngã.

Nầy Kiều Trần Như ! Vì điên đảo nhơn duyên nên chúng sanh chẳng thấy tứ chơn đế. Như Lai đạt tướng điên đảo ấy nên gọi là chánh trí. Ngã ấy tức là Như Lai.

Nếu có người biết được Như Lai ngã ấy, người nầy có thể phá hoại tướng điên đảo. Nếu hoại điên đảo thì phá ma nghiệp. Nếu phá ma nghiệp, người nầy có thể cứu khổ chư Long.

Nầy Kiều Trần Như ! Vì vậy nên nay Phật có thể cứu khổ não chư Long Vương vậy”.

Nghe pháp ấy, tất cả chư Long Vương và quyến thuộc vui mừng hớn hở, lòng khổ não liền trừ, đồng kính lễ nhứt tâm quy hướng Tam bửu.

Phật nói pháp ấy rồi, tất cả đại chúng đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

Trang trước Mục lục Trang sau


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.