Nội dung:
Hòa Thượng, Thượng Tuyên Hạ Hóa sanh vào Ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), một Thôn nhỏ Huyện Song Thành Tỉnh Mãn Châu, Trung Hoa; Thân phụ là cụ Ông Bạch Phú Hải vốn là một nông phu chất phát; Thân mẫu là cụ Bà Hồ Thị là một Phật tử thuần thành cả đời ăn chay niệm Phật. Ông Bà đã có bốn trai ba gái nay lại được thêm một út trai thật đúng như ý nguyện.
Điểm khác lạ là vừa mới sơ sinh Ngài đã khóc trong ba ngày liên tiếp. Cụ Ông châu mày bồn chồn lo lắng, cả nhà thì bối rối không yên. Cụ Bà cảm giác rằng đứa bé vừa hạ sanh tất không phải người thường, nhân trong đêm chuyển dạ lâm bồn Bà có một giấc mộng diệu kỳ. Bà mơ thấy Phật A Di Đà hiện thân, từ đôi mắt phóng hào quang vàng soi sáng cùng khắp thế giới và làm cho trời đất chuyển động, mục kích cảnh tượng này bà cảm thấy thân tâm tĩnh lặng, và chợt giật mình thức giấc xoay nhìn khắp bốn phía vách nhà mới biết đó chỉ là giấc mộng khiến bà không khỏi luyến tiếc, nhưng khi ngẫm lại thì cũng không phải là mộng vì cảm thấy có hương thơm phảng phất căn phòng hồi lâu mới hết; cho nên Bà lại niệm Phật càng rõ tiếng hơn. Sau đó không lâu Bà hạ sanh một bé trai, tức là Pháp sư An Từ tự Độ Luân và cũng là Hòa Thượng Tuyên Hóa sau này.
Hòa Thượng được nuôi dưỡng trong gia đình hiền đức và lớn lên trong một ngôi làng yên tĩnh ở miền quê. Nhiều người trong làng đã dời đi nơi khác để tầm danh cầu lợi nên cửa nhà thưa thớt, đường xá vắng bóng người, dân làng sống trong cảnh tĩnh lặng, an nhàn. Vì thế khi lên mười một tuổi Ngài chưa từng thấy qua người chết. Cho đến một hôm đang lúc cùng các bạn trẻ trong thôn vui đùa chạy ra ngoài đồng hoang vắng Ngài chợt thấy một đứa bé bọc trong manh chiếu bị bỏ trong bụi rậm, miệng nó ngậm và mắt thì nhắm nghiền. Bọn trẻ liền chạy tới lay gọi nó nhưng đứa bé không động đậy, Ngài không biết em bé này tại sao như thế liền hỏi một người lớn thì được cho biết rằng:
– Nó đã chết!
Ngài vẫn chưa hiểu nghĩa chữ CHẾT là gì? nên vội chạy về nhà hỏi mẹ, Mẹ Ngài bảo:
– Phàm là người ai cũng phải chết, có người chết già có người chết vì bệnh có người chết vì tai nạn, bất luận người giàu cũng như người nghèo hoặc người làm quan kẻ đi buôn người làm ruộng hay nhân công dầu có quyền uy chức phận chi nữa mọi người rồi cũng phải chết.
Càng lấy làm lạ Ngài lại hỏi:
– Nhưng thưa mẹ! vậy có cách nào để khỏi phải chết không?
Lúc đó có một vị Tu đạo đang viếng thăm gia đình Ngài, nghe Ngài hỏi liền đỡ lời:
– Có chứ con phải tu đạo, đó là cách duy nhất; con phải hiểu thấu bổn tâm, giác ngộ bản tánh của mình thì mới mong vĩnh viễn thoát ly luân hồi sanh tử.
Câu trả lời này đa số người nghe đều ít hiểu đạt, mặc dầu tuy chỉ mười một tuổi Ngài không những nghe xong liền hiểu mà còn lãnh ngộ ngay đạo lý thâm sâu này. Lời người khách đã in sâu vào tâm khảm Ngài. Sau đó Ngài quyết tâm xuất gia tu đạo. Khi Ngài trình ý định xuất thế của mình lên Mẹ thì Mẹ Ngài bảo rằng:
– Xuất gia là việc bố thí cao thượng cũng là việc khó làm nhất nếu con có căn lành cùng sự quyết chí thì con sẽ đạt được đạo quả. Mẹ rất vui mừng vì lời nguyện và ý chí của con đã ấn chứng cho giấc mơ kỳ diệu của mẹ thuở xưa, nhưng nay mẹ đã già, hẳn không còn sống bao lâu. Bốn người anh và ba người chị con đều đã lập gia đình, Mẹ hy vọng con ở lại để phụng dưỡng cha mẹ đến lúc cha mẹ qua đời thì con xuất gia cũng không muộn.
Ngài đã tôn trọng lòng mong ước của mẹ tạm gác lại ý nguyện xuất gia và thường theo mẹ Lễ Phật, Tụng Kinh. Từ đó hạt giống bồ đề trong tâm Ngài càng tăng trưởng.
Hạt giống bồ đề trong tâm Ngài ngày một đâm sâu, tuy tuổi còn nhỏ nhưng Ngài đã biết hồi quang phản chiếu. Lúc đầu Ngài tự phản tỉnh tính can cường của mình, nếu bị người khác chọc giận, Ngài chỉ biết la khóc thôi. Một khi đã khóc rồi thì khó mà ngưng được khiến cho cha mẹ khó phương đối trị. Sau đó tánh nết lại cứng cỏi hơn là không chịu ăn uống gì hết làm cho cha mẹ lại thêm phần sầu não. Lúc nhớ lại những khi không biết hiếu thảo với cha mẹ, thâm tâm Ngài rất ư hối hận. Ngài quyết định dùng hành động để sám hối những tội lỗi xưa. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng Ngài nghĩ ra một phương pháp là mỗi sáng mỗi chiều, đều hướng về cha mẹ mà lễ lạy. Lúc vừa bắt đầu lạy thì cha mẹ Ngài liền la rầy quở trách, hỏi tại sao mà làm như thế, thì Ngài thưa rằng:
– Xưa kia con không biết hiếu thảo với cha mẹ, nay biết rõ như thế là không phải đạo làm con. Vì thế con nay bắt đầu lạy cha mẹ để biểu thị lòng ăn năn hối cải của con.
Cha Ngài bảo:
– Biết rõ lỗi rồi nên sửa đổi, không cần phải lễ lạy.
Nhưng Ngài vẫn kiên trì giữ nguyện nhất định phải làm; Thế nên cha mẹ Ngài nghĩ rằng:
– Người kề cái chết thường nói những lời lành, có lẽ đứa con này sống chẳng được bao lâu nữa rồi!
Vì vậy mỗi lần Ngài lạy; Ông Bà cụ đều rơi lệ. Sợ cha mẹ quá thương tâm, Ngài bèn ra sân vào mỗi sáng tinh sương khi mọi người còn đang an giấc, Ngài hướng về cha mẹ lạy mỗi người ba lạy. Khuya đến khi mọi người đều lên giường ngủ Ngài lại ra ngoài hướng về cha mẹ mà lễ mỗi người thêm ba lạy nữa. Lạy như vậy qua một thời gian, Ngài cảm thấy vẫn chưa đủ nên lạy thêm trời, bấy giờ Ngài không biết tên của các vị thiên chủ, địa chủ, nhân chủ, mà chỉ biết trời, đất, quân thần, thân tộc sư trưởng. Thế nên mỗi sáng mỗi tối, Ngài lạy trời, đất, vị nguyên thủ quốc gia, cha mẹ và vị Thầy tương lai mỗi vị ba lạy. Sau đó Ngài lại lễ thêm đến tất cả người tốt, người xấu trên toàn thế giới. Ngài cầu mong những người đại ác, bại hoại xấu xa đều cải ác làm lành trở thành người tốt. Ngài cứ gia tăng mãi cho đến tám trăm ba mươi lạy, mỗi ngày sáng, tối hai thời, mỗi thời hai giờ rưỡi. Như vậy Ngài lạy năm giờ bất kể trời sương mưa gió tuyết.
Ngài hết lòng chăm sóc thân sinh và thân mẫu; mùa hè Ngài hầu quạt cho cha mẹ còn mùa đông Ngài sưởi ấm giường nằm cho Ông Bà cụ. Ngài phụng dưỡng cha mẹ như phụng dưỡng hai vị Phật sống, cho nên danh tiếng hiếu thảo của Ngài vang đồn khắp nơi, mọi người trong làng, đều tôn xưng Ngài là “Bạch Hiếu Tử,” tức người con chí hiếu họ Bạch.
Vào đêm 19 tháng 2 âm lịch, vía Quán Âm, năm Ngài mười hai tuổi, Ngài trải qua một giấc mơ dị kỳ. Trong mơ Ngài thấy mình bị lạc vào đồng vắng hoang dã, chỉ thấy cỏ xanh rậm rạp, nhìn lên chẳng thấy trời, nhìn xuống không thấy bóng người mà Ngài lại đi trên một con đường đầy hầm sâu hố cạn, đường lộ lại lõm chõm; có nhiều hố lớn bằng cái bàn, vừa rộng vừa sâu, nhìn xuống không thấy đáy tối tăm rất nguy hiểm nếu bị té xuống thì khó mà sống nổi. Ngài lặng người, đứng tại chỗ tiến không được mà thối cũng không xong, không biết phải dời chân cất bước như thế nào? Ngài kinh hoàng, nhìn quanh bốn phía không một bóng người để cầu cứu, vừa sợ, vừa run, chợt nghĩ đến ước nguyện tu hành chưa đạt, tâm hiếu phụng dưỡng cha mẹ chưa xong, nếu lúc nầy lỡ xảy ra việc gì không may… nghĩ đến đây Ngài bật khóc lớn. Ngay lúc ấy có một bà Lão, đáng mạo phúc hậu đột nhiên xuất hiện trước mặt, Ngài ngưỡng đầu lên xem thì thấy Bà mặc y phục người tu, tay cầm gậy trúc, chân mang dép rơm. Bà lộ vẻ trầm tư, đôi mắt sáng ngời, miệng mĩm cười bảo Ngài rằng:
– Này bé, sao con lại khóc dữ vậy?
– Con chớ lo hãy đi theo dấu chân ta thì sẽ không bị lạc, ta sẽ đưa con về nhà vì đường còn xa vạn dặm nên trong lúc đi con phải cẩn thận đừng để trượt chân nhé!
Bà lão đi trước Ngài lần bước theo sau, Bà cụ dẫn đường và không mấy chốc được thoát ra khỏi hiểm lộ đến một con đường lớn bằng phẳng, phút chốc ngôi nhà hiện ra, Ngài cảm thấy vui mừng khấp khởi: À! Cuối cùng mình đã về đến nhà rồi, thật là con đường khủng khiếp.
Ngoảnh nhìn lại con đường nguy hiểm ấy Ngài phát hiện có rất nhiều người đi theo: trẻ, già, đàn ông, đàn bà, tu sĩ và có cả những nhà học giả nữa, Ngài cảm thấy lạ bèn hỏi Bà Lão:
– Thưa Bà, họ là ai? Họ từ đâu đến và đang đi đâu vậy?
– Họ là những người đều có duyên với con, họ đang lần bước theo con để vượt qua đường hiểm trở và họ cũng muốn về nhà. Bà lão tiếp:
– Đường còn xa vậy con phải dìu dắt họ cho chu đáo, Bà có nhiều việc phải làm nơi khác chẳng bao lâu sẽ trở lại, nên bây giờ bà phải chia tay với con, chúng ta sẽ gặp nhau trong một ngày gần đây.
Ngài muốn hỏi quý danh và chỗ ở của Bà thì được trả lời:
– Chúng ta là người đồng hương, về tới nhà thì con sẽ biết, con không nên hỏi nhiều như vậy.
Nói xong Bà quay mình biến mất, Ngài bèn dẫn mọi người về nhà an toàn, vừa về đến nhà, Ngài bổng giật mình tỉnh giấc, lòng mừng thơi thới.
Trong giấc mơ lúc đi lạc vào đường đầy hố sâu hiểm trở Ngài như vừa trải qua một lần sinh tử, nhờ có Bà lão chỉ dẫn nên Ngài mới thoát nạn, sau khi tỉnh giấc Ngài cảm động vô cùng biết được đây không phải là mộng tầm thường và luôn nghĩ rằng: Sanh tử là đại sự, ai mà biết được vận mạng ngày mai của mình, một khi thân này mất đi muôn kiếp khó mà được lại; Vì vậy ý niệm xuất gia cầu Pháp tu đạo của Ngài ngày càng kiên cố. Ngài đem việc này trình lên cha mẹ và được Ông Bà đồng ý cho Ngài tìm Thầy học đạo. Ngài bắt đầu một cuộc hành cước tham vấn nhiều nơi, trải qua ba năm cuối cùng Ngài gặp được Lão Hòa Thượng Thường Trí. Khi diện kiến Hòa Thượng Ngài cảm giác như đã thân thiết với lão Hòa Thượng tự bao giờ, Ngài thỉnh Hòa Thượng ban giáo pháp tu đạo làm sao để cắt dứt dòng sanh tử. Lão Hòa Thượng trả lời:
– Con phải hằng thường chân thật tu hành pháp môn không hai (bất nhị) chỉ hướng Nhất thừa.
Nghe xong, Ngài hoan hỷ đảnh lễ Lão Hòa Thượng Thường Trí làm thầy và chánh thức Quy Y Tam Bảo.
Đại sư Thường Trí là một vị Thầy mà đạo đức cao dày với sự chứng đắc không thể nghĩ bàn. Mặc dầu không bao giờ Ngài học đọc, học viết nhưng môn đồ của Ngài thường nghe Ngài thuyết pháp trường hàng và kệ tụng làu thông, Ngài có khả năng đó vì Ngài đã giác ngộ chân tánh thanh tịnh.
Khi lên mười lăm tuổi Ngài mới bắt đầu đi học tại một trường tư. Lúc mới học làm câu đối, Ngài hứng thú vô cùng, càng học càng tâm đắc. Bấy giờ trong lớp có trên ba mươi bạn đồng học mỗi lần họ không đáp được câu đối liền tìm đến Ngài, Ngài đều hoan hỷ giúp họ. Đây là cơ hội cho Ngài tu trí và mở rộng tâm từ. Chưa đầy hai năm rưỡi sau Ngài đã thông suốt các ý chỉ của Tứ Thư, Ngũ Kinh và còn học thêm rất nhiều về ngành bốc, y, lý, số, chiêm tinh, bách tánh. Tuy nhiên Ngài chú trọng nhất về việc học và hành các kinh điển Phật-giáo. Ngài vượt hẳn các bạn đồng học và có thể thuộc làu một tác phẩm sau khi chỉ đọc qua một lần. Thế nên năm mười tám tuổi Ngài bắt đầu dạy học cho hơn ba mươi học trò; họ đều là con nhà nghèo, Ngài cho đó là nghĩa vụ của mình.
Một ngày nọ trong nhóm hơn ba mươi học trò của Ngài, đột nhiên có đến mười mấy người bị chứng bệnh đậu dương mao (lông dê), một loài bệnh truyền nhiễm khắp làng rất khó trị và có thể làm chết người. Nếu không kịp cứu chữa, thì trong vòng ba ngày người bệnh sẽ chết. Nếu chữa kịp thì bệnh sẽ thuyên giảm. Bệnh đậu này một khi phát khởi thì sanh chứng nhức đầu dữ dội, rất may là Ngài biết cách điều trị, Ngài dùng đầu một cây quẹt lửa nhấn vào chỗ nổi phù ở trước ngực của bệnh nhân, nếu chỗ bị nhấn đó hỏm vô mà không phù ra liền, thì chắc chắn là bệnh đậu dương mao, kế đến Ngài dùng cây nhọn giống như cây kim, chích thẳng vào chỗ sưng rồi cạy miếng thịt sưng đó lên rồi dùng dao xén đi. Lúc nhìn kỹ vào miếng da bị cắt thì thấy có nhiều sợi lông giống như lông dê. Phải trải qua sự chữa trị như vậy thì bệnh mới khỏi được.
Có một học trò mà Ngài rất thương mến, vì cậu này không những biết giữ quy củ mà còn học xuất sắc và Ngài tuyển cậu làm trưởng lớp. Không may cậu cũng mắc phải bệnh đậu này. Có câu nói rằng: “Quan tâm tất loạn (lo thì loạn),” Ngài thật quan tâm về bệnh tình của cậu học trò này nên rất lo âu. Thế nên sau buổi chiều tan học đó, chính Ngài cũng bị lây bệnh này.
Người khác bị bệnh Ngài còn có thể trị liệu cho, nhưng bây giờ bản thân Ngài bệnh thì làm sao đây? Cắt miếng thịt sưng ở trước thân thì không nói chi, nhưng nếu chỗ sưng phía sau lưng thì làm thế nào? Bấy giờ đầu Ngài đau tựa hồ muốn vở ra, Ngài nghĩ thầm: “Con đã hiến trọn cuộc đời cho Phật Pháp, nếu như Chư Phật thấy con chẳng còn giúp ích được gì, con sẽ hoan hỷ từ giả cõi đời này, nhưng nếu chúng sanh còn cần đến con, thì con tin tưởng rằng con sẽ lành bệnh mà không cần chữa trị gì cả.”
Nghĩ vậy xong, Ngài ngủ thiếp lúc nào không hay, chỉ một lát thì giật mình thức dậy và cảm như bị nghẹt cứng trong cổ họng. Ngài cảm thấy đầu Ngài biến lớn ra, không thở được vì trong cổ họng như có vật gì chận ngang. Ngài dùng sức khạc mạnh, sau những cơn ho, Ngài nhổ ra cả đàm lẫn nhiều chùm lông và từ đó Ngài được lành bệnh. Trong đời Ngài, đây là một trong những lần thoát chết mà Ngài đã kinh nghiệm qua. Từ đó Ngài nổ lực trong trách nhiệm truyền bá giáo pháp là sứ giả của đức Như Lai.
– Đốn và Tiệm
Sau khi quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí, Ngài rất tinh cần tu tập thiền định, bất cứ kinh Phật nào Ngài cũng xem như là trân bảo, siêu vấn từng chữ từng câu, ngày ngày tụng đọc, nghiền ngẫm và học thuộc.
Khi lên mười sáu, sau khi đi học được một năm, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Phật. Ngài đã giảng kinh Pháp Bảo Đàn, kinh Kim Cang cùng các kinh điển khác cho những vị Tu sĩ ở ngôi Chùa làng không biết đọc, viết và không có trường nào để học cả.
Trong lúc nghiên cứu kinh Pháp Bảo Đàn Ngài càng cảm thấy hoan hỷ tuyệt vời. Chúng ta hãy đọc lời các môn đồ của Lục Tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn như sau:
– Chúng ta là thiền phái chính thống, Trường phái Nam truyền Đốn-ngộ. Thầy của chúng ta, Đại sư Huệ Năng là thừa kế chân truyền của giáo pháp.
Ở miền Bắc các đệ tử của Ngài Thần Tú thì xiển dương Tiệm-giáo và tuyên bố rằng,
– Toàn bộ tâm pháp của Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn đã được trao truyền cho Thầy chúng ta là Ngài Thần Tú.
Vì thế hai trường phái trên tranh luận không thôi với nhau.
Khi Hòa Thượng Tuyên Hóa đọc những lời này Ngài nghĩ rằng: Làm sao có thể có Đốn và Tiệm được? Đốn và Tiệm có phải là hai không? Đốn và Tiệm có khác nhau không?
Cũng để diễn đạt tư tưởng của Ngài đối với đệ tử của hai Ngài Lục Tổ và Ngài Thần Tú, Ngài bèn làm bài kệ sau đây:
Đốn Tiệm tuy khác,
Thành công tại một.
Sao phân Nam Bắc,
Thánh Phàm tạm khác,
Căn tánh vẫn đồng.
ĐỐN có nghĩa là thành Phật tức khắc, còn Tiệm có nghĩa là thành đạo từ từ; Tuy nhiên khi một người đã thành Phật thì không còn có Đốn có Tiệm nữa; Tại sao cần phải phân biệt Bắc Tông của Ngài Thần Tú và Nam Tông của Lục Tổ?
Vì lẽ một người đã hành trì Phật pháp một cách tinh tấn trong quá khứ cho nên người ấy được giác ngộ tức thời và đạt Phật quả. “Thánh” chỉ cho đức Phật, còn “Phàm” là nói về chúng sanh; Hai ý kiến dường như khác nhau, nhưng bản chất của mỗi chúng sanh không khác. Đức Phật là một chúng sanh đã đạt được đạo quả, và chúng sanh là các đức Phật chưa thành Chánh-giác. Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành đạo dưới cội cây Bồ-đề và Ngài tuyên bố rằng: “Kỳ diệu thay! Thật kỳ diệu; tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, chỉ vì vọng tưởng và tham ái mà họ chưa chứng Bồ Đề.”
Cho nên Ngài đã nói rằng:
“Đừng bảo rằng đức Phật A Di Đà ở bên Tây phương, còn ở Đông phương chỉ là chúng sanh, chớ nên phân biệt như vậy, bản chất giống nhau và nếu quý vị thật sự hiểu được Phật pháp, thì chẳng có gì khác nhau cả. Nếu quý vị tiếp tục tranh luận thì quý vị còn chấp trước và sẽ không hiểu được Phật pháp; Quý vị cũng đừng tuyên dương Sư phụ của quý vị, như là: ‘Thầy tôi từ bên Tàu qua, mang theo Pháp Tạng chính thống, tức là Phật pháp chân truyền.’ Thay vào đó, hãy nói với người rằng: ‘Điều gì Thầy của chúng tôi nói đều là hư huyễn.’ Giáo pháp không thể được diễn tả bằng ngôn từ, lời nói, và trên bản chất không có chánh có tà, chẳng có đúng có sai. Đừng bàn chuyện thị phi về người. Đừng hành động giống như các đệ tử của Lục Tổ và Ngài Thần Tú.”
Một hôm Ngài tình cờ phát hiện ra kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, đọc qua một lần Ngài cảm kích vô cùng, biết rằng Đức Địa Tạng thật đại từ bi quan tâm đến chúng sanh như thế mà chúng sanh lại không biết. Vì thế Ngài phát nguyện mỗi ngày quỳ trước chánh điện tụng kinh Địa Tạng. Nền chánh điện làm bằng xi măng thô lại không có nệm quỳ, Ngài thì mặc quần vải mỏng mà quỳ trên nền cứng đó tụng kinh Địa Tạng mỗi lần tụng hai giờ, càng tụng càng hỷ lạc đến nỗi đầu gối bị sướt trầy rướm máu mà Ngài vẫn không hay, mỗi ngày Ngài cứ y giờ quỳ trước chánh điện thành tâm tụng kinh Địa Tạng.
Lần nọ, có một cư sĩ mang phẩm vật đến Chùa cúng dường, thấy Ngài quỳ tụng kinh như thế hết lòng khâm phục và tán thán Ngài với các người khác là:
– Thầy đó dụng công như vậy, như vậy… thật là tinh tấn quá mức.
Sau khi cư sĩ kia rời khỏi, mấy huynh đệ ở Chùa cùng lại mắng Ngài:
– Thầy muốn biểu diễn cố ý cho cư sĩ thấy mình là người chân tu, nhưng chẳng qua là phan duyên đó thôi!
Ngài không một lời biện giải, nhưng rõ biết tâm mình là chỉ muốn tụng kinh thôi.
Từ đó về sau nhiều việc ồn náo, vô lý xảy ra; Trước khi Ngài tụng kinh có những người khác đến la rầy: “Ồ! chỉ giả bộ tu hành đó mà.” Đến lúc tụng kinh xong họ lại giễu báng: “Ông Thầy giả bộ tu hành, tụng kinh xong rồi kìa.” Ngày ngày đều bị dèm pha nhưng Ngài vẫn nhẫn nại không nói một lời. Trải qua hơn một trăm ngày tụng kinh, ma chướng thật đến. Ngày nọ vừa tụng kinh xong, có một vị đại sư huynh, không nói một lời đến tát vào mặt Ngài một cái, Ngài thắc mắc không biết vì sao, nhưng vẫn không dám hỏi. Xong ông sư huynh quát lên rằng,
– Thầy là ai? Sao lười như thế trốn lánh công tác và an nhàn ở đây, người ta làm việc còn Thầy làm bộ tụng kinh, phô trương cho người ta xem hả? Trong chùa này Thầy làm gì có chỗ để tu? Thầy có công đức gì để tu hành ở đây?
Từ đó Ngài ngừng việc tụng kinh. Tu đạo thật không dễ dàng và luôn gặp chướng ngại, người dụng công tu hành có chút điểm thành tựu thì ma sẽ đến khảo nghiệm định lực của họ; Lúc bắt đầu tu đạo Ngài đã tu trong nghịch cảnh nhưng Ngài chưa từng thối tâm, luôn tinh tấn tu trì trước sau như một.
Đến năm mười tám tuổi công phu tu tập thiền định của Ngài đã được thuần thục. Khi lên mười chín, đêm 29 tháng chạp, Ngài mơ thấy mình đi vào một túp lều tranh, góc phía Nam có một Ông lão và hai Bà lão, phía Bắc có một Thiếu phụ trẻ, nhan sắc cực kỳ diễm lệ, ăn mặc diêm dúa, bồng con nhỏ khoảng một tuổi ngồi trên giường. Bên góc phía Đông có một cây đèn dầu trơ trọi để trên cái rương gỗ; rồi thấy nàng ta lấy tay dập tắt ngọn đèn, và cố ý nói:
– Đêm nay hắn lại không về nhà!
Khi đèn đã tắt, nàng ta nhẹ bước nhanh tới và dang hai tay ôm chầm lấy Ngài; biết thiếu phụ có tà ý nên Ngài quát to:
– Ngươi làm gì thế?
Ngài nói liền mấy lần như vậy. Không nghe tiếng trả lời, Ngài biết rõ đó chính là yêu ma quỷ quái, nếu không thì tại sao không biết hổ thẹn, Ngài bèn niệm lớn: “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, xin Ngài mau đến cứu con!” Nhờ sức hộ trì của Đức Bồ Tát, vừa niệm xong Ngài giật mình tỉnh dậy, biết mình vừa trải qua cơn ác mộng.
Cũng lạ là phần thân thể mà Ngài bị con ma ôm trúng bị đau nhức khoảng một tuần lễ mới hết. Người nghe chuyện đều kinh dị vì không biết đây là thật hay ảo.
Sau biến cố này; Ngài dạy các môn đệ như sau:
Tất cả đều là những cuộc trắc nhiệm
Để đo lường phản ứng của ta
Nếu không tỉnh giấc để sa vào cám dỗ
Thì mất hết công đức tu hành.
Lúc còn đi học Ngài cũng tham gia vào các Hội đoàn Phật giáo,Từ thiện, Đạo đức… Sau khi ngưng học Ngài dốc hết tinh thần vào việc thiện, không những đã sáng lập trường học miễn phí, cử ban diển giảng mà còn tế bần cứu khốn nữa.
Năm mười sáu tuổi Ngài tham gia Hội Đạo Đức và chỉ một năm sau Ngài đã giảng pháp cho sáu, bảy mươi người đa số là người trung niên.
Khi thuyết giảng Ngài luôn dùng phương cách đơn giản, dễ hiểu. Một ví dụ là việc ăn vỏ khoai, mọi khi các Hội viên dùng bữa trưa tại Hội và không bao giờ họ chịu ăn khoai cả vỏ. Trước đó, Ngài đã giảng về việc ăn những gì người khác ăn không được và làm những gì người khác làm không được, và quan trọng nhất là thực hành điều này một cách chân thật. Những lời dạy của Ngài đã không rót được vào tai của các Hội viên vì họ đã không chú ý nghe.
Vào một hôm nọ, có một số Hội viên dùng bữa trưa với khoai, như thường lệ họ nhổ vỏ khoai cùng khắp sàn nhà. Ngài bèn lấy một cái bát đi vòng quanh nhặt tất cả vỏ khoai, rồi ngồi xuống ăn các vỏ ấy. Hội viên thấy vậy rất đỗi ngỡ ngàng vì chính Thầy mình đã ăn lại vở khoai do mình đã nhai và nhổ ra. Đến lúc đó, họ mới thấm sâu bài học của Thầy về việc ăn những gì người khác không ăn được; Từ đó các Hội viên ăn năn hối lỗi và thay đổi tánh nết.
Mọi người trong làng và các bạn trong Hội đều rất kính ngưỡng lòng hiếu hạnh của Ngài nên đã cử Ngài làm Hội trưởng, lãnh đạo Hội Thiện Nguyện bài trừ hút sách, rượu chè. Lúc đó một người bạn Ngài họ Thiệu, từng làm Phó Hội Trưởng, ông vốn khuyên người cai thuốc, bỏ rượu, không hiểu vì sao chính ông lại phạm giới uống rượu, mọi người trong Hội đều khuyên giải nhưng ông không nghe. Khi Ngài biết được việc này, Ngài nói rằng:
– Tôi sẽ cố gắng thuyết phục ông ta bỏ rượu nhưng nếu tôi thất bại tôi sẽ tự sát và sẽ không bao giờ trở lại thế giới ô trược này nữa.
Vì Ngài nhiệt tâm, đối xử chí thành khẩn thiết như vậy nên đã cảm hóa ông Thiệu, khi ông biết rằng một người bạn vì mình mà dám hy sinh cả tánh mạng nên lập tức ngưng uống rượu và hối lỗi. Sau đó ông được phục hồi chức vụ như xưa.
Vì duy chỉ có Đức mới mong cảm hóa được người khác giữ gìn Đạo lý, mà chính Ngài là người nghiêm trì trước tiên và Ngài tiếp tục ra công làm việc không hề biết mỏi mệt để cất trường học, phòng hội miễn phí cho việc thuyết giảng về các sự tai hại của rượu, thuốc lá, thuốc phiện.
Câu chuyện dưới đây xảy ra lúc Ngài đang nhậm chức Hội Trưởng Hội Đạo Đức Huyện Song Thành,Thị Trấn Lạp Lâm. Một hôm Ngài ngồi dưới gốc cây đọc bài ký thuật, đến đoạn Trương Giám Lý trọng đức viễn sắc, Ngài cảm kích vô cùng bèn ngưỡng lên trời phát nguyện: Xin Trời cao chứng tri, từ đây về sau, con nguyện theo gương sáng của Ngài Trương Nhã Hiên.
Thông thường khi có người phát tâm tu hành tinh tấn thì họ thường gặp nhiều thử thách. Ngay đêm hôm đó có một người đàn bà nhan sắc mỹ miều, lẻn vô văn phòng Ngài rồi dùng sắc đẹp, tiền tài để cám dỗ Ngài, Ngài giữ chánh niệm và nghĩ rằng: Có lẽ người nữ này do Trời cao giả dạng để thử thách lòng thành của ta nên Ngài chí tâm niệm Phật. Nàng kia vẫn cố tình quyến rũ, Ngài nghiêm sắc mặt hỏi cô ta:
– Là một Hội viên của Hội Đạo Đức, ngươi hẳn biết luật nhân quả, vậy giờ ngươi muốn đi lên hay muốn xuống địa ngục?
– Lẽ tất nhiên tôi muốn đi lên.
– Thì ngươi không được hành động như vậy nữa, nếu không thì ngươi chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục thôi.
Thấy Ngài chánh khí lẫm liệt người nữ kia hổ thẹn và âm thầm bỏ đi.
Khi Ngài làm việc trong Hội Đạo Đức biến cố sau đây xảy ra: Một hôm, có một hội viên tên Thái Thục Khôn bỗng nhiên trở nên điên loạn, tựa hồ như bị ma quỷ nhập, y nói toàn những lời xằng bậy tự xưng,
– Ta là Hoàng Đại Thiên vì các ngươi không kính phục ta nên ta đến để răn dạy các ngươi đây…
Khi ấy Ông Cảnh Tú Bân, Trưởng ban giảng huấn của Hội Đạo Đức bước lên giảng giải lời hơn lẽ thiệt nhưng Thái Thục Khôn vừa chửi mắng vừa làm náo loạn không nghe lời khuyên, Ông Trưởng ban Tư Pháp và ngay cả Ông Hội Trưởng bước ra khuyên giải nhưng đều bị nhục mạ không phục. Ngài bèn bước tới và tuyên bố rằng:
– Hội Đạo Đức là đoàn thể noi theo luân thường đạo lý của Đất Trời, ngươi đến phá rối hội này tức là nghịch Thiên lý; Vì lẽ đó ta nay phải “thế thiên hành đạo” để trừng phạt ngươi, tuyệt đối ngươi không thể thoát được.
Nghe xong Thái Thục Khôn sắc mặt run sợ, nói:
– Thôi…thôi…., tôi…đi đây.
Lúc đó người bị quỷ ám muốn đi mà không cất chân lên được, nên y càng kinh hãi liền quỳ xuống trước mặt Ngài dập đầu cầu thỉnh:
– Xin Ngài từ bi thứ tội cho, từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ dám nhiễu loạn Hội này nữa.
Thấy y đã hối cải. Ngài bảo:
– Ngươi tự biết ăn năn, nay ta tha cho ngươi có thể đi, nếu còn tái phạm thì ta sẽ không dung thứ đâu.
Khi hồn ma vái lạy rồi bỏ đi, thì Thái Thục Khôn cũng chợt tỉnh lại. Từ đó không còn chuyện như thế phát sanh nữa.
Năm mười chín tuổi, Thân Mẫu Ngài lâm bệnh không cử động được, Ngài săn sóc mẹ giặt áo quần, đút thức ăn và chu toàn mọi sự với lòng chí hiếu. Gần Thị trấn Hợp Nhĩ Tân, Bối Âm Hà, có một con hồ ly tinh rất nhiều quyền pháp mà người ta gọi là Hồ Tiên; nó có thể biến hóa thành nhiều hình tướng khác nhau. Khi người Nhật xâm chiếm Mãn Châu, vị Hồ Tiên này kháng cự lại người Nhật, quân đội Nhật đã bí mật cất một lò nấu dầu sôi bằng điện, và họ đã chở những người mà họ muốn bỏ vào vạc dầu đến đó, cách thức thủ tiêu này rất hiệu nghiệm vì không để lại dấu vết gì.
Hồ Tiên bèn biến thành một người già và đi vào khu này. Người Nhật bắn vào ông, nhưng ông không hề hấn gì và ông còn làm nổ tung vạc dầu; nhiều quân Nhật đã bị chết trong vụ này và số còn lại phải rút đi nơi khác vì cho là bị ma ám.
Người ta cũng biết rằng Hồ Tiên có thể chữa nhiều bệnh, ai muốn cầu được trị, chỉ cần đến chỗ ông ta đặt một cái bát và phủ lên một miếng vải đỏ rồi nói lên lời khẩn cầu. Nghe vậy Ngài đến chỗ ông Hồ Tiên để xin chữa bệnh cho mẹ và đặt cái bát, quỳ xuống xin được giúp đỡ và chờ đợi, Ngài đã quỳ liên tiếp trong ba ngày ba đêm không động đậy, không đứng dậy cũng không ăn uống gì cả, nhưng chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng đến ngày thứ ba Ngài bỏ ra về và chẳng bao lâu mẹ Ngài tạ thế.
Khi ấy là hạ tuần tháng ba âm lịch, những cơn gió ấm mùa xuân làm tuyết tan nên đuờng xá lầy lội khó đi; Vì lẽ mộ phần xa đến hơn mười dặm, trước ngày di chuyển quan tài gia quyến cùng thân hữu rất lo lắng không biết làm sao để khiêng quan tài đến nơi. Đêm đó (trước hôm tang lễ) Ngài thầm lặng cầu xin Long Thiên rằng: Xin cho tuyết rơi hay khiến nước đông lại; đến canh năm, khí hậu đột nhiên chuyển biến, lại thêm gió Bắc thổi đến nhiệt độ hạ xuống và tuyết liền rơi. Ngày thứ hai đất phủ tuyết trắng xoá, đường lộ bùn lầy hôm trước nay được tuyết phủ trở nên khô ráo. Dân làng thấy thế đều biết là do lòng hiếu hạnh của Ngài mà cảm động trời đất; khoảng bốn mươi người đã tham dự tang lễ. Lễ an táng xong, mọi người đều trở về nhà; duy Ngài vẫn ở lại bên mộ phần của mẹ tọa thiền, kiên trì thủ hiếu.
Sau khi mọi người đã đi, khó khăn bắt đầu; Ngài ngồi được một ngày thì hôm sau có một bầy chó sói tới, trông chúng thật là khủng khiếp, và người ta nói rằng chúng đã ăn thịt người; Ngài tự bảo rằng:- Ta hãy coi chúng như không có. Nếu chúng là cọp dữ ta cũng không sợ nữa vì ta đang hành trì hiếu đạo để trả hiếu cho mẹ, và nếu ta bị những con chó dữ này ăn thịt, thì âu cũng là một sự hy sinh tôn quý.
Những con chó sói khi tiến tới gần, chúng nép mình sát đất gầm gừ một cách hung dữ. Từ khoảng ba mươi bộ chúng bò tới cho đến khi chỉ còn cách Ngài khoảng mười bộ. Rồi bỗng nhiên cả bầy quay đầu lại và bỏ đi, nếu Ngài chạy có lẽ Ngài đã bị những con chó sói ăn thịt, nhưng vì Ngài ngồi bất động nên chúng tưởng rằng, Người này không làm phiền chúng ta, cho nên chúng ta cũng không làm phiền ông ấy.
Nhiều người dân vùng này thường bị những con chó sói rượt đuổi, nhưng chúng không bao giờ làm phiền những người đến thăm Ngài.
Xuất gia không được bao lâu thì Ngài đến thăm một người bà con, người này rất tin Hồ Tiên và đã mời Hồ Tiên đến nhà để cúng dường; khi Hồ Tiên đến và thấy Ngài, y liền quỳ xuống và xin Ngài nhận làm đệ tử. Ngài hỏi:
– Ông là ai?
– Tôi là Hồ Tiên ở Bối Âm Hồ.
– Thật sao? Tôi đã quỳ ba ngày liên tiếp để xin ông cho thuốc mà ông không cho và bây giờ lại muốn tôn tôi làm Thầy – Có lý nào?
– Dạ không phải vậy! Không phải là tôi không muốn cho Ngài thuốc. Tôi đã muốn đưa thuốc để được thân cận Ngài, nhưng mỗi lần tôi đến gần, tôi không mở mắt ra được; Lúc bấy giờ tôi đã muốn quy y Ngài, nhưng tôi không thể nào đến gần Ngài được.
Nghe lời này của Hồ Tiên, quý vị có thể lấy làm lạ tại sao cứ mỗi lần muốn đưa thuốc cho Ngài, Hồ Tiên không mở mắt ra được, nhưng nếu quý vị không hiểu, thì cũng chẳng có cách gì giải thích cho quý vị được; khi vẽ một hình người, người ta vẽ những đường nét vòng ngoài chớ không vẽ ruột gan. Để có thể biết Hồ Tiên đã thấy gì, quý vị cần phải tu hành chuyên cần nghiêm túc, và quý vị sẽ tự thấy câu trả lời.
Ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch, Ngài đến Tam Duyên Tự gần ga xe lửa Thôn Bình Phòng ở phía Nam Thành phố Hợp Nhĩ Tân (Harbin) chánh thức xuất gia thọ mười giới Sa Di do Hòa Thượng, thượng Thường hạ Trí truyền giới rồi Ngài trở lại mộ phần của mẹ, một vị cư sĩ dùng rơm tranh cất một cái lều dài tám bộ rộng năm bộ chỉ vừa đủ cho một người ở, căn lều có thể ngăn gió che mưa, nhưng thật ra trong lều và ngoài lều không khác; chỉ mặc một chiếc áo rách Ngài nhận chịu cái lạnh ghê gớm của mùa đông và cái nóng kinh người của mùa hè Mãn Châu. Ngài hành trì hiếu đạo theo tục cổ truyền bằng cách canh chừng phần mộ của mẹ trong ba năm, Ngài chỉ ăn một bữa ngọ mỗi ngày và không bao giờ nằm xuống để ngủ.
Ngài đã đọc nhiều Kinh sách bên mộ phần của mẹ. Trước hết Ngài đọc kinh Pháp Hoa và hết sức vui mừng. Ngài kể: Tôi đã tụng Pháp Hoa trong khi quỳ liên tiếp bảy ngày bảy đêm quên ăn quên ngủ đến nỗi máu ứa ra từ mắt tôi; kế đến tôi đọc Kinh Lăng Nghiêm, tâm bừng ngộ thật khó diễn tả.
Ngài đã nói: Tu hành đơn giản chỉ là chịu đựng cái gì không chịu đựng nổi tôi phải quyết tâm, cái gì người khác làm không được, tôi làm, cái gì người khác chịu khổ không được, tôi chịu, cái gì người khác ăn không được, tôi ăn. Thanh tịnh tâm ý cho đến mức không có một niệm khởi lên vì ham muốn một miếng ăn hay một giọt nước. Quý vị bảo rằng tôi không làm được? Vậy hãy làm cái gì mà quý vị cho rằng không làm được! Đó là hành trì, và đó là điều duy nhất đáng kể.
Buông đao kiếm thành Hiếu tử.
Tại Mãn Châu, Ngài có một người bạn đạo tên Vưu Trí Huệ, lúc trước chuyên hành nghề trộm cắp nhưng nay đã cải tà quy chánh và thủ hiếu cạnh mộ phần cha mẹ ông. Nhờ công phu tu hành nên ông phát được chút trí huệ; Cho nên một vị sư đã đặt cho ông biệt danh là Hiền giả Vưu. Hoàn cảnh nào đã chuyển hóa ông ta từ một tên trộm để trở thành một người hiền lương?
Một lần nọ khi ông đang hành nghề trộm, bị người ta phát giác và bắn trúng tay ông; Theo thường lệ vết thương này có thể lành trong khoảng một tháng, nhưng đã trải qua cả năm mà chỗ bị thương vẩn chưa lành, do đó ông đã ăn năn hối cải tội lỗi của mình. Ông tự than: Ôi chao mình đi ăn trộm và bị người ta bắn, may mà chưa chết! nhưng không hiểu tại sao vết thương đã lâu không chịu lành thế này?
Nghĩ xong ông bèn phát lời nguyện rằng: “Nếu vết thương này được lành trong khoảng một tuần lễ thì tôi sẽ không bao giờ đi ăn trộm nữa và tôi sẽ ra ngồi tại mộ phần cha mẹ tôi để trả hiếu.”
Lạ thay chưa hết một tuần thì vết thương của ông tự nhiên lành hẳn, cho nên từ đó ông đã từ bỏ mọi chuyện để ra mộ song thân thủ hiếu.
Ngài nói: Bổn phận làm con nên hành hiếu đạo để tưởng nhớ công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục. Một người còn sống lại ra ngồi bên ngôi mộ thì phỏng có ích chi? Chuyện này rất có ý nghĩa và chẳng có ích lợi gì chỉ trừ khi nào các vị không thể làm được, vì đây là một việc rất khó làm. Theo truyền thống Trung Hoa, người con hiếu thảo thường thủ hiếu bằng cách ra ngồi bên cạnh mộ phần song thân đến ba năm. Chuyện này đối với những vị bốn, năm chục tuổi thì tương đối dễ hơn vì họ đã chững chạc và dễ điều phục tâm hơn; nhưng nếu đối với những thanh niên còn trẻ thì quả thật là thiên nan vạn nan. Vì lúc đó hành giả sẽ chẳng có một ai để chuyện trò lại không có một người bên cạnh đặng nhờ đở và phải tự đương đầu với bao nhiêu là khó khăn trắc trở.
Lúc bấy giờ Vưu Hiếu Tử chỉ mới hai mươi mốt tuổi. Thầy ông là người đức độ đã dạy ông ta tu pháp thiền quán và ông Vưu cũng đã dụng công tu hành thật nghiêm mật. Có một hôm đang lúc hành thiền có một con quỷ hiện thân dưới dạng một con rồng hung tợn với cặp mắt như nẩy lửa; Nó quấn chung quanh ông Vưu ba vòng rồi từ từ xiết chặt nhưng sau đó Thầy ông đã điều phục nó và còn nhận làm đồ đệ. Từ đó trở đi Rồng này trở thành vị Hộ pháp đắc lực cho ông Vưu.
Vưu Hiếu Tử hành trì được khoảng hai năm rưỡi, thì gặp lúc trời mưa liên miên, một hôm mưa tầm tả cuốn trôi tất cả hoa màu mới trồng. Ông Vưu bèn phát một lời nguyện: Nếu trời ngưng mưa trong ba ngày tôi nguyện sẽ cắt thịt mình để cúng tế cho Trời.
Lúc bấy giờ ông chưa biết Phật pháp nên ông mới phát nguyện cúng dường cho Trời. Chưa đến ba ngày sau thì trời ngưng mưa và Vưu Hiếu Tử liền cắt một mảnh thịt trên thân. Lần đầu cắt không đứt nhưng ông vẫn cứ cố, cố nữa và sau cùng ông đã cắt được khoảng nửa ký lô thịt mình; khiến ông qụy ngã bất tỉnh trên vũng máu đỏ thắm cả một vùng đất rộng. Khi người mang cơm đến, thấy cảnh tượng trên, vụt chạy báo nhà chức trách. Chính quyền địa phương liền phái một nhân viên đến điều tra, xong việc vị nhân viên này tham gia vào buổi cúng tế này. Sau vụ này rất nhiều người được cảm hóa qua hành động của Vưu Hiếu Tử và họ đã ca ngợi rằng ông như một vị đại Bồ Tát; và người ta đã lũ lượt kéo nhau đến viếng thăm ông. Có một chú chim nhỏ cũng trở thành bạn tốt của ông, con chim này biết nói tiếng người và còn hót rằng: Hãy làm điều lành; Hãy làm điều lành! Càng làm nhiều điều lành càng tốt.
Chim nhỏ thường đậu trên đầu, trên tay, trên vai ông một cách thân thích; Tuy nhiên khi có khách đến viếng nó liền bay đi nơi khác và chỉ trở về lúc khách viếng đã rời khỏi.
Ba tuần lễ sau khi vết thương của ông Vưu lành hẳn thì cũng là lúc chim bay đi luôn không trở lại nữa.
Khi Vưu Hiếu Tử đã mãn ba năm thủ hiếu, Hội Đạo Đức mời thuyết giảng cho Hội. Nhờ biện tài sẵn có, ông đã dạy cho nhiều người về lễ nghi, phép tắc cùng đạo đức và lòng nhân từ.
Lúc bấy giờ người Trung Hoa đã không còn lệ để râu tóc dài nhưng ông vẫn giữ lệ thường nên đã không bao giờ cạo râu tóc. Ông đã để râu tóc mọc dài đúng theo Hiếu Đạo dạy trong Cổ Thư: Thân ta, da ta, râu tóc ta là do cha mẹ sinh ra; không làm gì tổn hại cho thân thể mình thì đó mới chính là đúng với lẽ Đạo.
Thật vậy bảo trọng lấy thân mình là sự bắt đầu của Đạo Hiếu. Ngoài ra lời nói của ông luôn luôn hợp với đạo lý; Hiếu Tử Vưu cũng ăn chay trường và luôn niệm Phật.
Chắc các vị có thể lấy làm lạ là tại sao ông Vưu là một người luôn bảo vệ râu tóc mình mà dám cắt đi một miếng thịt nơi thân? Như vậy có được coi là có hiếu không? Nếu dưới suối vàng cha mẹ ông thấy điều này, họ có thể khóc thét lên không?
Nguyên vì Vưu Hiếu Tử muốn dâng cúng da thịt mình để xin Trời cao cảm ứng với lời khẩn cầu vì phúc lợi cho tất cả dân làng; mưa đã ngưng ngay sau lời phát nguyện của ông; một lời nguyện phát ra với dụng tâm cứu vớt tất cả mọi người. Vì lòng nhân từ và dũng cảm này, ông đã hy sinh cái mà người khác không dám hy sinh cho nên đã được cảm ứng.
Khi thuyết giảng tại hội Đạo Đức, Vưu Hiếu Tử đã nghe danh đồn về Ngài, như vì chúng ta đã biết Ngài cũng đã từng hành trì hiếu đạo và cũng được gọi là Bạch Hiếu Tử; tuy nhiên một chút ngã mạn đã khởi lên trong tâm người trẻ tuổi này: Ta mới có hai mươi mốt tuổi mà đã biết thủ hiếu; khi biết ra còn có người thủ hiếu lúc chỉ mới mười chín tuổi, mình chưa phải là người đầu phá kỷ lục nên nhất quyết phải gặp cho được Ngài. Đồng thời lúc ấy Ngài cũng muốn gặp người hiếu tử họ Vưu. Một ngày nọ, Ngài đến thăm Hội Đạo Đức và nhận ra ông Vưu ngay qua dáng vóc râu tóc của ông; trong khi đó Ngài đã là một tu sĩ với đầu tròn áo vuông. Ngài hỏi:
– Ông chắc là Vưu thiện nhân đây rồi!
– Còn ông là ai?
– Tôi không biết tôi, nhưng tôi biết ông; nhưng thật ra, tôi không biết tôi là ai. Có lẽ ông biết ông là ai, nhưng tôi không biết tôi là ai?
Nghe qua Vưu Hiếu Tử rất đổi ngạc nhiên và thốt lên:
– Thật sao?
Lúc bấy giờ có người đến giới thiệu hai người với nhau. Ông Vưu bèn hỏi:
– Ông từ đâu đến?
– Tôi đến từ chỗ tôi đã đến.
Ông Vưu lấy làm lạ bởi câu trả lời này.
Ngài bèn hỏi ông:
– Còn ông đang đi đâu?
– Tôi chẳng đi đâu cả.
– Thế thì tại sao ông lại hỏi tôi đã từ đâu đến?
Nghe đến đây Vưu Hiếu Tử ra chiều lý thú bèn nắm bắt lấy tay Ngài ví như đôi bạn tri kỷ.
Sau cuộc gặp gỡ và đối thoại thú vị này hai vị Hiếu Tử đã trở thành đề tài hứng thú cho mọi người bàn luận, truyền tụng khắp nơi.
Ngài đã nói rằng:
– Chẳng có nơi nào để đến mà cũng chẳng có nơi nào để đi. Không đến cũng không đi nhưng vẫn đến và đi; đến từ nơi đến và đi từ nơi đi. Kinh Kim Cang dạy: “Vì không đến từ đâu cả và cũng không có nơi nào để đi. Nên gọi là Như Lai;” Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật.
Như Lai giả
Vô sở tùng lai
Diệc vô sở khứ
Cố danh Như Lai.
Khi hai Hiếu Tử diện kiến lần đầu, cả Vưu Hiếu Tử lẫn Bạch Hiếu Tử đều không nói một lời. Nhưng Vưu Hiếu Tử vì hiếu kỳ nên đã hỏi Ngài từ đâu đến. Sư Phụ kể lại rằng: “Vừa mở miệng hỏi, Vưu Hiếu Tử liền biết rằng mình đã lầm. Tại sao?
Mở miệng ra là các vị đã lầm
Khởi lên một niệm là các vị đã sai
Bất luận điều gì có thể nói được bằng lời
Đều không phải là chân lý.
Điều nói được không phải là liễu pháp; Giáo pháp rốt ráo không nói được bằng lời mà cũng không được truyền. Cần phải thấy như vậy.”
Trong thời kỳ thủ hiếu và quyết chí tu đạo, Ngài phát nguyện tôn thủ giới luật Phật chế là ăn mỗi ngày một bữa trước ngọ, vì Ngài biết rằng trên thế gian này nhiều người bị đói và Ngài muốn cúng dường thức ăn của Ngài cho họ. Khi ngồi ngoài mộ phần mẹ, Ngài không nấu ăn cho mình và nếu không ai đem thực phẩm đến Ngài đành nhịn đói; Lúc bấy giờ có một lão cư sĩ tên là Đường Ngọc Minh tự phát tâm đem thức ăn cúng dường Ngài mỗi ngày.
Khi đó vào đầu mùa hè ngày ngày mưa rơi tầm tả đường xá lầy lội, đi lại khó khăn. Ngài thương cho cư sĩ Đường tuổi cao sức yếu nên bảo ông rằng:
– Ngày nào trời cũng mưa không dứt, không tiện đi lại, vả lại Thầy còn lương khô, cụ hãy đợi khi nào mưa tạnh hãy mang thức ăn trở lại, lương khô ở đây Thầy có thể dùng đến hơn hai mươi ngày, Lão cư sĩ tin lời Ngài cho nên khi mưa đến, ông ta ở nhà; Tất nhiên Ngài đã không có đến một hạt gạo trong lều.
Đợi hơn hai mươi ngày qua, khi trời đã tạnh mưa, thời tiết trong lành Lão cư sĩ mới mang thức ăn trở lại cúng dường Ngài. Nhưng khi đến lều tranh, ông Lão mới biết được rằng trong suốt hai mươi ba ngày liền Ngài nhắm mắt, đoan chánh tọa thiền dụng công, không ăn chi cả. Khi ông lão trở lại, Ngài hỏi:
– Từ lần chót ông viếng thăm cho đến nay đã được bao lâu rồi?
– Hai mươi ba ngày.
Lão cư sĩ trả lời và hỏi về tình trạng sức khỏe của Ngài với vẻ lo lắng; Ngài đáp rằng mỗi ngày, Ngài chuyên tâm tọa thiền nên không thấy đói. Ông Lão lại càng khâm phục hạnh tu trì của Ngài.
Trong mười tám đại nguyện của Ngài có nguyện thứ mười hai là: Tôi nguyện thọ nhận tất cả khổ đau của mọi chúng sanh trong Pháp giới để chịu thay cho họ. Để hoàn thành đại nguyện này, mỗi khi có người lâm trọng bệnh khó chữa xin Ngài giúp đỡ nếu Ngài thấy họ thành tâm, Ngài hết lòng tìm đủ mọi cách để giúp họ toại nguyện, vì Ngài biết rõ rằng tất cả bệnh hoạn đều không phải từ ngoài thân mà phát khởi và thân thể có được là do Tứ Đại: đất nước gió lửa giả hợp, nếu người ta không chấp vào nó và có thể xả thân thì làm gì có bệnh.
“Xả thân” tức không chấp, nghĩa là bỏ ra ngoài sự khoái lạc vật chất để học và hành Phật pháp gây lợi lạc cho chúng sanh, phá trừ chấp ngã, nhất tâm niệm Phật; hành trì phương pháp này giúp con người thoát khỏi sông mê bể khổ và đạt được thường, lạc, ngã, tịnh của Niết-bàn.
Những việc xảy ra ghi lại sau đây đều là những chứng tích cho thấy nhờ đạo lực của Ngài, phối hợp với sự thành khẩn của tín chủ nên Ngài đã cứu sống rất nhiều người. Do đó danh tiếng của Ngài ngày một vang xa.
Trong thôn của Ngài có một vị phu nhân tên là Trương Lý Thị tuổi ngoài bốn mươi. Trong bốn năm liền, bà này bị bệnh nôn mửa kinh niên, cả Đông lẫn Tây y đều bó tay không chữa được chứng bệnh này, và mọi thứ thuốc đều vô hiệu. Bà nghe đức hiếu hạnh và sự cứu giúp vô số dân làng của Ngài nên bà đến bên mộ phần kính cẩn quỳ xin Ngài giúp đỡ. Ngài quán sát căn nguyên sanh bệnh rồi giảng cho bà rõ đạo lý làm người và nguyên do của bệnh tật là một sản phẩm của luật nhân quả. Ngài khuyên bà sám hối những tội lỗi xưa cùng kiền thành niệm Phật, Bà ta y lời, hành trì thật nghiêm túc và mỗi ngày thành tâm hối lỗi. Trong vòng hai mươi mốt ngày bệnh của bà lành hẳn mà không cần đến thuốc.
Ngoài làng có một bà họ Đường lâm bồn qua bốn ngày liền mà chưa sanh con được. Bác sĩ đã không có cách gì cứu chữa, thấy cảnh sản phụ mạng sống mỏng manh, người nhà nóng lòng, dọ hỏi khắp nơi mới biết đến Ngài. Họ vội chạy đến mong Ngài cấp cứu, Ngài bảo họ hãy trở về nhà và bảo hết cả nhà đồng dâng hương niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” và phát nguyện ăn chay một trăm ngày; Nếu làm được như vậy thì sản phụ sẽ sanh con được bình an vô sự.
Họ trở về nhà làm y lời Ngài; chẳng bao lâu hài nhi được hạ sanh, mẹ tròn con vuông.
Tại Thôn Bình Phòng có Trương phu nhân bị tê liệt toàn thân đã ba năm, chạy chữa biết bao bác sĩ, cùng các thuật sĩ mà bịnh vẫn không bớt. Khi nghe tiếng cứu người của Ngài, gia đình mướn xe chở bà đến tận lều của Ngài và xin chữa trị.
-Tôi không biết gì về y dược cả; nhưng những người có đức tin có thể được lành bệnh nhờ sự thành tâm của họ. Bà chỉ cần thành tâm sám hối tội lỗi của mình trong quá khứ cùng cải ác hành thiện. Nếu bà niệm Phật và ngưng không ăn thịt nữa thì nhất định sẽ được cảm ứng và bệnh bà sớm phục hồi.
Sau khi về nhà, mỗi ngày bà lễ bái trước chân dung Ngài, ăn chay niệm Phật. Qua một trăm ngày, bịnh tê liệt biến mất và bà có thể cử động được như thường. Toàn gia đình bà không khỏi kinh ngạc, quỳ lạy tôn Ngài làm Thầy cùng phát nguyện hộ trì Tam Bảo và tinh tấn làm lành.
Cách làng Ngài khoảng bốn mươi dặm có một người tên là Đới Quốc Hiền bị bệnh phổi đến thời kỳ nghiêm trọng, các bác sĩ đều nói rằng bệnh của anh ta vô vọng, nhưng anh ta vẫn muốn sống, nên tìm đến và quỳ xuống khẩn cầu Ngài cứu giúp. Ngài thấy ông rất thành tâm, nên bảo ông ta nhất tâm xưng niệm “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” cùng phát nguyện ăn chay trường, chấm dứt nghiệp sát sanh. Anh ta hoan hỷ tín thọ. Rồi Ngài vừa rưới nước nhè nhẹ lên đầu anh ta mà gia trì niệm Phật tụng chú. Ngay lúc đó anh cảm giác toàn thân mát rượi, tinh thần sảng khoái. Sau đó anh ta quy y Tam Bảo, kiên thành trì chú Đại Bi cùng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không ngưng nghỉ. Chẳng bao lâu sau ông được lành bệnh.
Càng ngày Ngài càng có đông đệ tử. Toàn gia đình hơn ba mươi người của Vương Phụng Nghi ở Làng Đông Tĩnh Tử đều quy y Ngài. Họ đều ăn chay và đắc lực ủng hộ hoằng dương Phật pháp, em của Vương Phụng Nghi là Vương Phụng Cửu, có một đứa con trai đột nhiên bị bệnh nặng.
Cha đứa bé đã khẩn cầu Ngài cứu đứa con, mỗi ngày ông đều ở trước bàn thờ Phật cầu nguyện, trải qua một tuần lễ, đêm nọ, ông mơ thấy Ngài đến nhà và cho con ông uống một viên thuốc, khi thức dậy ông Vương phát hiện con ông đã được lành bệnh; Kể từ đó ông càng thâm kính Phật pháp và khuyên khắp thân bằng quyến thuộc bạn bè Quy y Tam Bảo.
Cao Đức Phú tại Thành phố Hợp Nhĩ Tân, Đại Nam Câu, thiên tánh hiếu thảo. Khi mẹ ông bị bịnh hiểm nghèo, ông phát nguyện đến Chùa Tam Duyên chặt tay cúng Phật, cầu mong chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho mẹ mình sớm được bình phục. Đến Chùa lễ Phật xong, ông lấy dao ra định chặt cánh tay, nhưng người bên cạnh phát giác nên ngăn cản. Khi hỏi ra nguyên nhân, mới biết ông là người con chí hiếu, xả thân vì mẹ. Thấy vậy Cư sĩ Lý Cảnh Hoa dẫn ông đến cầu kiến Lão Hòa Thượng Thường Nhân, lão Hòa Thượng cho người dẫn ông đến gặp Ngài. Ngài rất cảm động về lòng hiếu thảo của ông, nên liền nhận lời đến nhà cứu bà mẹ ông; Ngài bảo Cao Đức Phúc hãy chạy xe đạp về nhà trước còn Ngài sẽ đi bộ theo sau. Nhưng khi Cao Đức Phúc vừa về đến nhà thì thấy Ngài đã có mặt trong nhà từ hồi nào rồi. Lúc vào nhà, Ngài phát hiện bà mẹ ông đã bất tỉnh mê man trong bảy tám ngày rồi tình huống thật nguy cấp, bệnh nhân lúc ấy môi và đầu lưỡi đã bị thâm đen, hơi thở dường như đứt đoạn, Ngài bắt đầu viết sao văn, rồi khép mắt trì chú cho đến nửa đêm, tới 3 giờ sáng mới nghỉ. Sáng sớm hôm sau, bịnh nhân chợt ngồi dậy trên giường kêu tên con bà. Cao Đức Phúc kinh hãi, vui mừng khôn xiết. Mẹ ông bảo:
– Mẹ bị lạc đường đã mấy ngày liền, không biết đã đi tới đâu nữa? May thay chiều hôm qua, mẹ gặp một vị Tăng đưa mẹ về nhà; Bây giờ mẹ cảm thấy đói lắm con mau nấu cháo cho mẹ ăn.
Cao Đức Phúc nghe thế cả mừng chỉ Ngài và hỏi mẹ rằng:
– Vị Tăng mà mẹ vừa nói đó, có phải là vị này không?
Mẹ ông nhìn Ngài một hồi rồi nói:
– Đúng rồi! Chính ông Sư này đã dẫn mẹ về nhà đó mà.
Qua việc nầy, toàn gia đình của Cao Đức Phúc lập tức Quy y Tam Bảo.
Mùa thu, năm Dân Quốc thứ ba mươi bốn, sau khi quân Nhật đầu hàng không lâu vùng Đông Bắc rất hổn loạn dân miền quê lại bị bệnh truyền nhiễm khiến rất nhiều người bị chết: trẻ có, già có…Tại Đồn Du Phường phía Nam Thành phố Hợp Nhĩ Tân, có gia đình họ Mai chỉ trong ba ngày mà tất cả mười một người trong nhà đều bị lây bệnh chết; Lúc bấy giờ chỉ còn có một người làm công và một người rể đang trong tình trạng nguy kịch.
Nghe qua chuyện thảm thương như thế, Ngài liền đi vòng đến các thị trấn, làng xã kề cận, vừa rảy nước sái tịnh, vừa trì tụng chú Đại Bi. Có điều là Ngài rẩy nước đến nơi nào thì nơi đó không còn nghe đến việc người chết vì bệnh truyền nhiễm nữa.
Lần nọ có một em bé đang chơi ngoài sân, vô ý bị con rít bò vào lỗ tai rồi bò lên não bộ của em, em bị nhức đầu dữ dội, sắc mặt tái mét, hơi thở hổn hển la khóc không ngừng. Rít này thuộc loại rít độc, thông thường nếu đụng phải rít này thì hết cách cứu chữa. Người nhà mang em đến Ngài cầu cứu, Ngài thành tâm trì chú. Qua vài giờ sau thần sắc em bé hồi phục như thường. Do đây mới biết công dụng của thần chú thật không thể nghĩ bàn; nhưng người niệm chú, nhất định phải chuyên tâm chánh ý, lại phải trì giới thanh tịnh, chân chánh tu hành thì tự nhiên sẽ được Bồ Tát hộ trì, Thiên Long ủng hộ. Nếu không thì dầu cho có mỏi hơi niệm chú, vẽ bùa mà không nghiêm trì giới luật tất sẽ đọa lạc vào đường ma, biến thành ma vương vậy.
Tại Tỉnh thượng Hiệu Nam, Đồn Đông Bình Tử, Phố Hợp Nhĩ Tân, có một vị Đồn trưởng tên là Lý Thắng Tỉ vì một chuyện nhỏ mà sinh ra cải vả với người vợ. Vợ ông nhất thời nóng nảy không sáng suốt mà tự vẫn bằng cách uống cạn hai chén nước lỗ (Nước lỗ là một hóa chất cực độc, đừng nói chi uống một chén, chỉ cần uống một ngụm thôi cũng đủ chết người rồi.) Đến khi người nhà của bà phát giác ra thì bà đã trong hồi nguy kịch, mọi người trong nhà đều rất sốt ruột, lo âu.
Cũng may, lúc bấy giờ có một người biết Ngài đang ở trong đồn này bèn mách cho người nhà của bà ta hay:
– Thầy An Từ vừa đúng lúc có việc nên đến Đồn này, hiện giờ đang ở bên nhà họ Quách, các người hãy mau đi cầu cứu Ngài đi, may ra Ngài có cách cứu chữa.
Con trai của Lý Thắng Tỉ nghe vậy cấp tốc chạy qua nhà họ Quách, vừa mới gặp được Ngài sụp quỳ thỉnh cầu Ngài mau đến cứu mẹ.
– Ta không có cách nào hay, ngươi hãy mau đi tìm thầy thuốc đến trị đi.
Người con lủi thủi quay về báo cho cha hay. Người mách hộ rất am tường Ngài, vì vậy một lần nữa kêu người con đến lạy cầu Ngài ra tay, người này còn dặn thêm:
– Con phải thành tâm khẩn cầu bằng không thì Ngài không màng chuyện rỗi đâu!
Người con lại một lần nữa chạy nhanh đến trước mặt Ngài, quỳ xuống cầu xin, khóc lóc suốt cả bốn mươi lăm phút. Biết người con thật có lòng thành, nên Ngài cùng đi với người con về nhà họ. Lúc đó tay chân của người mẹ đã phát lạnh, người nhà đang chuẩn bị tang sự cho bà.
Vừa thấy Ngài đến, mọi người đều hướng về Ngài cúi đầu đảnh lễ, thỉnh cầu Ngài cứu mạng. Ngài bảo họ đừng quá đau lòng, rồi dùng nước gia trì chú Đại Bi, kế lấy chiếc đũa tre vạch miệng của bệnh nhân mà đổ nước vào. Chẳng bao lâu, bịnh nhân bắc đầu ói mửa, ói một lúc thì dần dần tỉnh lại.
Cả nhà họ Lý đều cảm kích Ngài đến rơi nước mắt, và cũng thâm cảm sức linh ứng không thể nghĩ bàn của Phật Pháp. Về sau họ tặng cho Ngài một bức đối liễn.
Câu trên:
“Từ bi phổ độ, tín giả đắc cứu thành Chánh Giác.”
(Từ bi cứu độ được tất cả, người có tín tâm được giải thoát để chứng được Chánh Giác.)
Câu dưới:”Quá hóa tồn thần, lễ chi hộ phúc ngộ Vô Sanh.”
(Tai họa được tránh khỏi, phục lại tinh thần được để giác ngộ Vô Sanh.)
Kèm theo một tấm biểu viết rằng: “Tự Tại Như Lai.”
Từ khi Ngài kết am thủ hiếu bên mộ phần mẹ, có khoảng hơn hai ngàn người đến quy y, không kể xa gần. Lúc ấy một vị tú tài triều Thanh tên là Cốc Giới Tam; học rộng, đa văn, Hán học uyên thâm. Bấy giờ là lúc giao thời mới, cũ. Cốc Giới Tam thuộc loại tú tài “không cần ra cửa mà vẫn biết chuyện thiên hạ” vì ông là hạng hiếm quý khó tìm như lông phượng sừng lân. Vì vậy mọi người đều rất tôn kính ông.
Công việc thường ngày của ông là dạy học. Đối với Phật Pháp ông nghiên cứu rất thâm sâu, chỉ tiếc là không lãnh hội được. Nghe hạnh tu trì của Ngài, ông đến cầu Ngài chỉ giáo. Ngài dạy ông những điểm trọng yếu trong sự tu hành cùng pháp môn tâm địa không lập văn tự. Vừa nghe nghe xong ông rất đỗi vui mừng cảm phục; và cầu xin Quy y Ngài.
Năm Dân Quốc thứ ba mươi hai Ông ngồi xếp bằng mà tịch, gương mặt vẫn an nhiên, hòa nhã như lúc còn sống.
Có một vị ăn mày tên là Kỷ Đại Phúc, mỗi ngày đến lều thủ hiếu đảnh lễ Ngài. Ngày nọ sau khi lạy xong, không dằn được, ông bật hỏi:
– Xin Ngài giải thích cho con biết tại sao con bị lâm vào tình cảnh bần cùng như vậy?
Ngài giảng giải cho ông nghe đạo lý nhân quả trong ba đời, và thêm rằng:
– Kinh dạy, vì sao có người đời này sinh ra được hưởng phú qúy? Bởi vì đời trước họ đã từng trì trai, cúng dường Tam Bảo, bố thí cho người nghèo. Tại sao có người đời này phải chịu quả nghèo hèn? Cũng bởi đời trước họ chưa từng cứu giúp người nghèo.
Nghe xong ông cảm nhận được đạo lý nhân quả, nên nói:
-Con tự hỏi rằng trong đời mình chưa làm gì sai trái; mà sao bị nghèo khốn đến nỗi phải đến nhà người xin ăn. Nay mới biết vì trước kia đã bỏn sẻn, không biết báo ứng của sự bố thí. Vậy xin Ngài chỉ dạy, có cách nào để cứu vãn cho hoàn cảnh hiện tại của con không?
– Người Quân tử học cách tạo mạng, nay ông phải nỗ lực tạo nghiệp lành, quảng tích ân đức cho nhiều, tự mình thay đổi vận mạng thì phước gì lại không đến! Xưa kia Chu Kỷ là ăn xin, nhưng hiểu rõ đạo lý nhân quả báo ứng, dốc lòng tạo công đức, ra công làm việc thiện. Đời sau ông ta được sanh vào nhà Đế vương hưởng thọ phước báo tôn vinh của một vị Hoàng tử. Đấy có phải là biện pháp tự cải vận mạng không?
Ký Đại Phúc nghe thế cả mừng, nhìn về tương lai tràn trề hy vọng và thỉnh cầu Quy y Tam Bảo làm đệ tử của Ngài. Từ đó trong lúc hành khất, ông luôn niệm thầm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Xin được tiền, gạo ông đều dành dụm chia sẻ lại cho những người khác nghèo khó hơn ông. Ngày thường nếu có cơ hội, ông đều tùy thời làm việc thiện, giúp đỡ người. Sau vài năm tích tụ công đức như vậy vào mùa đông năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ông dự biết ngày vãng sanh. Đến đúng ngày ông niệm Phật an nhiên mà tịch.
Trong làng Ngài có một người đàn bà tên Viên Mộ Hàng nổi danh hung ác, ngang ngược. Thường ngày đánh mắng chồng, vô lễ với cha mẹ chồng, không thuận với chị em dâu. Đối với thân bằng quyến thuộc, bà con láng giềng thì cộc cằn thô lỗ. Bà ta coi thường và hủy báng quỷ thần lại càng không tin nhân quả; Nói chung bà ta đã không làm một việc lành nào, còn bao nhiêu điều xấu thì bà đều có phần. Thế nên mọi người trong làng đều gọi bà là”âLão Cọp Cái”. Nghe danh Ngài, vì hiếu kỳ bà ta muốn đi tìm hiểu nên ngày nọ, bà cùng những người khác đến lều thủ hiếu. Thấy Ngài đang ngồi kiết già chắp tay, mặt quay về hướng tây, và niệm Nam Mô A Di Đà Phật không dứt. Vì không biết Ngài làm thế với mục đích gì, nên bà hỏi:
– Thầy đang làm gì vậy?
– Mẹ tôi đã làm lụng vất vả để nuôi dưỡng tôi, cho nên tôi muốn báo đáp ân đức sanh thành dưỡng dục bằng cách niệm Phật để cầu cho mẹ được siêu thoát, hy vọng mẹ tôi sẽ sớm vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây cũng là đạo căn bản làm người.
Bà vốn không tin Trời Đất, nghe Ngài nói thế lại càng thêm nghi mà hỏi rằng:
– Có phải sau khi chết, con người thật biến thành quỷ không?
– Sao chỉ nói người chết rồi mới thành quỷ? Có người lúc còn sống, tâm chứa toàn tâm quỷ,
nói lời quỷ, làm việc quỷ, vậy có khác gì với ma quỷ đâu? Người thường sân hận tức là quỷ mặt đỏ, người thường oán hờn tức quỷ mặt vàng, người hay buồn não tức quỷ mặt trắng, người dễ nóng giận tức quỷ mặt xanh, người thường phiền muộn tức quỷ mặt đen. Nếu dùng sân, oán, não, nộ, phiền mà đối đãi với người thì là năm loài quỷ trên, sẽ luôn quấy phá gia đình, trong nhà tuyệt đối không an, lại tổn tài hao khí, tai hoạn xảy đến liên miên.
Ngài lại dạy:
– Tâm là thần; thần cũng là tâm. Nếu bà làm chuyện chi cũng khởi từ lương tâm, tức là trọng kính đối với thần, nếu bội ngược lương tâm thì cũng như là khi dối thần. Sau khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu bao thứ khổ. Khi ấy muốn thoát khổ, e rằng không còn kịp nữa. Nhân vì chúng sanh đã quay lưng với sự giác ngộ, hợp với trần lao, mê chân theo vọng, xa rời bổn tánh của mình, tìm cầu vật chất ảo huyền ở thế gian, nên phải tự thọ lãnh quả báo. Nếu biết xoay chuyển lại, bỏ trần hiệp giác, xã vọng qui chân, thì đồng Phật không khác, mãi mãi thoát ly lục đạo luân hồi, chấm dứt sanh tử.
Bà nghe xong chợt nhớ lại bao tội ác của mình xưa kia, nên run động, khinh hoàng sợ hãi, khóc lên rằng:
– Lúc trước con không hiểu đạo lý làm người, lại không tin báo ứng nhân qủa nên đã gây biết bao nhiêu tội. Nay nhờ Thầy từ bi chỉ dạy, mới biết tội mình quá ư thâm trọng, con nay thật ăn năn hối hận, nhưng e không còn kịp để hối lỗi. Vậy con phải làm sao đây?
– Bà đã nhận rõ những việc sai quấy lúc trước là dấu hiệu cho thấy rằng thiện căn phát khởi, mầm thiện căn này sẽ đâm chòi nẩy nở. Bà nên thường sám hối tội lỗi chớ quá bi thương; vả lại là người chớ nào phải Thánh Hiền, ai mà không có tội lỗi? Tội ác của Bà dầu thâm trọng nhưng nếu bà thành tâm sám hối, thì những tội nặng sẽ được tiêu trừ, điều cần thiết là phải chí thành sám hối, Bà hãy quán xét hành động trong quá khứ y như bà đã chết hôm qua và sanh trở lại ngày hôm nay. Sau khi thành tâm sám hối, bà phải nên phát nguyện làm trọn bổn phận của người cư sĩ, gắng sức hoằng dương Phật Pháp, khuyên người làm lành, Quy y Tam Bảo. Khi công đức của bà được viên mãn, thì những tội lỗi xưa tất sẽ tiêu tan. Tại sao? Vì khi người đại ác biết xoay đầu cải thiện thì thành người đại thiện; còn ngược lại người đại thiện tạo tội, lần lần cũng sẽ thành người đại ác.
Nghe thế tâm bà vui mừng khôn xiết, đứng dậy hướng Ngài lạy ba lạy, cầu thỉnh Quy y, chánh thức thành đệ tử của Ngài. Sau khi Quy y Tam Bảo, không những sửa đổi tâm tánh mà còn tự thân đi khắp nơi chỉ dạy người đời làm lành bỏ ác; hơn tám trăm người được bà cảm hóa đến quy y Ngài.
Khi ấy thân bằng quyến thuộc trong làng thấy bà thay đổi tâm tánh hoàn toàn nên rất kinh ngạc, xem bà như một con người mới, do đó biệt hiệu Lão Cọp Cái tự nhiên không còn nhắc mà đổi lại gọi bà là “Quán Âm tiếp dẫn.”
Bà ăn chay niệm Phật, khuyến hóa người đời trong mười năm, ngày nào cũng như nào. Vào hạ tuần tháng tám năm Dân Quốc thứ ba mươi ba, bà biết trước được ngày vãng sanh nên bảo người nhà:
– Tôi xưa vốn tạo bao ác nghiệp, nhưng sau khi Quy y Tam Bảo, sửa đổi tâm tánh hướng thiện, cùng khuyến hóa người do công đức đó tôi nay biết được rằng 19 tháng 9 là ngày tôi sẽ vãng sanh Tịnh Độ. Xin các vị chớ nên buồn bã khóc lóc mà nhớ niệm Phật giúp tôi!
Quả nhiên đến ngày ấy bà tắm gội sạch sẽ, mặc chỉnh tề chấp tay mĩm cười niệm Phật mà vãng sanh, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi.
Vùng cạnh Thôn Ngài, có một học sinh họ Đường mười bốn tuổi, thân thể yếu ớt, thường hay bệnh hoạn, lại rất ngu độn, học chi rồi cũng quên hết. Tuy cha mẹ, Thầy cô giáo bao lần đốc thúc nghiêm khắc dạy dỗ nhưng chẳng được kết quả gì. Chính bản thân em cũng phiền não về sự ngu si của mình.
Khi ấy, em thường nghe người trong Thôn kể về sự tích của Ngài, nên có ý định đến xem vị cao Tăng này có thể giúp được em không? Ngày nọ, em hẹn với mười lăm bạn đồng học đến lạy Ngài, cầu xin Quy y và khẩn cầu Ngài từ bi chỉ dạy làm thế nào khai mở trí tuệ, thuộc bài dễ dàng, và nhớ dai hơn?
Ngài bảo chúng:
– Muốn học giỏi, phải theo phương pháp Ba trong, ba trên. Ba trong là khi học bài phải đặt vào ba chỗ:
Tức là dùng mắt xem bài, dùng miệng đọc bài, và dùng tâm để tư duy bài học.
Ba trên nghĩa là phải học luôn luôn:
Lúc đi trên đường thường nên suy gẩm, nhớ lại bài học mà thầy cô vừa dạy, về nhà, lúc lên giường, trước khi nhắm mắt ngủ, phải đọc qua một lần những bài vừa học ở Trường, và lúc ngồi trên cầu vệ sinh đừng để uổng phí thời giờ nghĩ viễn vong mà nên chuyên tâm, nhớ lại những gì mình học vừa qua.
– Khi học bài phải để hết cả tâm trí vào bài vở và chỉ thấy có quyển sách thôi, nếu có ai thổi kèn bên tai các con, các con cũng không nghe. Nếu có những màu sắc sáng chói, lộng lẫy chiếu trước mắt, các con cũng không thấy. Các con nếu cứ thế mà chuyên tâm nhất ý, thì không việc gì mà không đạt được, huống chi nói về việc học thuộc bài?
Bọn học trò nghe qua hiểu rõ, và ghi khắc lời dạy vào lòng. Sau khi trở về, chúng y theo lời dạy của Ngài, quả nhiên trí tuệ khai sáng. Từ học sinh bình thường, chúng trở thành xuất sắc, thông minh. Cha mẹ và Thầy Cô giáo của các em đều không khỏi kinh ngạc. Chuyện truyền ra xa, học sinh từ khắp nơi không ngừng tìm đến Ngài xin Quy y và cầu Ngài dạy dỗ.
Tại Tỉnh Kiết Lâm Huyện Ngũ Thường, có một em bé tên Trịnh Đức, lúc năm sáu tuổi đã bắt đầu lễ lạy cha mẹ, rất mực hiếu thuận. Danh hiếu thảo của em vang khắp nơi, có nhiều Đạo sĩ, Thuật sĩ muốn nhận em làm đệ tử. Tuy còn nhỏ, nhưng em thẳng thắn vô cùng, em nói với họ rằng:
– Nếu các vị chuyên bày chuyện dị đoan, gạt gẩm, hù hiếp để hại người đời, tất không phải là người tốt.
Năm em mười một tuổi, Ngài nghe đến hạnh hiếu thảo của em bé nên đích thân tìm đến, xem em bé hiểu hạnh hiếu thuận với cha mẹ như thế nào?
Từ song cửa nhìn ra thấy Ngài đang bước vào sân nhà em liền thưa với mẹ:
– Thưa mẹ Thầy của con đang đến kìa.
– Ai là Thầy của con?
Trịnh Đức chưa đáp lời mẹ đã vội vàng chạy ra ngoài sân nghinh tiếp, cúi đầu đảnh lễ Ngài. Sau khi vào nhà ngồi xuống xong Ngài hỏi:
– Ai dạy con lễ lạy cha mẹ vậy?
– Con nghe danh mười bốn người con chí hiếu ở Huyện Song Thành nên con mới noi theo gương họ.
Cha của Trịnh Đức ra chiều hãnh diện, vui vẻ nói:
– Đây thật nhờ phước đức tổ tiên nên chúng con mới có đứa con hiếu thảo này, mong cầu Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ.
Đàm đạo một hồi, Ngài từ trên bộ ván bước xuống thì không thấy đôi giày đâu cả chỉ thấy em quỳ dưới đất khẩn cầu:
– Thầy đã đến đây, con kính thỉnh Thầy ở lại dùng cơm trưa với gia đình con. Ngài chấp thuận lời thỉnh cầu của em.
Dùng cơm xong, Ngài dạy em Trịnh Đức:
– Con đã Quy y gọi ta bằng Thầy vậy con nghe lời Thầy hay Thầy nghe lời con?
Em thật rất thông minh lập tức nhận ra lỗi của mình.
– Bạch Thầy, đương nhiên đệ tử phải nghe lời Thầy, con nay xin sám hối.
– Tu đạo tâm phải thẳng thắn, như con vừa giấu đôi giày của Thầy, đó là thủ đoạn trước tiên khống chế người để bắt người theo ý mình, đây không phải là cách tôn trọng đạo.
Nghe thế em xấu hổ muốn khóc Ngài bèn đọc bài kệ dạy em:
Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn
Khẩu niệm Di Đà đả thành phiến
Tạp niệm bất khởi đắc Tam muội
Vãng sanh Tịnh Độ định hữu phần.
Chung nhật yếm phàn Ta Bà khổ
Tài tương hồng trần tâm niệm đạm
Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng
Phóng hạ nhiễm niệm, qui tịnh niệm.
Tạm dịch:
Niệm Phật phải niệm không gián đoạn,
Miệng niệm Di Đà mãi thành phiến,
Chẳng khởi tạp niệm đắc Tam muội,
Vãng sanh Tịnh Độ sẽ có phần,
Cõi Ta Bà phiền khổ cả ngày,
Nhàm bụi trần lao, tâm coi nhẹ
Chủ ý cầu sanh về Tịnh Độ
Xả bỏ niệm nhơ, qui niệm tịnh.
Đối với các đệ tử trẻ tuổi, Ngài thường dạy họ phương pháp tọa thiền, riêng Trịnh Đức Ngài dạy em chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Y chiếu các câu kệ trên mà tu, nếu không phải người có trí thì sẽ không nhận thức được chân lý thâm sâu bên trong: “Tiền nhân hậu quả” tức trước là nhân, sau là quả vậy.
Ba năm hành trì hiếu đạo bên ngôi mộ Mẫu Thân đã gần mãn. Vào một buổi hoàng hôn, người trong làng bỗng nhiên thấy một luồng ánh sáng phát ra từ túp lều của Ngài. Luồng hào quang cao đến ba mươi bộ sáng rực cả một vùng như ban ngày. Họ la lên:
– Lều của Bạch Hiếu Tử đã phát hỏa chắc sẽ có chuyện không may xảy ra cho Pháp sư Độ Luân.
Họ bèn cấp báo cho nhau rồi tức tốc chạy ra nghĩa trang mang theo những bình nước để cứu
hỏa, nhưng khi họ tới nơi, túp lều của Ngài vẫn bình an vô sự và Ngài thì vẫn an nhiên đang ngồi niệm Phật cạnh một ngọn đèn dầu nhỏ; ai nấy cũng cho là chuyện huyền diệu thật khó nghĩ bàn.
Mặc dù Ngài thủ hiếu trong một túp lều tranh nhỏ bên phần mộ Mẹ giữa vùng đất hoang vắng, vậy mà người đến cầu kiến Ngài không ngừng. Họ đều thỉnh cầu Quy y Tam Bảo vì hoặc được Ngài chữa lành bệnh, hoặc vì cảm mến oai nghi đức độ và hạnh thủ hiếu của Ngài. Lều tranh nhỏ dần biến thành ngôi miếu tự được dân làng tôn sùng nhất.
Sau khi mãn ba năm, Ngài đến ẩn cư tại Động Di Đà, phần núi Đông Bộ thuộc nhánh Trường Bạch, nơi đây cây cối rậm rạp nhiều chim muôn và dã thú không dấu chân người; thích hợp cho những vị hành tu khổ hạnh. Ngài miên mật tọa thiền và tu hạnh đầu đà, chỉ ăn rau dại uống nước suối, tự tại trong cảnh giới thoát trần này.
Thỉnh thoảng Ngài xuống núi mua nhang dầu và các vật dụng cần thiết. Lần nọ, trên đường đến phố Ngài đi ngang qua Trấn Lạp Lâm, Thôn Bối Âm Hà, dừng nghỉ tại nhà Quan Trạm Hải và người chú là Quan Trung Hỉ. Quan Trung Hỷ là một tà sư thường truyền mật pháp gọi là “Đạo Nhiếp Duyên.” Ông ta có trên bốn ngàn đệ tử. Ông nói với các đệ tử rằng ông có hằng trăm báu vật bán với giá một ngàn đồng mỗi cái, vì những báu vật này chỉ có danh mà không có thực nên Quan Trung Hỷ nói rằng:
– Thời cơ chưa tới cho nên bây giờ ta không giao cho các ngươi những báu vật này được. Đợi thời cơ thuận tiện lúc thế giới này thay đổi thì các ngươi sẽ thọ nhận những báu vật ấy.
Khi đúng năm mươi tuổi, ông Quan Trung Hỷ giác ngộ rằng sự giàu sang phú quý không thể nào bảo đảm cho mạng sống của ông; vì biết rằng mình sắp sửa qua đời và lo không kịp tu Đạo nên cùng người cháu lên đường tìm Minh nhãn Thiện tri thức, người có “mắt sáng” để hướng dẫn họ về thiền quán. Trong suốt ba năm, hai chú cháu đi lang thang khắp nơi tầm Sư học Đạo, họ đã viếng thăm nhiều danh Sư tại các Tu viện nổi tiếng, những Học giả tại các Trường lớn, những nhà tu khổ hạnh trong các sơn động, nhưng chẳng gặp được ai có thể dạy họ tu pháp thiền quán nên thất vọng đành bỏ cuộc và trở về nhà.
Vừa thấy Ngài, Quan Trạm Hải vội kéo người chú sang một bên hỏi:
– Chú ơi! Vị Sư này là ai vậy? Bộ chú có quen hay sao?
– Chú nghe tiếng vị Sư này từ lâu, Ngài chính là Pháp sư An Từ, thủ hiếu nơi mộ phần đó mà!
– Thật kỳ lạ! Đêm qua cháu mơ thấy Pháp sư đến đây và ngồi trên chiếc giường bằng gạch này. Cháu quỳ xuống thỉnh Ngài dạy cho chú cháu mình cách tu đạo. Ngài dạy cháu rằng: Lớp da trên thân cháu cần phải lột vứt đi thì mới có thể tu đạo được. Nói xong, Ngài bèn dùng tay kéo từ trên đầu cháu ra một miếng da và quăng xuống đất. Cháu mới phát hiện ra đó chính là miếng da heo. Ngài còn nói: Ngươi không ăn chay, và đã ăn thịt heo. Trong tương lai, ngươi sẽ chuyển kiếp thành một con heo. Cháu sợ điếng người và thưa rằng: Không, không! Con heo dơ dáy và ngu si lắm! Rồi cháu hoảng hốt giật mình thức dậy. Cháu vừa mơ đêm qua thì hôm nay Pháp sư này đã đến đây vậy không biết là điềm lành hay điềm dữ?
Người Chú kinh ngạc hỏi:
– Thật sao? Thật là cháu đã mơ như vậy phải không? Tất nhiên đó là một điềm tốt rồi. Pháp sư Độ Luân luôn cho việc hoằng dương Phật pháp lợi ích chúng sanh là trọng trách của mình và đối với chúng sanh Ngài tùy thời quán xét căn tánh ban giáo pháp. Chú đã từng đi lễ bái Ngài nhưng chưa bao giờ được gặp mặt. Nào ngờ hôm nay Ngài thân hành đến chắc vì chú hằng ngày kiên thành lễ Phật nên được cảm ứng.
Hai chú cháu quỳ trước mặt Ngài, cầu thỉnh Ngài ban cho yếu chỉ tu đạo, Ngài bèn giới thiệu nhiều thiện tri thức cho họ nhưng họ vẫn nài nỉ được làm đệ tử Ngài; vì còn đang là một chú Tiểu trẻ nên Ngài chưa muốn thu nhận đồ đệ. Sau cùng Ngài bảo họ:
– Thôi trước hết hãy tập ngồi kiết già rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Sau đó họ tập ngồi thiền mỗi ngày, người cháu ngồi kiết già rất dễ dàng nhưng người chú gặp khó khăn vì xương xóc đã già nên cứng đơ. Ở miền Đông Bắc Trung Hoa, người miền núi có xương bánh chè rất lớn. Khi họ ngồi xếp bằng, đầu gối và xương bánh chè cách mặt đất đến ba mươi phân. Dù vậy nhưng ông chú vẫn nhất quyết kiên trì cố đè đầu gối xuống cho bằng được, và trong vòng bảy mươi ngày ông ta có thể ngồi kiết già được.
Khi Ngài trở lại thấy chân ông sưng vù, đau đến nỗi không thể bước qua được một cái rãnh nhỏ. Ngài bảo ông ta:
– Ông không nên tập ngồi kiết già. Ông còn tập không?
– Dạ thưa còn.
– Thôi đừng nên tiếp tục nữa.
– Ngài bảo sao? Tôi đã gần đất xa trời và nếu bây giờ tôi không tập thì còn chờ đến bao giờ? Vì vậy bất luận đau đớn thế nào đi nữa tôi cũng ráng ngồi kiết già cho bằng được. Nếu tôi chết, thì đó là một việc khác. Nhưng giờ đây tôi còn sống thì tôi cứ tập.
– Vậy thì tùy ý ông.
Một trăm ngày trôi qua, Ngài trở lại và thấy hai chân của ông chú không còn sưng nữa. Ngài hỏi:
– Chắc ông đã hết ngồi thiền rồi phải không?
Quan Trung Hỷ cười đáp:
– Bây giờ tôi có thể ngồi kiết già được rồi, và bất luận ngồi lâu bao nhiêu, tôi cũng không thấy đau nữa, còn chân của tôi thì cũng không còn sưng nữa.
– Giờ tôi sẽ dạy cho các vị phương pháp tu hành. Tại sao chúng sanh tu mà không đắc đạo? Chính vì vọng tâm quá nhiều. Nếu có vọng tâm thì chân tánh luôn bị nhiễu loạn, ắt sẽ khiến người ta dễ chấp vào sắc dục. Khi tâm đã vướng vào vòng ái dục, sự tham cầu vật chất nối liền phát sanh và tâm chứa đầy phiền não. Khi vọng tưởng khởi, phiền não sanh, khiến thân tâm ưu khổ không được tự tại.
Chúng sanh lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi không thoát ra được, nên Chân Đạo ngày một xa vợi. Biển khổ không bờ, nếu mình biết hồi đầu thời sẽ đến bờ giác cứu cánh Niết Bàn, hồi phục bổn lai diện mục của mình. Chủ yếu cần phải tỉnh giác trong mỗi niệm, như gà ấp trứng, mèo rình chuột, rồng giữ hạt châu thì tự nhiên chẳng bao lâu sẽ nhận được tin lành.
Dạy xong Ngài truyền Quy y và chỉ rõ cho hai chú cháu pháp tu TÂM.
Hai chú cháu được như ý nguyện vui mừng khôn tả, họ y theo lời dạy của Ngài tu trì không một chút lơ là hay biếng nhác. Vài năm sau Quan Trung Hỷ gọi tất cả người nhà lại và nói rằng:
– Ngày đó giờ đó tôi sẽ ra đi và điều mong ước cuối cùng của tôi là được gặp mặt Thầy tôi một lần cuối. Nhưng tôi không biết hiện nay Ngài ở đâu?
Rồi đến ngày đã định, ông ngồi kiết già ngay ngắn niệm Phật vãng sanh chẳng mảy may đau ốm chi. Đêm hôm đó nhiều người trong làng cùng có một giấc mơ giống nhau; họ mơ thấy có hai vị Đồng Tử mặc áo xanh, dẫn Quan Trung Hỷ bay về hướng Tây.
Sau đó trên đường đi theo Ngài đến khoảng đất trống người cháu bỗng sụp quỳ xuống nắm lấy tay áo Ngài và xin làm đệ tử. Ngài gỡ tay anh ta ra và định bỏ đi. Người thiếu niên quyết xin cho được, nói rằng: “Còn sẽ không đứng dậy cho đến khi được Thầy nhận làm đệ tử.”
Mặc dầu gia đình không giàu có nhưng mỗi Tết Quan Trạm Hải đều thành tâm dâng lên Sư phụ một chút lễ vật. Anh thật lòng hiếu kính không bao giờ quên ơn huệ Ngài đã giải thoát cái lốt heo của anh ta trong giấc mơ xưa kia.
Quả Năng họ Lô là đệ tử xuất gia đầu tiên theo Ngài, xưa kia ông là một người thợ may. Mặc dầu ông làm được rất nhiều tiền nhưng cô bạn gái của ông ta lại nghiện thuốc phiện cho nên ông làm được bao nhiêu cũng không đủ. Ngày nọ, ông chợt tỉnh ngộ biết mình làm chuyện sai lầm nên quyết định bỏ bạn gái và xuất gia tu đạo. Trong mình ông lúc bấy giờ không có bao nhiêu tiền nên khi đến vài ngôi chùa cầu xin lưu trú đều bị từ chối. Một hôm ông trở về quán trọ tạm trú, nơi đây đang khai trương một tiệm cơm chay. Bà chủ nói với ông:
– Thầy của tôi hiện đang ở đây, ông có muốn bái kiến Ngài không?
Khi tham bái Ngài, ông cảm thấy bối rối, hổ thẹn.
Ngài cố ý hỏi:
– Tại sao con lại buồn rầu như vậy?
– Con không có tiền…. Pháp Sư đến đây có việc gì?
– Thầy đến đây vì con đó.
– Bạch Thầy, sao Thầy lại vì con mà đến?
– Thầy vì muốn độ cho con xuất gia.
Quả Năng giật mình kinh ngạc, vì ông ta chưa từng đề cập việc mình muốn xuất gia cho ai nghe cả.
– Thôi, đi mau lên, nếu không thì bạn gái sẽ đến kéo con về đó.
– Nhưng con không có đến một chiếc y!
Ngài liền cởi ngay y bên ngoài ra cho Quả Năng rồi hai ThầyTrò cùng đạp tuyết đi về Chùa Tam Duyên.
Quả Năng phụ trách những công việc nặng ở chùa mà không ai chịu làm như gánh nước, nấu ăn, giặt giũ… Một ngày kiaThầy tự xây cho mình một cái kháng (giường) bằng gạch khá tốt. Khi Ngài thấy được liền hỏi:
– Ai cho phép con cái giường này?
Không dám ngẩn lên, Quả Năng thưa:
– Dạ không ai cho phép cả, con tự làm lấy.
– Bộ con là Giám viện ở đây sao mà muốn làm gì thì làm. Mau thu xếp lại rồi lên chánh điện quỳ ba cây nhang sám hối.
Lát sau Ngài không thấy Quả Năng quỳ trên chánh điện mà đang vá quần áo. Ngài hỏi:
– Tại sao con không lên chánh điện quỳ?
– Sư phụ bảo con quỳ thật sao?
– Ta thật xấu hổ, con không quỳ là lỗi của ta, nếu ta có đức độ thì đệ tử chắc phải nghe lời, đây là lỗi của ta vậy ta phải quỳ vậy.
Nói xong Ngài liền quỳ trước chánh điện.
Quả Năng hoảng hốt thưa:
– Không, không xin Sư phụ đừng quỳ! Đó là lỗi của con, xin để cho con quỳ, kính thỉnh Sư phụ đứng dậy.
Chẳng màng đến lời van xin của Quả Năng Ngài vẫn tiếp tục qùy; thế rồi cả hai Thầy Trò cùng quỳ.
Kể từ đó các đệ tử của Ngài nhất nhất vâng lời dạy bảo của Ngài, vì từ xưa đến nay Ngài chưa từng nói đùa bao giờ.
Lúc đang trú tại Chùa Tam Duyên một sáng nọ Ngài bảo Quả Năng:
– Hôm nay sẽ có một đứa bé đến xin xuất gia, khi nó đến con hãy báo cho Thầy biết.
Đến trưa, Quả Năng hăm hở chạy vào phòng thở hổn hển thưa:
– Bạch Sư phụ, đứa bé mà Sư phụ nói hồi sáng đó, nó đến rồi.
Ngài bước ra ngoài thấy một đứa bé trai trạc mười một, mười hai tuổi khuôn mặt bướng bỉnh, áo quần lem luốc nhưng dáng người đoan chánh, tướng mạo giống như một vị Tỳ kheo.
Bé vừa thấy Ngài dường như đã gặp được người thân thuộc, vui mừng không thể cầm được nước mắt.Ngài cố ý hỏi thử:
– Con đến đây làm gì?
Với lòng tin vững chắc em trả lời:
– Con muốn xuất gia.
– Cái gì? Có phải con vì không có cơm ăn, áo mặc, nhà ở mà đến đây nương náu cửa chùa phải không?
– Dạ không phải! Bởi vì con có một chứng bệnh kỳ lạ lắm, làm con nằm ngồi gì cũng không yên, con thật rầu vì tự biết mình đã bị ma chướng.
– Làm sao con biết được?
– Lúc lên năm tuổi, con có thể chữa bịnh cho người khác được, nếu con bảo họ mau hết bịnh, thì họ sẽ mau hết bịnh ngay. Cách đây khoảng hơn một tháng trong ba ngày liên tiếp con đều mơ giống nhau, thấy một Ông Sư như vị này (bé chỉ tượng Ngài Phật Di Lặc). Ông Sư mập này bảo con rằng: Hãy đến chùa Tam Duyên cầu xuất gia với Pháp sư An Từ thì bịnh con sẽ hết. Con đã đi bộ hơn một ngàn ba trăm dặm trong ba tháng trường nay mới đến được đây. Trên đường đi đêm xuống con ngủ trên các cánh đồng hoang. Đêm nọ, có một bầy chó sói đến vây quanh con, con quát chúng rằng: Chúng bây muốn ăn “đạn” không? thì tự nhiên chúng nó bỏ đi ngay. Con thật sự chỉ muốn xuất gia nên tìm đến đây!
Khi ấy quân Nhật mới vừa đầu hàng, vùng Đông Bắc chưa có xe cộ lưu thông. Trên đường đi Quả Tá lượm được quả lựu đạn, nên đuổi được bầy sói. Đây là do chư Phật, Bồ Tát gia hộ cho em.
– Xuất gia không dễ đâu, làm việc mà người ta không thể làm, thọ những gì mà người khác không thể thọ. Tiện tay Ngài với lấy cái bánh bao đang cúng trên bàn Phật, nhai rồi nhả xuống đất mà nói: Nếu con có thể lượm bánh lên ăn thì mình sẽ tính sau.
Không chút nhờm gớm bé bốc bánh đó lên ăn liền tức khắc. Qua sự thử thách này, Ngài chánh thức nhận em làm tiểu Sa Di, pháp danh là Quả Tá. Sau khi xuất gia Qủa Tá không còn bệnh ma chướng nữa, chú nỗ lực dụng công tu hành, chưa đầy nửa năm đắc được thiên nhãn thông cùng tha tâm thông. Chú có thể biết được đời quá khứ và đọc được tư tưởng của người nên mọi người đều gọi chú là Tiểu Thần Thông.
Ngày nọ, có người hỏi chú:
– Chú có thần thông, vậy thầy chú có thần thông không?
Nghe hỏi thế chú kiêu ngạo trả lời:
– Tôi cũng không biết Thầy tôi có thần thông hay không nữa?
Ngay lúc ấy thần thông của chú bị biến mất hết. Bệnh ma chướng lúc xưa nay bỗng trở lại vì lời nói hồ đồ của chú. Ngài vì chú mà tận lực cầu xin chư Phật, Bồ Tát gia hộ nên bệnh ma chướng của chú từ từ tiêu mất. Ngài liền tưởng khởi bốn câu kệ:
Tu đạo như leo sào trăm trượng,
Khi xuống thì dễ, trèo lên khó,
Nếu năng vượt qua đầu ngọn sào,
Mười phương thế giới đều hiện tiền.
Vậy chúng ta sao không luôn cảnh giác?
Có câu “Đạo cao một tấc, Ma cao một trượng” vì chữa bịnh cho Quả Tá, Ngài phải chống chọi với các loài Hải quái trong nhiều tuần lễ đến khi chúng phải rút lui nhưng đứa bé đã không được thần thông trở lại. Bị bại trận bọn thủy quái hết sức tức tối vì mất một quyến thuộc tương lai nên quyết phải báo thù, làm ngập lụt nhiều nơi rất nguy hiểm đến mạng người. Sau này tàu bè đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, cũng mấy lần bị hải yêu tác quái, mỗi lần đều nhờ sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, mà tàu bè đến nơi được bình yên. Có hôm Ngài cùng với các đệ tử đi ngang qua Làng Đông Tĩnh trú tại nhà cư sĩ họ Quách; ông là một đệ tử đã Quy y Ngài. Làng này có tên như vậy vì tọa tạc trên vùng đất trũng, bốn bên có tường cao giống như miệng giếng. Ngài vừa đến đây thì đột nhiên trời chuyển mưa to, và một trận lụt tốc cuốn qua làng với sóng nước chảy cuồn cuộn như vỡ bờ. Đồng thời, nước giếng trong thôn cũng vụt chảy ra. Hơn tám trăm căn nhà bị lụt, nhiều người bị nguy khốn, leo lên nóc nhà ở.
Gặp nạn Ngài bảo các đệ tử và mọi người trong nhà họ Quách đều nên tụng Chú Đại Bi. Tuy chung quanh nhà chỉ có một hàng rào cây cao khoảng tám tấc, vậy mà có thể ngăn được nước lũ chảy xiết. Hàng rào thật sự đã bảo vệ cho mấy thầy trò vì chỉ có một ít nước rỉ vào, cộng thêm nước mưa, trong nhà chỉ bị ngập chừng một tấc nước. Đại lực thần Chú Đại Bi thật thông thiên triệt địa. Chỉ một lát sau mưa tạnh nước từ từ rút xuống nhưng không may trận lụt này có hơn mấy mươi người chết, nhiều người thấy quái vật giống như trâu nước bơi lội man dại trong sóng nước.
Có thể là Ngài và các đệ tử đã được chư Phật và Bồ Tát cùng Trời Rồng bảo hộ. Nhưng lần đó không phải là lần chót mà quái vật muốn trả thù Ngài. Ngài lại gặp chúng một lần nữa, như chúng ta thấy trên chuyến tàu từ Thiên Tân đến Hồ Bắc. Thế nên trị bịnh giúp người đôi khi gặp nguy hiểm, vì có thể làm cho ma quỷ nổi giận, oán hờn, thật không phải là chuyện đùa.
Ngài cũng từng nói: Lúc trẻ chuyện gì cũng can dự vào, tu hành đến giai đoạn bị ma chướng thử thách này; mới phân lường được thấp cao.
Tại Đồn Đại Nam Câu, Khu Hương Phường, Phố Hợp Nhĩ Tân, có người họ Diêu mọi người đều gọi ông là lão Diêu. Khi chưa quy y Tam Bảo ông là người giang hồ lãng tử, không những hút nha phiến mà còn chích ma túy cờ bạc rượu chè không tật xấu nào mà ông không có.
Khi ấy Nhật Bổn đang thống trị vùng Đông Bắc, thành lập nước Mãn Châu. Triều Thanh bị phế bỏ và vua Tuyên Thống được tôn làm Hoàng đế Mãn Châu, nhưng ông vua này chỉ là bù nhìn, làm tay sai cho Nhật Bổn, mọi việc trong chánh quyền đều bị người Nhật thao túng lạm quyền. Nhật Bổn lại sợ quân Nga xâm lược vào Mãn Châu, nên xây những công sự phòng thủ dọc theo sông Hắc. Khắp nơi họ bắt lao công phục dịch không trả thù lao. Những người bị bắt đi trại lao công rất ưu sầu vì không biết bao giờ mới được trở về đoàn tụ với gia đình nơi quê nhà ấm cúng. Đời sống trong các trại lao công thống khổ không kể xiết, chẳng khác chi địa ngục trần gian. Những người nghe sợ phát run, giống như địa ngục chốn trần gian, khổ không thể nói. Những người nghe biết điều này không ai khỏi rùng mình ớn lạnh.
Ông Diêu vì không nghề nghiệp nên bị quân Nhật coi là một “âdân lang thang” và bị tống đi sống Hắc thuộc vùng biên giới Mãn-Nga làm lao công. Ban ngày làm việc như trâu ngựa, tối
đắp rơm ngủ. Vì không thể chống nổi đêm băng hàn giá buốt, ông thường nghĩ cách thoát thân. Bốn bề doanh trại đều có dây điện cao thế nếu lở chạm phải sẽ bị điện giựt chết. Tuy vậy, ông luôn tìm cơ hội đào tẩu vì không chịu được sự áp bức và ngược đãi vô nhân đạo của những người cầm quyền. Một đêm nọ ông mơ thấy ông nhất định trốn khỏi doanh trại để tìm tự do không kể thân mạng. Vừa định chạy trốn, đột nhiên có một ông Lão tóc bạc phơ tiến đến nói với ông:
– Giờ không phải lúc trốn vì ông chưa thọ hết khổ. Ông hãy nhẫn nhục thêm một thời gian nữa. Khi đúng thời cơ, tôi sẽ báo cho ông biết. Hy vọng ông luôn đề cao cảnh giác chớ bỏ lỡ dịp may.
Nói xong ông Lão liền biến mất. Ông Diêu tin lời ông Lão và trở vào doanh trại.
Khoảng hai tuần sau, ông Diêu lại mơ thấy ông Lão tóc bạc lúc trước nói đến với ông rằng:
– Hôm nay thời cơ trốn trại của ông đến; ngoài cửa có con chó trắng, ông hãy nhớ cho kỹ là phải đi sát theo sau nó đừng bị lạc. Ông sẽ không bị thất bại đâu! Hãy nhớ!
Ông hết sức mừng rỡ và chợt tỉnh. Đi ra ngoài cửa, quả nhiên thấy con chó trắng đang đứng chờ ông. Nghe lời ông lão, ông đi theo sau con chó. Khi đến hàng rào điện, thoáng một cái con chó đã nhảy qua hàng rào, ông thì lấy rơm phủ trên hàng rào rồi cũng nhảy qua bình an vô sự. Ông cảm thấy như được thoát ra miệng cọp. Đến khi quay đầu lại chẳng thấy con chó trắng đâu cả, ông mới biết là đã được quý nhân giúp đở.
Vì sợ quân Nhật đuổi bắt, ban ngày ông trốn trong lùm cây, đói ăn rau dại, khát uống nuớc suối, tối mới dám tiếp tục hành trình. Trải qua nhiều ngày gian khổ như vậy ông mới về đến quê hương. Biến cố này kích động mạnh tâm thức ông ta. Ông giác ngộ rằng đời người thật là khổ nên quyết định xuất gia tu đạo. Nhưng khi đến chùa nào xin xuất gia, ông cũng đều bị từ chối. Khi tới Chùa Tam Duyên, vì thấy ông áo ăn mặc quần rách rưới, dơ bẩn, người trong Chùa tưởng ông là kẻ ăn xin chỉ vì muốn có cơm ăn mà xin xuất gia, nên không nhận ông. Trong lúc Chùa lớn không thâu, Chùa nhỏ không thâu không chứa, ông ta gặp một quái nhân không biết từ đâu đến, hình dạng giống như người ăn mày. Quái nhân tự xưng là một người tu hành chân chánh, biết ba mươi sáu ngôi sao Thiên cương, bảy mươi hai phép pháp thuật, có thể bay trên không, cỡi mây lướt gió, gọi gió kêu mưa, trị được những bịnh nan y, biết pháp cải lão hoàn đồng. Không ai tin lời người lạ, chỉ trừ ông Diêu tin và lạy y làm thầy. Sau đó ông dùng thủ đoạn bất chánh kiếm tiền để phụng dưỡng ông thầy mới. Mãi sau, ông Diêu mới phát hiện ông “Thầy” chỉ là kẻ vô loại chẳng có tài cán chi nên bỏ đi.
Một thời gian sau, lão Diêu biết được Ngài An Từ Độ Luân đang ở tại Đồn Đại Nam Câu (vì việc Cao Đức Phước nguyện chặt tay cúng Phật, cầu cho bệnh mẹ ông sớm bình phục, bài 16 -Y nguyện cứu người -phần thứ 6.) Ông đến trước mặt Ngài quỳ mãi không đứng dậy, cầu xin xuất gia. Lúc ấy Ngài không màng đến ông, hướng vào vách tọa thiền. Khoảng một giờ sau, Ngài xoay đầu lại nhìn thấy ông Diêu vẫn quỳ nơi ấy. Ngài hỏi:
– Ông làm gì vậy?
– Xin Thầy từ bi nhận con làm đệ tử.
– Ông muốn theo tôi xuất gia à? Nhưng tôi thì không có đức hạnh, lại không có công phu gì để dạy ông, tôi chỉ sợ ông sẽ bị thất vọng đó thôi.
– Con chỉ thỉnh cầu Ngài nhận con làm đệ tử là con mãn nguyện lắm rồi, ngoài ra con không cầu xin gì cả.
– Tại gia tu đạo không dễ, xuất gia tu đạo lại khó hơn. Luận ngữ có câu: “Việc lớn chưa rõ, như để tang cha mẹ, việc lớn rõ rồi, lại như để tang cha mẹ.” Xuất gia là việc khổ nhọc, nhẫn những gì người khác không nhẫn nổi, nhường nhịn những gì người khác không nhường nhịn được, ăn những gì người khác không thể ăn, thọ nhận những gì kẻ khác không thể thọ, quên mình vì người, bỏ việc riêng tư mà lo việc công ích. Vậy ông làm được không? Nếu làm được tôi sẽ nhận ông làm đệ tử; nếu không làm được thì đừng theo tôi xuất gia.
Ông Diêu không chút lưỡng lự, liền thưa:
– Bạch Thầy! Tất cả khổ nhọc con đều nhẫn nổi, xuất gia tuy khổ, nhưng con tin rằng không khổ bằng bị bắt đi làm lao công trong doanh trại Nhật. Con tự tin rằng con sẽ chịu đựng được hết.
Ngài liền nói kệ rằng:
Niệm niệm chớ quên sanh tử khổ
Tâm tâm nghĩ tưởng thoát luân hồi
Rời bến mê trở về nguồn cội
Đập vỡ hư không, Phật tánh minh
Nay chính thời mạt pháp
Kẻ xuất gia tuy nhiều
Chân chánh tu hành đếm được bao nhiêu
Theo đường Đạo, vạn người dưới thế
Mấy ai đặng chứng quả độ đời
Nếu ông thành tâm muốn xuất gia
Hãy nên lập chí nguyện sâu xa
Phát tâm Bồ Đề thù thắng
Thấp đuốc sáng trong bão táp
Như lửa hực luyện tinh kim
Ngày sau đạo nghiệp viên thành
Tinh tấn hoằng dương Phật pháp
Đem Phật giáo soi sáng khắp nơi
Mới không cô phụ nguyện xuất gia.
Qua những lời đối đáp, Ngài biết ông có thể thọ nhẫn được khổ cực, nên dẫn về Chùa Tam Duyên, thế phát xuất gia, thọ giới Sa Di, pháp danh Quả Thuấn; Ngài bảo Chú đảm nhận công việc nhà bếp. Chú siêng năng, làm việc cẩn thận, chân chánh dụng công tu hành, mỗi ngày ăn một bữa, ngủ ngồi, trước khi ngủ đều hành thiền và có thể nhập định suốt đêm. Những khi Ngài có điều gì dạy bảo, chỉ cần dùng tâm tưởng là Quả Thuấn đáp ứng ngay. Có lần, Quả Thuấn thấy bên cạnh miếu Long Vương ở Tây Sơn, vùng Đại Nam Câu, có một mãnh đất trống, và được sự đồng ý của Ngài, nên cất am tranh làm đạo tràng tu hành.
Quả Thuấn đến Chùa Tam Duyên thỉnh Ngài đến làm Lễ Khai Quang, cùng An vị Phật trong am, Ngài dẫn Quả Năng, Quả Trực, Quả Tá đến đó làm lễ. Đêm đó có mười vị Long Thần nơi Miếu bên cạnh am đến đảnh lễ Ngài, cầu thỉnh thọ quy y Tam Bảo. Lúc đó vào mùa Hè, trời nắng không mưa, lúa mạ héo vàng, nông dân nương nhờ thời tiết mà sống, nên buồn rầu than van mạng khổ, chỉ biết cầu trời từ bi thương xót ban nước cam lồ! Ngài nói với chúng Rồng:
– Công việc của các vị là làm mưa, tại sao lại để trời khô hạn thế này mà không cho mưa xuống?
– Bạch Ngài! Vì chưa được lệnh của Ngọc Hoàng Đại Đế, nên chúng con không dám phun mưa, nếu không sẽ bị trừng phạt.
– Các vị hãy lên Bảo điện Lăng Tiêu của Ngọc Hoàng Đại Đế, thỉnh Đại Đế từ bi, cho mưa trong phạm vi bốn mươi dặm. Nếu ngày mai phun mưa thì ngày mốt các vị sẽ được Quy y.
Quả nhiên hôm sau trời đổ mưa đúng trong vòng bốn mươi dặm, nhờ vậy lúa mạ như được
nước cam lộ thấm nhuận nên sinh sôi nẩy nở, đến mùa Thu ngủ cốc được thâu hoạch nhiều hơn năm trước. Ngày thứ ba, chư Thần Rồng đến trước chánh điện nơi am tranh, thọ tam Quy y. Để kỷ niệm việc này, Ngài đặt tên cho Am là Long Vũ Mao Phụng tức Am Rồng vâng lệnh phun mưa và treo tấm biển này trước am để kỷ niệm.
Quả Thuấn vào trú trong am chẳng bao lâu, có hai vị cư sĩ đồng thôn của họ Lưu và Dương An Tử đến ở cùng, cả hai đều là Phật tử thuần thành. Dạo ấy mỗi ngày họ đều cùng Quả Thuấn tụng kinh công phu khuya chiều tinh cần trì Chú Đại Bi. Chẳng bao lâu, Lưu cư sĩ xuất gia, còn Dương An Tử thì tòng quân, tham gia đội Bát Lộ Quân.
Trong hai năm đầu gia nhập quân đội, Dương An Tử thường xuyên thư từ về nhà, đến mùa thu năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (1948), đột nhiên dứt bặt tin tức, đợi cả sáu, bảy tháng sau vào một hôm nọ Quả Thuấn đang ở trong am tụng trì Chú Đại Bi, ngay lúc đó bên cạnh có Cha Cao Đức Phúc là Cao Vạn Phong; đột nhiên Dương An Tử trở về, gọi ở ngoài cửa.
Quả Thuấn nghe tiếng kêu vội ra mở cửa, Dương An Tử vừa vào đến cửa, phóng thẳng vào nhà trong, đến ngay lò lửa nằm xuống rồi nói:
– Tôi đi Hàn Quốc đánh giặc bị thương nặng, giờ đây tôi rất ư mỏi mệt, nên về đây nằm. Quả Thuấn vẫn điềm nhiên tiếp tục trì Chú Đại Bi. Nào ngờ trong giây phút ấy, Dương An Tử đột nhiên biến thành con hồ ly, khoảng trong chốt lát hình dáng con Hồ Ly biến mất.
Thật ra nguyên do của chuyện này ra sao?
Dương An Tử sớm đã vong thân trên chiến trường, hoặc giả não bộ của ông đã bị con hồ ly ăn, nhân đó nó hóa thành hình dáng của ông, cốt đến đây phá hoại sự tu hành của Quả Thuấn. Cũng may là ngay trong lúc ấy Quả Thuấn đang trì tụng Chú Đại Bi, cộng thêm công đức tu hành hằng ngày của Quả Thuấn, nên yêu quái dã thú hồ ly khinh sự rồi lẫn trốn.
Sự kiện này phát sanh chẳng bao lâu, Quả Thuấn cảm thấy đương thời Phật-giáo trong cảnh suy vi, Tăng chúng bị áp bức tra tấn, tượng Phật bị hủy hoại, kinh sánh bị đốt cháy nên Quả Thuấn phát nguyện thiêu thân cúng dường Phật.
Dân Quốc năm thứ ba mươi ba, ngày 15 tháng 7 năm 1944, Quả Thuấn đã phát đại nguyện xin thiêu thân cúng dường Phật. Lúc đó Ngài dẫn số đệ tử đến trước Phật đài thấp hương xin phát nguyện rằng, nếu con sống đến trăm tuổi, nguyện xin thiêu thân cúng dường Phật. Quả Thuấn noi gương Ngài cũng trước Phật đài phát nguyện rằng, chỉ cần thời cơ thích hợp nguyện sẽ thiêu thân cúng dường Phật, như Dược Vương Bồ Tát mà không đợi đến trăm tuổi.
Đến năm Dân Quốc thứ ba mươi tám, ngày 18 tháng 4 năm 1949 là ngày Quả Thuấn thiêu thân, Thầy tự trang bị trăm cân củi và ba cân rưỡi dầu đậu, ngồi kiết già trên đồng củi, châm lửa tự thiêu, thân hóa thành tro. Ngày sau, người trong thôn phát hiện Am Rồng Phun Mưa đã cháy bởi trận lửa lớn, luống khói vẫn còn nghi ngút. Khi đến quan sát, mới hay rằng Thầy thiêu thân cúng dường Phật. Tuy thân thể của Thầy đã thành tro, nhưng trái tim vẫn còn nguyên vẹn, không bị lửa cháy, mọi người đều rơi lệ thương tiếc khôn nguôi, họ đem cốt và trái tim của Thầy mai táng tại nơi đó.
Cái chết của Dương An Tử và việc Thầy Quả Thuấn tự thiêu, do cư sĩ Cao Phúc Đức viết thư cho hay, Nhật báo Hoa Kiều tại Hương Cảng cũng có đăng toàn bộ tin tức vào Ngày 22 tháng 9 năm 1949. Lá thư kể về chuyện họ Dương được một ký giả Nhật báo Hoa Kiều họ Mao lưu giữ.
Lúc còn làm việc trong hội Đạo Đức ở Trấn Lạp Lâm, Ngài có một người bạn thân vừa đồng hương vừa đồng đạo tên Hàn Võng Cát, nhậm chức Tổng vụ trưởng Hội Đạo Đức ở Huyện
Song Thành. Ông luôn làm việc thiện, xả thí gia sản không lẫn tiếc, chỉ cần việc gì mà có ích lợi cho người thì ông đều dốc lòng làm. Sau khi Ngài xuất gia, thì HànVõng Cát vẫn nỗ lực tu hành và khai mắt trí huệ thấy rõ lý nhân quả; biết được là ông cùng Ngài có duyên thầy trò trong tiền kiếp nên thỉnh cầu Quy y và làm môn đệ của Ngài, thật không lầm nhân đời trước, nhưng Ngài không đáp ứng. Chẳng bao lâu ông lại lần nữa cầu xin làm đệ tử, Ngài cũng không trả lời. Lần thứ ba tại nhà lão cư sĩ Hạ Tôn Tường, ông quỳ mãi không chịu đứng dậy, cầu khẩn Ngài nhận ông làm đệ tử, Ngài thấy ông thành tâm khẩn thiết nên nói:
– Ông Quy y tôi, trước tiên chúng ta phải xóa bỏ tình bè bạn thuở xưa, mới không đi ngược lại giới luật Phật chế, trong mọi hành vi ông phải y theo giáo pháp phụng hành, giúp tôi hoằng dương chánh pháp.
Ông Hàn liền đảnh lễ Ngài thọ giới Quy y. Từ đó, ông giúp Ngài hoằng dương Phật Pháp khắp bốn phương, là cánh tay phải đắc lực của Ngài.
Tại Làng Sương Bách Kỳ, Huyện Song Thành, có Lão cư sĩ Hạ Tôn Tường tánh tình hiền hòa đức độ được dân làng tôn kính; mùa Xuân ngày 25 tháng 2 năm 1945 Ngài làm Lễ Quy y cho bảy mươi hai người tại nhà ông, đồng thời cũng dạy họ phương pháp trì Chú Đại Bi và rằng : Nếu các vị gặp cảnh nguy nan chỉ cần chuyên tâm thành ý niệm thì nhất định sẽ được cảm ứng. Ngay hôm sau nhân vì Phật sự Ngài phải rời khỏi đây để tới Huyện Song Thành. Vào mồng 9 tháng 3, có một bà Lão ngồi trước nghĩa trang của làng thúc thít khóc. Trong làng có Hạ Phu nhân thấy thế liền đến an ủi:
– Bà ơi! Thôi đừng khóc nữa!
Bà vẫn không nghe, cứ khóc mãi, Bà lão này mặc chiếc áo vải màu xanh lam, quần vàng, chân mang đôi giày màu vàng, trong tay cầm chiếc nón đen, tóc đánh thành hai bính. Bà khóc một hồi rồi nín, sau đó đến trước cổng làng, ngồi ngay giữa con đường lớn; Khi ấy Hạ Tôn Tường đang đánh xe ngựa trở về làng, ngựa thấy trên đường có người, nên kinh hãi rống to vang lộng tứ phía, thừa dịp này bà Lão lẻn vào làng.
Dân làng thấy Bà tướng mạo quái dị với cách ăn mặc lạ thường nên tò mò xúm quanh hỏi chuyện:
– Bà tên gì? Nhà ở đâu?
Bà đều trả lời rằng: Không biết. Lát sau Bà đứng dậy tập tễnh đi về phía trước, dân làng vì hiếu kỳ, nên đi theo. Khi đến phía sau nhà Hạ Văn Sơn, bà đột nhiên liệng nón vào trong vách tường cao chín thước, rồi nhảy vụt qua tường. Mọi người thấy tận mắt đều sửng sốt và kinh hãi. Vào tới nhà Bà định lên giường nằm, nhưng vợ của Hạ Văn Sơn ngăn lại, hỏi rằng:
– Bà định làm gì vậy?
Bà lão không trả lời. Bà Hạ và đứa con gái là đệ tử Quy y Ngài, nhớ lại lời dạy của Ngài về sự diệu dụng không thể nghĩ bàn thần Chú Đại Bi nên hai mẹ con đồng thanh niệm, Bà lão nghe niệm Chú Đại Bi bỗng ngã lăn trên giường giống như xác chết Dân làng chứng kiến mọi sự liền báo cho cảnh sát, nhân viên cảnh sát đến khiêng bà đi về bót tra hỏi:
– Bà từ đâu đến?
– Tôi là thây chết không biết việc đời.
Dân làng nghe thế đều run sợ nên yêu cầu Bà lão hãy rời khỏi làng, nhưng bà không nghe,
cuối cùng rồi Bà chịu rời. Sau khi Bà đi khỏi thì cô gái họ Hạ đột nhiên phát bệnh quái dị, đầu nhức kịch liệt, thần trí hôn mê, không ăn không ngủ, không nói năng, cả nhà đều lo lắng cuống cuồng. Đến ngày 22 tháng 3, Ngài rời Huyện Song Thành đi đến làng ấy và trú tại nha
Ông Hạ Tôn Tường. Vợ Hạ Văn Sơn nghe tin liền chạy đến cầu cứu. Ngài bảo:
– Tôi không biết trị bệnh nhưng Hàn Võng Cát biết xem nhân quả.
Lúc bấy giờ Hàn Võng Cát cũng có mặt, ông đang tọa thiền. Ngài bèn nhờ ông quán xét nhân duyên sanh bệnh của cô gái.
Hồi lâu Hàn Võng Cát bạch:
– Bạch Thầy, không thể giúp họ được, vì nếu nhúng tay vào sẽ nguy hiểm đến tánh mạng của mình. Cô ấy đã bị Quỷ Cái Như Ý nhập vào. Quỷ này tu luyện lâu năm nên tà thuật và ma lực rất thâm hậu, e rằng Thầy không đủ bản lãnh để hàng phục nó.
– Vậy bệnh tình của cô ta như thế nào?
– Bạch Thầy! Nhất định sẽ chết!
– Cô ta đã Quy y Tam Bảo, Ta không đành lòng nhắm mắt làm ngơ để cô ấy bị ma nữ hại chết. Ta phải cứu cô ta, dầu có chết ta cũng vui lòng vì không những cứu người mà còn cứu ma nữa. Nếu không sau này lại sẽ có người bị ma hại nữa. Vậy ông hãy theo ta xem sự việc này ra sao?
Ngài cùng Hàn Võng Cát đến nhà họ Hạ và biết chắc rằng tà không thể thắng chánh. Quả nhiên phép tà của Ma nữ không thể thắng được Chánh Pháp, Ma nữ muốn chạy trốn mà không được, nên quỳ xuống cầu Ngài tha thứ. Ngài thuyết pháp Tứ Thánh Đế, Mười Hai Nhân Duyên cho Ma nữ nghe. Nghe xong Ma nữ liền giải ngộ, nguyện bỏ tà quy chánh, cầu Ngài truyền Tam Quy, phát nguyện hộ trì Tam Bảo. Ngài bảo Ma nữ hãy qua Tỉnh Cát Lâm, Huyện Giao Hà, núi Lỗi Pháp, Động Linh Long mà tu hành, cùng ban pháp hiệu là “Kim Cang Như Ý Nữ.”ï
Ma nữ đi rồi thì bệnh nhân được bình phục ngay. Bao ngày qua dân làng mục kích những cảnh trạng như thế nên càng tin sâu Phật pháp. Sau đó đã có hơn trăm người cầu xin Quy y phát tâm thọ trì Chú Đại Bi.
Trong Làng Tam Tánh, Huyện Song Thành có Dương Thiếu Anh, con thứ ba của Dương Dục Côn một tướng quốc đời Mãn Châu, đang đóng quân tại Tỉnh Tam Giang (nay là Tỉnh Hợp Giang.)
Năm Dân Quốc thứ ba mươi mốt, Dương Thiếu Anh cùng mẹ và em gái đồng trú trong doanh trại. Cô em tên Thục Lan chưa lập gia thất, Dương Thiếu Anh rất nôn nóng tìm đối tượng cho em, không lâu thì đính hôn cô cho bạn đồng sự là Bạch Giáo Quản. Trong ngày hôn lễ, Dương Thục Lan đột nhiên bị bệnh liệt giường hôn mê bất tỉnh cả mấy ngày, người nhà đành chịu bó tay. Ngày nọ Dương Thục Lan chợt tỉnh lại, nói với mẹ:
– Mẹ ơi! Ngài Quán Âm mặc áo trắng đang đến kìa, mau đi đốt nhang đi mẹ!
Nói xong, cô liền đứng dậy lễ lạy. Mẹ cô thấy cô dường như đang nói chuyện với ai, rồi chập sau vẫy tay ra dạng như đang tiển biệt một vị khách quý. Sau đó, cô xoay đầu lại nói với mẹ:
– Bồ Tát Quán Âm vừa bảo con rằng; Nếu con không kết hôn mà xuất gia tu hành thì con sẽ khỏi bệnh, con đã vâng chịu rồi. Vả lại Ngài cũng đồng ý cho con xuất gia sau khi cha mẹ đã qua đời. Tiếp đó cô nói:
– Ngày mai sẽ có vị Sư đến trị bệnh cho con.
Ngày thứ hai Dương Thục Anh nghe có ba tiếng khánh kêu trên bàn Phật. Ngay lúc đó lại thấy có một vị Tăng bước vào nhà. Vị Tăng này mặc một chiếc Tăng y rách nát, đầu đội nón vải, đi chân không, tay cầm cây phất trần và quất lên thân cô. Cứ thế mỗi ngày vị Tăng ấy đến ba lần trong chín ngày liên tiếp. Sau cùng vị Tăng đó hỏi cô:
– Cô có thật tâm, thật ý muốn xuất gia tu đạo không?
– Sau khi hết bịnh con quyết định sẽ xuất gia tu hành.
Vị Tăng bèn cho cô một viên thuốc. Cô ta uống và quả nhiên hết bệnh.
Trong khi Thục Lan đau nặng, bà mẹ liền đánh điện tín về nhà báo cho cha cô hay nên ông vội đến thăm; nhưng đến lúc ấy bệnh cô đã thuyên giảm rất nhiều nên khi nghe vợ thuật lại những việc đã xảy ra, cha cô phẩn nộ nói:
– Vì do hỏa khí trong người nó quá nóng nên mới mê sảng như thế, chớ làm gì có chuyện một người bình thường có thể thấy được Bồ Tát Quán Âm?
Nói xong ông còn trách mẹ cô sao quá mê tín như vậy. Dương Thục Anh nghe cha nói thế đâm nghi ngờ giấc mộng xưa. Cô vốn sự cương quyết xuất gia nay bị dao động, không lâu sau cô theo cha mẹ trở về làng Tam Tánh. Đêm nọ cô lại mơ thấy BồTát Di Lặc bảo: “Thọ mạng của cha con chỉ còn có bảy ngày thôi! Con hãy niệm Phật để tiêu giảm tội nghiệp cho cha.”
Sáng hôm sau, cô thuật lại giấc mộng đêm qua cho cha nghe, không những ông không tin mà lại còn mắng cho cô một trận. Vì thế cô cứ nơm nốp lo sợ không yên. Đến ngày thứ sáu, khi người cha chuẩn bị ra Huyện Song Thành mua chút vật dùng, Cô một mực ngăn cản ông đừng nên ra khỏi nhà, nhưng ông kiên quyết không nghe vẫn cố chấp ra ngoài.
Sau khi mua bóng đèn và các vật cần thiết, ông ra bến xe Song Thành để trở về. Vừa qua trạm xét vé, ông chợt xây xẩm mặt mày, té lăn hôn mê bất tỉnh. Nhân viên trạm kiểm soát liền sai người cấp tốc đến nhà ông thông báo. Người nhà đến khiêng ông về và ông đã từ trần đúng vào ngày thứ bảy như trong giấc mơ của con ông.
Người con trai thứ hai của ông là Dương Thế Siêu, cũng không tin bất cứ lời gì của em mình nói. Người này không những ngăn cản không cho em gái xuất gia, mà thường hay phỉ báng Tam Bảo. Đêm nọ anh ta mộng thấy Bồ Tát bảo anh ta rằng:
– Trong vòng một tháng ông sẽ chết.
Anh ta tỉnh dậy biết đây là giấc mộng kỳ dị nhưng tâm anh ta vẫn không chút ăn năn hối cải. Quả nhiên đúng một tháng sau, ngày 13 Tháng 5 năm Dân Quốc thứ ba mươi bốn, anh tạ thế.
Đến ngày 25 tháng 12 có dịp Ngài bèn ghé đến nhà họ Dương, khi thấy Ngài bước vào cửa, cô Dương Thục Anh liền nói với mẹ:
– Vị Tăng trị bệnh cho con ở Tỉnh Tam Giang chính là vị này đây, hôm nay Ngài lại đến.
Cô liền chạy ra nghinh tiếp và cung kính đảnh lễ Ngài.
Ngài hỏi:
– Con vẫn còn nhận ra ta à?
– Bạch Thầy, vâng ạ!
– Con có còn muốn xuất gia nữa không?
– Bạch Thầy! Xưa kia vì trong lúc bệnh hoạn, tâm trí con ngu muội, lại không có chứng thể, nên tâm sanh nghi hoặc. Nay con biết được rằng tất cả mọi việc đúng thật, đương nhiên con vẫn muốn xuất gia.
Từ đó cô ăn chay niệm Phật, chân thành khẩn thiết tu hành. Cô xin Quy y Tam Bảo rồi sau đó khuyến hóa thuyết phục được ba người anh và các bà con quyến thuộc đồng Quy y Ngài.
Phan Tế Thời là người giàu có ở Huyện Song Thành, hai vợ chồng đã ngoài bốn mươi mà vẫn chưa có mụn con nối nghiệp nên rất buồn rầu. Vì ngưỡng mộ đức hạnh của Ngài nên họ
tìm đến Quy y và chuyên cần học Phật pháp với Ngài. Ông bà thường cầu nguyện trước Bồ Tát Quán Thế Âm gia bị cho họ có một đứa con để nối dõi. Ông Phan cũng thành tâm khẩn thiết cầu Ngài dìu dắt, Ngài bảo:
– Ông phải nên làm nhiều việc lành, ông có thể bố thí phân nửa gia tài của ông không? Nếu làm được như thế ông sẽ tích tụ được nhiều công đức. Khi nhân duyên thành thục, tôi tin chắc rằng ông sẽ được mãn nguyện.
Nghe Ngài nói thế ông liền y lời, đem tiền của ra tu sửa chùa chiền, tạo tượng Phật, cúng dường Tam Bảo, bố thí vật thực cho các hội từ thiện, giúp người nghèo khổ không nơi nương tựa. Một năm sau quả nhiên vợ ông sanh được một bé trai, đặt tên Thí Đức. Đứa bé chóng lớn, thiên tánh thông minh lanh lợi. Sau khi sanh được con trai, ông lại càng tin tưởng Phật Pháp, ngày ngày tụng kinh niệm Phật chuyên cần tu hành thiện pháp.
Theo lời dạy của Lão Hòa Thượng Thường Nhân, Ngài trở về Chùa Tam Duyên giúp đỡ tăng chúng xây cất Tự viện. Tất cả vật liệu như cây cối, ngói gạch đều phải chuyên chở bằng xe, nhưng nhằm vào mùa thu hoạch, nên Chùa không thể mướn xe được. Ngài đích thân lặn lội tìm đến nhà ông Trưởng khu Lưu Trung Cần mượn xe, tiếc thay ông Lưu từ chối rằng:
– Bạch Thầy đây là việc thiện con muốn làm lắm, nhưng ngặt vì lúc này đúng vào mùa gặt lúa, nên con không có cách chi giúp Thầy!
Khi ấy người em dâu của ông từ trong phòng bước ra thấy Ngài, bà liền cầu Ngài cứu vớt con bà, thằng bé đang bệnh nặng sắp chết.
Sau một hồi quán sát Ngài nói:
– Bà có biết vì sao con bà sắp bị chết không?
– Dạ con không biết.
– Vì bà không hiếu thảo với cha mẹ chồng, nếu bà tin lời tôi mà đến trước cha mẹ chồng quỳ lạy sám hối tội lỗi, thì mới mong cứu vãn tánh mạng đứa nhỏ.
Vì thương con nên bà đã làm y theo lời dạy, nhưng bệnh tình con bà vẫn không thuyên giảm. Ngài bảo rằng hãy đem đứa bé đến, khi bà mang con đến, Ngài vỗ trên đầu đứa bé ba lần và đứa bé bắt đầu khóc. Bệnh của bé cũng tự nhiên phục hồi. Ông Lưu chính mắt thấy rõ sự tình lòng rất thán phục nên chủ động chiêu tập tất cả xe cộ lớn nhỏ trong toàn khu để chở vật liệu xây cất cho Chùa luôn mấy ngày liền. Sau đó bất luận Ngài đi đâu cũng có người tranh nhau cho mượn xe chở. Chỉ trong vòng một tháng người ta đã cho mượn đến tám trăm chiếc xe.
Chuyện Ngài cứu sống em bé truyền ra rất mau nên Lý Thanh Sơn ở thôn Dương Gia Điềm, có một người em bị bệnh nặng bèn đến cầu Ngài cứu giúp. Ngài đáp ứng, cùng theo về nhà ông; khi vừa vào đến cửa, Ngài liền nói với Lý Thanh Sơn:
– Ám khí trong nhà ông quá nặng, tôi không đủ khả năng để cứu giải. Vài ngày tới đây e rằng trong nhà ông sẽ xảy ra chuyện không may.
Qua bảy ngày sau, quả nhiên Lý Thanh Sơn vì bực tức người em mà tự tử. Chẳng bao lâu, người em của ông và người cháu gái cũng bị bệnh mà chết.
Cùng Thôn Dương Gia Điềm có em Vương Thân mười hai tuổi bị bệnh lao đã ho ra máu và còn bị đau bụng. Cha mẹ em tìm đến Ngài xin cứu sống con mình.
Sau khi xem đứa bé, Ngài bèn hỏi ông Vương một câu hỏi lạ lùng:
– Ông có muốn cho con ông sống không? Tôi không thể cứu con ông được, chính ông phải cứu nó.
– Tôi muốn nó sống nhưng làm cách nào mà tôi có thể cứu nó? Tôi không biết phải làm sao đây?
– Đây là phương pháp: nếu ông muốn con ông sống thì ông phải cho nó xuất gia, quy y cửa Phật. Nếu nó xuất gia, nó sẽ sống bằng không nó sẽ chết. Hai đường phải lựa một và chẳng có cách nào khác.
Cha mẹ em liền đồng ý. Chẳng bao lâu sau, em hết bệnh hẳn. Thấy con mình mạnh khỏe trở lại, hai vợ chồng hối tiếc và không cho em đi tu, mặc dầu Ngài viết thơ ba lần khuyên họ phải giữ lời hứa. Trong lá thơ cuối cùng Ngài cảnh tỉnh họ: Nếu ông bà không tức khắc cho con mình xuất gia tu đạo thì e rằng bệnh tình của em sẽ bộc phát trở lại, khi ấy khó mà trị được. Cha mẹ em vẫn không quan tâm đến lời nhắc nhở trong thơ.
Qua hơn một năm sau bệnh của em bỗng tái phát, cha mẹ em lo lắng, chạy chữa biết bao bác sĩ, thuốc men nhưng đều vô phương cứu chữa, mấy ngày sau em qua đời.
Dù hai ông bà có khóc lóc thảm thiết thế nào đi nữa, đứa bé cũng không sống lại. Cả hai người lại khẩn cầu Ngài cứu sống cho đứa con họ một lần nữa, nhưng Ngài nói:
– Cái phương pháp làm cho nó sống là của ông bà. Tôi đã cho ông bà cái phương pháp ấy. Chính ông bà đã không dùng, tôi không không thể làm gì khác hơn.
Cha mẹ em Vương Thân thật tâm hối hận vì trước kia đã không tin lời của Ngài.
Tại sao Ngài dạy đứa trẻ xuất gia? Vì nó có cái đức tướng của một người xuất gia, và trong các kiếp trước, nó đã phát nguyện sẽ xuất gia trong mỗi kiếp sống.
Sau khi Nhật Bổn đầu hàng, sự giao thông giữa vùng Đông Bắc và nội địa Đại lục được dễ dàng, nên Ngài đến Quảng Đông đảnh lễ Hòa Thượng Hư Vân, vị Hòa Thượng mà Ngài đã ngưỡng mộ từ lâu. Đến mùa thu năm 1946 từ Chùa Tam Duyên tại Hợp Nhĩ Tân, Ngài cất bước đi tham bái vị đại thiện trí thức, không quản đường xá xa xôi vạn dặm. Khi đến Chùa Bát Nhã ở Trường Xuân, hai đệ tử của Ngài là Quả Năng và Quả Thuấn ở lại nơi đó thọ giới Tỳ-kheo, còn Ngài một mình tiếp tục trên cuộc hành trình mà thẳng bước về phương Nam, Ngài chỉ mặc một bộ y phục, ngoài ra không có hành trang chi, tiền thì chỉ đủ chi tiêu vào vé tàu. Khi đến Thiên Tân, Ngài tạm trú tại Viện Đại Bi. Nơi đây có Lão Hòa thượng Đàm Hư, đang giảng Kinh Lăng Nghiêm và Lão Hòa Thượng Định Tây (Như Quang) thì từ Viện Đại Bi trở lại Đông Bắc.
Hoàn mãn các thời kinh này, Ngài cùng với Lão Pháp sư Thể Kính và mười ba vị Tăng khác đáp tàu đi Thượng Hải. Khi thuyền đi ngang qua Hoàng Hải, bỗng nhiên một cơn bão lớn thổi đến; những đợt sóng vĩ đại đánh vào làm thuyền chao động không thể tiến tới mà cơ hồ như sắp lật úp. Mưa bão và sóng bể kéo dài mười mấy ngày làm cho thức ăn, nước uống trên thuyền đều cạn. Tám phần mười người trên thuyền đều bị say sóng ngất xỉu kể cả Ngài. Ngài nôn tất cả thức ăn và mửa ra cả mật xanh mật vàng. Ai ai cũng đều hoảng hốt lo sợ và nghĩ rằng: Chắc không thoát khỏi cơn hoạn nạn này.
Dưới đây Ngài làm bài “Kệ Nôn Mửa” (Ẩu Thổ Tụng) để tường thuật lại cảnh hiểm nạn lúc bấy giờ. Xem đây cũng sẽ rõ được lòng từ cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Kết bạn nam hành thập tứ tăng
Hồ tử trưởng lão, Sa di thanh
Bích hải tiếp thiên thiên vạn lý
Hắc ba trục lãng lãng thiên trùng
Pháp hàng yêu tà chu vị phúc
Luân phụng thánh trợ ẩu phương ninh
Hỷ chỉ Hỗ Hãi trừ cơ khát
Võ Xương Chánh Giác bảo loa minh.
Tạm dịch:
Kết bạn nam hành mười bốn Tăng
Trưởng lão râu dài, Sa di trẻ
Biển trời xanh biếc tiếp vạn dặm
Sóng đen lớp lớp lắm thiên trùng
Đối pháp hàng tà thuyền không ngã
Ân triêm thánh đức ói mửa ta
Mừng đến Hỗ Hải trừ đói khát
Võ Xương Chánh Giác bảo âm vang.
Kết bạn nam hành mười bốn Tăng nghĩa là: Trên thuyền đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải có mười bốn vị Tăng gồm mười vị Tỳ kheo và bốn Sa di.
Trưởng lão râu dài Sa di trẻ: Ngài là một trong bốn Sa di trẻ trên tàu. Trưởng lão râu dài tức Lão Pháp sư Thể Kính, Trưởng chúng của nhóm này, ra lệnh cho chư Tăng phải nộp tất cả tiền bạc cho Sư trước khi lên tàu. Sư bảo:
– Không ai được giữ tiền riêng.
Biển trời xanh biếc tiếp vạn dặm: Khi ấy biển trời đồng một màu xanh, nhìn xa không bờ mé, chỉ có thuyền lướt trên sóng gió thôi.
Sóng đen lớp lớp lắm thiên trùng: Đột nhiên, sóng nước biến thành màu đen, sóng nổi cuồn cuộn cao năm, sáu thước. Theo bình thường cuộc hành trình từ Thiên Tân đến Thượng Hải mất khoảng một tuần lễ, nhưng lần này đi phải mất hai tuần vì nạn phong cuồng bão táp này.
Đối pháp hàng tà, thuyền không ngã: Trước kia vì phải cứu bệnh cho Quả Tá và loài Thủy quái bị động nên mới oán ghét Ngài. Xưa kia ở làng Đông Tĩnh chúng muốn trả thù Ngài và đã muốn Ngài cùng cả dân làng đều bị chết trong cơn lụt. Nào ngờ nay chúng muốn lật úp chiếc tàu và nhận chìm Ngài để báo thù. Ngài đã bị say sóng mửa ra mật xanh, mật vàng, mất hết sức lực và gần như sắp chết, nhưng Ngài vẫn âm thầm không ngừng niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, cầu nguyện Bồ Tát cứu giúp: “Nếu con sống mà không lợi ích chi cho chúng sanh thì con nguyện tiếp thọ tất cả.” Trong cơn bão tố thuyền lung lay thế nào cũng không lật được.
Ân triêm Thánh đức ói mửa tan: Bồ Tát Quán Âm thật đại từ, đại bi, đáp ứng sự thành khẩn vô bờ của Ngài, cơn bão đã ngưng, Ngài và mọi người trên thuyền được bình an vô sự.
Mừng đến Hỗ Hải trừ đói khát: Khi thuyền vừa cập bến, Lão Pháp Sư Thể Kính bảo mua mì về cùng ăn. Lúc mọi người đã ăn no rồi còn dư lại chút ít, họ định đổ xuống biển. Thầy trai soạn liền hỏi Ngài có muốn ăn không? Ngài tuy không ăn quá Ngọ nhưng lại nghĩ: Đã hơn mười mấy ngày trời trên thuyền không có đủ để ăn, nay họ có ý đổ thức ăn xuống biển, chắc sẽ gieo thêm nghiệp dữ. Nghĩ thế mà Ngài bưng uống luôn hai tô canh mì. Vị thầy kia thấy thế liền vội báo với lão Hòa Thượng: Ông Thầy nó đó nói là không ăn quá Ngọ, thế mà ổng lại trộm ăn vụng đó.
Ngài bị Lão Hòa Thượng la mắng thậm tệ nhưng không hề biện giải.
Võ Xương, Chánh Giác bảo âm vang: Từ Thượng Hải Ngài đến tỉnh Võ Xương, Hồ Bắc và tạm trú tại chùa Chánh Giác, ngày đêm mặc bộ y phục củ trăm miếng vá, ngồi thiền ở cạnh cánh cửa ra vào chánh điện, lúc bấy giờ Ngài phụ trách hương đăng khi rảnh việc thì dụng công tu thiền. Chánh điện nơi đây thường tỏa mùi hương lạ. Tất cả công việc trong chùa Ngài đều từng đảm trách như: nấu ăn, gánh nước, lau nhà, quét dọn nhà vệ sinh…
Năm 1947 Ngài đến Đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm ở núi Phổ Đà thọ Cụ-túc giới. Sau khi thọ giới xong Ngài đi về miền Tây và tu tại Chùa Linh Nham Sơn gần Tô Châu. Nơi đây Ngài tham dự các lớp thuyết giảng và nghiên cứu kinh điển. Mùa Thu năm ấy Ngài tới núi Không Thanh tham gia mười tuần thiền thất. Ngài đã gặp Lão Hòa Thượng Liễu Thừa và Hòa Thượng Minh Quán trong khóa thiền này. Lão Hòa Thượng Liễu Thừa là Phương Trượng của Không Thanh Sơn Tự. Trong thiền đường duy chỉ có Lão Hòa Thượng Minh Quán và Ngài đã miên mật thiền quán suốt bảy mươi ngày không hề nằm nghỉ.
Sau đó vào một đêm Ngài từ Long Đàm trở về Chùa Không Thanh bỗng có một đàn sói ngoan ngoãn đi theo, chẳng những chúng không hề tấn công Ngài mà còn tỏ vẻ quy phục nữa, thấy thế Ngài liền Quy y cho chúng. Vì vậy trong số đệ tử của Ngài, nay lại được thêm hai mươi mấy chú sói nữa.
Từ Thượng Hải Ngài ghé Hán Khẩu trước khi tiếp tục đi Quảng Châu. Lúc bấy giờ các Chủ tàu thường cho chư Tăng đi miễn phí vì họ tin rằng sự có mặt của các vị tu hành là một điềm lành và sẽ đem lại bình an.
Trên tàu Ngài thấy một người què đi thọt chân thật đáng thương và ngay khi gặp người này, Ngài biết rằng Ngài có thể chữa lành cho anh ta, nhưng nếu chữa cho anh ta ngay thì có thể sanh chuyện cho nên Ngài chờ đến ngày cuối cùng, khi tàu sắp cập bến thì trời cũng vừa hừng sáng Ngài hỏi ông:
– Sao ông đi đứng coi bộ khó khăn quá vậy?
– Ôi! tôi bị người ta vu cáo bán than chợ đen nên bị bắt giam dưới hầm đất vừa ẩm ướt vừa giá lạnh nên bị bệnh phong thấp nặng, đau thấu các khớp xương; hơn nữa vì chỗ giam rất chật hẹp không có chỗ đi tới đi lui được nên khi được phóng thích thì không đi được nữa và ra nông nỗi này. Nếu không có cây nạng nầy thì phải chịu thôi!
Xương của anh ta bị cong queo còn người thì xiêng lệch như một con vịt ngủ.
– Ông có muốn lành bệnh không?
– Tất nhiên là muốn rồi.
Vậy ông hãy liệng cây nạng của ông xuống biển đi.
Người què ấp úng:
-…nhưng thưa nếu không có cây nạng thì tôi làm sao đi đây?
– Tôi sẽ giúp ông, không lẽ tôi gạt ông hay sao?
Ông ta nghe lời bèn vứt cây nạng qua thành tàu. Ngài vừa xoa chân ông vừa tụng Chú Đại bi khoảng mười lăm phút. Xong Ngài bảo:
– Hãy đứng dậy!.
Thật là ông đã đứng lên được, Ngài tiếp:
– Bước đi!
Người què bắt đầu bước. Ngài bảo tiếp:
– Và bây giờ ông hãy chạy thử xem.
Ông ta liền chạy quanh Ngài, reo mừng khấp khởi. Thấy sự việc này có khoảng bốn, năm mươi người trên tàu tới xúm quanh Ngài, cầu Ngài chữa bệnh cho họ. Người này nói: Tay tôi nhức; Người kia nói: Lưng tôi đau… và đều xin Ngài chữa cho.
Ngài khôi hài hỏi:
– Các vị có sợ bị ăn đòn không?
Nói xong Ngài đấm vào tay của một người bị nhức tay thì người đó liền hết nhức. Ngài đá nhẹ vào một người chân bị nhiễm trùng và hỏi:
– Anh cảm thấy thế nào?
– ồ! Tôi hết đau rồi. Người kia ngạc nhiên trả lời.
Mỗi người bệnh đều được chữa bằng những cái đấm đá mà họ đều cho rằng bệnh họ được lành. Sau đó hành khách lại bao quanh Ngài xin hẹn để chữa bệnh cho thân nhân và bạn hữu của họ như:
– Chị tôi ở Nam Kinh đã bị đau từ mấy năm nay, xin Ngài…..
Ngài phương tiện nói:
– Vâng, vâng…tôi sẽ cố đến…
Khi tàu ghé bến Ngài phải dùng một ngõ tắt để lên bờ.
Bởi lúc đến Thượng Hải Lão Pháp Sư Thể Kính (truyền lệnh cho chư Tăng phải nộp tất cả tiền bạc cho Sư trước khi lên tàu đi Thượng Hải) từ chối không trả lại phần tiền cho Ngài, cho nên trên người Ngài chẳng dính lấy một xu và trên tàu Ngài đã được người ta cúng tám mươi ngàn quan (tiền Trung Hoa đương thời) nên đã dùng hai mươi ngàn để mua vé xe lửa đi Quảng Châu. Tại trạm xe lửa Ngài gặp Pháp sư Chu Nhất, Sư cũng đi Quảng Châu nhưng lại không tiền mua vé, đợi đi quá giang. Ngài vui vẻ mua vé cho Sư rồi cùng đi. Như thường lệ, Ngài chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Nhưng Sư Chu Nhất thì cứ đến mỗi trạm xe lửa ngừng đều muốn mua thức ăn, sau cùng Sư muốn mua cháo đắt đến mấy ngàn quan. Ngài bèn móc hết tiền còn lại trong túi đưa cho Sư rồi nói: Thầy hãy tự giữ lấy và cũng để giảm bớt phiền phức cho tôi. Tôi cũng không muốn bị phân tâm vì nó; từ đó Ngài đã không đụng tới tiền bạc nữa.
Năm 1948 Ngài đến Chùa Nam Hoa, Bảo Lâm, Tào Khê Tỉnh Quảng Đông, triều bái chân thân Lục Tổ Huệ Năng và Đại Giám Thiền Sư, kế Ngài bái kiến Lão Hòa Thượng Hư Vân, bấy giờ đã một trăm lẻ chín tuổi.
Trong lúc đàm đạo Lão Hòa Thượng đã nhận ra Ngài là bực pháp khí, xứng đáng được truyền pháp gia bảo. Sau đó ủy nhiệm Ngài làm Giám Luật của Chùa Nam Hoa, Chủ nhiệm giáo vụ và là A Xà Lê Tôn chứng sư trong những kỳ giới đàn. Ngài nghiêm trì giới luật, đồng chí hướng và đạo hạnh của Lão Hòa Thượng.
Ngài cùng Lão Hòa Thượng tâm ấn tâm đàm luận, ý hợp tâm đồng. Chúng ta có thể khảo lược bài kệ sau đây:
Hư Công thấy tôi bảo Như Thị
Tôi thấy Hư Công bạch Như Thị
Hư Công và tôi đồng Như Thị
Phổ nguyện chúng sanh cũng Như Thị
Lúc đầu Lão Hòa Thượng Hư Vân yêu cầu Ngài ở lại làm giáo thọ tại tu viện Nam Hoa. Ngài từ chối, bạch rằng:
– Đệ tử từ vạn dặm đến đây để được gặp vị Thiện tri thức, nếu Hòa Thượng có thể bảo đảm rằng đệ tử sẽ chấm dứt sanh tử, thì dầu có phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, dẫu có phải cúng dường nhục thân này đệ tử cũng sẽ hoan hỷ phụng hành.
-Người nào ăn thì người ấy no, người nào tu thì người ấy chứng và sẽ chấm dứt luân hồi sanh tử. Tu hành thì phải quán chiếu nội tâm và ngoại chướng, người tu không nên chỉ nhằm đạt đến quả vị A La Hán và chỉ nghĩ đến sự chứng đắc của mình. Phải tu Bồ Tát đạo, hộ trì Tam Bảo, hành thiện và phục vụ cho mọi chúng sanh. Như vậy phước huệ viên thành thì sẽ chấm dứt sanh tử.
Hòa thượng Hư Vân lại tiếp tục khuyến tấn Ngài dạy:
– Nhân giả từ miền Đông Bắc vạn dặm đến đây để gặp tôi, nếu người không nghe theo lời tôi thì thử hỏi có ích gì?
Ngài bèn y giáo; được dịp quan sát và học hỏi lời nói, hành động của Lão Hòa Thượng Hư Vân, Ngài cảm phục đạo hạnh của Hòa Thượng vô cùng. Ở chức vụ Giáo thọ Ngài đã tận lực làm việc để xứng đáng là một vị Thầy, một bậc đàn anh gương mẫu. Ngài nhận chịu tất cả những khó khăn và chướng duyên trong sứ mạng hoằng truyền giáo pháp.
Năm 1949 Lão Hòa Thượng Hư Vân về núi Vân Môn Tỉnh Quảng Đông lo việc tu sửa lại ngôi Đại Giác Thiền Tự. Từ đó Ngài cũng xin thôi việc chủ nhiệm giáo thọ, rồi đến Vân Môn bái biệt Hòa Thượng.
Hòa Thượng Hư Vân đã viết thư khẩn thiết lưu Ngài ở lại giữ chức Viện Trưởng, nội dung như sau:
“Kính bạch Pháp sư An Từ,
Tôi đã nhận được thơ Nhân giả và tôi đã đọc rất kỹ. Nhân giả đã quá khiêm tốn. Thật ra trong năm vừa qua, luật viện đã trông cậy phần lớn nơi sự giúp đỡ của Nhân giả. Tôi hy vọng rằng từ nay về sau chúng tôi lại còn có thể nhờ cậy nơi Ngài. Xin đừng nghĩ đến chuyện đi bất cứ nơi đâu. Tôi hy vọng rằng Nhân giả sẽ quyết định thường trú tại đây để hỗ trợ và bảo vệ Tự Viện. Đó là sự mong ước tha thiết nhất của tôi. Tôi không còn gì để nói thêm ngoại trừ kính chúc Nhân giả pháp thể khang an, tuệ giác viên thành.
Nhà sư áo rách Hư Vân Cẩn bái
Mồng 6 tháng 2 năm 1948”
Nhưng Ngài nghĩ rằng có rất nhiều người mà ngay cả danh từ “Phật Đà” cũng chưa biết đến cho nên Ngài quyết định đem Pháp Phật hoằng dương khắp chốn.
Vào tháng 5 năm 1948, sau lễ truyền giới mùa Xuân tại Chùa Nam Hoa Ngài đã nhận lời mời của nhóm chuyển pháp luân là nữ Lão cư sĩ Lâm Hoàng Chú Tai đến Huyện Nam Thanh Tỉnh Giang Tây để giảng Kinh A Di Đà.
Khi ấy có hơn trăm người tham dự và do thành tâm nghe pháp nên trong pháp hội đã có nhiều sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.
Trong nhóm này có cư sĩ Vạn Quả Lạc bị bệnh ma ám trên mười năm. Tuy có bệnh mà ông vẫn đi thường tới Chùa tu tập, nên ông chắc chắn rằng đây là một căn bệnh do ma ám. Ông đã từng thỉnh chư Tăng, đạo sĩ, pháp sư giảng kinh thuyết pháp, ông cũng lạy Đại Bi Sám, Lương Hoàng Bảo Sám, tụng Kinh Du Già, phóng sanh, phóng âm hồn, cúng vong, thí thực cô hồn….Tất cả công đức Phật sự ông đều làm nhưng vẫn không có hiệu quả. Nhưng khi ông nghe giảng kinh A Di Đà, ma chướng trong người ông tự dưng biến mất và ông không bao giờ bị nó quấy rầy nữa.
Một người khác trong chúng là nữ cư sĩ trẻ họ Từ tuy bán thân bất toại nhưng vẫn cố đến nghe giảng Kinh Di Đà, dần dần bệnh cô bình phục.
Lúc bấy giờ hai sự việc trên đã được lưu truyền rộng ra. Điều này cho thấy không những niệm Phật, bái Sám trừ được ma chướng mà nghe Kinh thuyết pháp nghiệp chướng cũng được tiêu trừ.
Sau khi giảng kinh A Di Đà xong, Ngài trở về Chùa Nam Hoa. Trong tháng kế đó có một bọn cướp xông vào Chùa có ý cướp phá. Trong đêm khuya chúng đấm cửa và la to rằng chúng là Đại diện của Chánh quyền đến vì việc quân cơ. Ngài đã không chịu mở cửa. Nghe tiếng cướp đến những người trong Chùa vội chạy tìm chỗ trốn. Hai đệ tử của Ngài thì núp dưới gầm giường, chỉ còn Ngài đứng một mình trơ trọi và sau cùng phải mở cưả. Bọn cướp xông vào dơ cao gậy gộc súng ống hùng hổ hỏi:
– Tại sao ông không mở cưả?
– Các ngươi là một bọn cướp, các ngươi đến đây với ý đồ cướp của, không phải để bố thí. Các ngươi nghĩ sao? Nếu các ngươi là tôi, các ngươi có mở cửa không?
Chúng liền chĩa súng vào phía Ngài rồi thét lên:
– Đem tiền ra đây mau!
Đang mặc chiếc áo rách cố hữu, Ngài điềm nhiên trả lời:
– Các ông thấy áo tôi đang mặc đây rồi nghĩ coi tôi có phải là một người giàu có không?
– Không, nhưng…
Chúng nhìn quanh rồi nói thêm:
– Nhưng Đồ đệ của ông chắc là phải có tiền.
– Nếu Thầy không một xu dính túi, hẳn là Trò phải nghèo xác nghèo xơ.
Tuy nhiên bọn cướp vẫn xông xáo lục lọi Chùa, Ngài theo chúng bén gót quở trách:
– Này, các ngươi đừng có lấy đi một thứ nào à nghen!
Sau cùng bọn cướp phải ra về tay không.
Mùa Đông năm 1948, có một nữ cư sĩ người Mỹ tên Ananda Jennings. Bà thuộc một gia đình Thiên Chúa giáo, vì quyết tâm nghiên cứu Phật pháp và ngưỡng mộ đức hạnh của Lão Hòa Thượng Hư Vân nên tới Chùa Nam Hoa lễ bái Hư Lão. Đúng lúc này Ngài vừa tới Nam Hoa Tự nên ba vị chụp hình lưu niệm. Mùa Xuân 1949 sau khi Đại Giới Đàn viên mãn, bà theo Hư Công ra Bắc đến Đại Giác Thiền Tự ở núi Vân Môn, Huyện Khổng Minh, Tỉnh Quảng Đông và lưu lại đó một thời gian ngắn. Cho đến cuối năm ấy, Ngài từ chức Giám Luật và dồn thời giờ đọc bộ Đại Tạng, ấn bản Long Tạng.
Trong lễ truyền giới năm 1949 tại Chùa Nam Hoa, Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân là Pháp chủ truyền giới sư, còn Ngài là một trong bảy Chứng minh sư. Sau lễ truyền giới, Ngài đã cùng Lão Hòa-thượng đi lên miền Bắc. Rồi Hòa-thượng tiếp tục đi Vân Môn còn Ngài trở về Nam Hoa.
Sau đó Ngài đã một mình từ núi Vân Môn đi đến Chùa Đại Giác trên đường núi cheo leo khúc khuỷu, dài khoảng tám dặm lại có nhiều dã thú và các quái vật hung tợn nhưng Ngài không chút sợ hãi vẫn tiến bước. Trời sập tối, trước mặt Ngài là một đám mây đen nên khó mà nhận ra phương hướng để tiếp tục đi. Đột nhiên Ngài thấy có một nhóm đèn nhỏ hiện ra trong hư nên liền đi theo đốm sáng đó. Ngài đi được chừng một trăm bước thì ánh sáng đó bỗng biến mất và đang lúc định thần nhìn thử xem mình ở đâu, thì Ngài đã thấy mình đang đứng trước cổng Chùa Đại Giác.
Sau khi đảnh lễ Lão Hòa Thượng, khi hỏi về việc cuộc hành trình của Ngài, Hòa Thượng đã không khỏi ngạc nhiên vì trong đêm tối mà Ngài đã tìm ra được lối đi trên con đường hiểm trở này. Hòa Thượng nói;
– Ngay cả ban ngày mà người ta còn dễ bị lạc trên con đường này huống chi nói đến việc đi trong đêm. Con đến đây được trong đêm tối đen như mực này thì thật là lạ.
Sau đó Hòa Thượng đã giao cho Ngài chức Tri chúng tại Chùa Đại Giác ở Vân Môn, cũng như Ngài đã được cử giữ chức này tại Nam Hoa. Lúc bấy giờ vào mùa hè, vì không quen thủy thổ ở đây nên Ngài đã nhuốm bệnh và xin phép Hòa Thượng đi Quảng Châu trị bệnh.
Thấy Ngài quyết chí ra đi, Lão Hòa Thượng cầm tay Ngài ân cần dạy:
– Chuyến ra đi này có lẽ chúng ta không còn dịp gặp lại nữa. Con hãy nỗ lực trên con đường hoằng dương chánh pháp, nhân danh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói lên chánh pháp và hãy thiết lập Đạo tràng để nối tiếp sự nghiệp của Lịch Đại Tổ Sư. Như vậy đường con đi sẽ được chói sáng bằng vô lượng hào quang. Hãy dõng mãnh tinh tấn và vun trồng giới đức đừng cô phụ niềm kỳ vọng ta đặt nơi con.
Muà hè 1949 Ngài đến Chùa Lục Dung ở Quảng Châu mà vị Trụ trì là Lão Hòa Thượng Minh Quán. Hòa Thượng là một vị sư già có bộ râu dài đã từng cùng Ngài dự khóa thiền thất trong suốt mười tuần lễ tại núi Thanh Sơn khi xưa. Vừa đến Ngài được Hòa Thượng cử làm Tri chúng, Ngài đáp ứng, là chỉ lưu lại trong thời gian một tháng và định Trung Thu rằm tháng tám sẽ trở về Vân Môn nhưng nào ngờ hai tuần lễ sau thì con đường đi Vân Môn bị cắt ở Thiều Quan vì tình hình chiến cuộc. Không thể đi Vân Môn được Ngài phải lưu lại Chùa Lục Dung.
Lúc bấy giờ trong quỷ Chùa Lục Dung có năm trăm lạng vàng và ba ngàn Mỹ kim bằng bạc (tương đương năm mươi ngàn Mỹ kim đương thời.) Sau khi Thiều Quan thất thủ, Ngài khuyên phương trượng Minh Quán:
– Tôi đề nghị ba cách sau đây, Thầy xét dùng bất luận cách nào cũng có ích cho Thầy. Một là lấy tất cả tiền bạc hiện có tại Lục Dung và phân cho tất cả trên ba mươi vị Tăng ở đây, đừng kể tôi vì tôi không muốn nhận bất cứ cái gì. Sau khi phân chia, các thầy hoặc rời Chùa hoặc ở lại nhưng nếu họ muốn ở lại thì phải tự túc. Đừng để lại khoản tiền chung nào cả.
Cách thứ hai là đem tất cả tiền đi Hương Cảng gởi tại một ngân hàng ở đó, giữ tiền tại đây chỉ vô ích. Thiều Quan đã thất thủ và Quảng Đông sẽ mất theo. Nếu Thầy gởi tiền tại Hương Cảng thì trong tương lai, khi Thầy đến đó, Thầy có thể dùng được.
Cách thứ ba là đem tất cả tiền đi Hương Cảng, mua một miếng đất và cất một Tu viện rồi di chuyển chư Tăng ở Lục Dung đến đó và Thầy lại làm Phương trượng như cũ. Bất cứ cách nào trong ba cách ấy đều có lợi.
Nhưng sư Minh Quán không có tự tin để thực hành một trong ba cách mà Ngài đã đề nghị, Sư đứng trơ ra nói:
– Nhân quả việc này quá lớn! Tôi không dám di chuyển món tiền này, tôi không đủ tư cách.
Sáng ngày 18, Ngài không đến công phu khuya vì bị đau đầu. Mặc dầu Ngài là một trong ba vị lớn trong Chùa có quyền vắng mặt trong khóa lễ sáng, khi Sư Minh Quán nghe trình rằng Ngài đã vắng mặt, Sư quở Ngài lười biếng. Vì biết rằng có biện bạch với Sư cũng vô ích, nên Ngài chuẩn bị ra đi mặc dầu không có lấy một xu trong túi. Lúc bấy giờ sư Minh Quán van nài:
– Thầy không đi được! Không có Thầy thì tôi biết xoay xở làm sao?
Nhưng Ngài đã quyết định qua Hương Cảng hoằng pháp nơi mà Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo rất thịnh hành, và lối sinh hoạt ở đây rất Tây hóa. Tuy không tiền nhưng Ngài vẫn ra nhà ga và đã gặp hai vị cư sĩ Tạ Khoan Huy và Trần Khoan Mãn cũng đi Hương Cảng, họ liền mua vé cúng dường Ngài. Nhận vé xong Ngài trở lại Chùa Lục Dung để từ biệt Phương trượng Minh Quán. Phương trượng liền sai Thị giả chạy theo nhét vào tay Ngài mười Mỹ kim nhưng Ngài vứt xuống đất nói:
– Thầy đưa tôi cái thứ tiền không thanh tịnh này làm gì?
Đây là lần ra đi cuối cùng của Ngài từ Lục địa Trung Hoa. Ba ngày sau, ngày 22 tháng tám Quảng Đông bị mất. Lão phương trượng và các đệ tử ra ga mang theo nhiều vali và rương nhét đầy vàng bạc nhưng khi họ lên tàu thì tất cả của cải đều bị tịch thu. Mãi sau khi Sư Minh Quán gặp lại Ngài ở Hương Cảng, Sư than rằng:
– Nếu trước kia tôi sớm nghe lời Thầy thì đâu đến nỗi!
– Này Thầy, Thầy có nghĩ rằng Thầy đã mắc một lỗi lầm lớn về nhân quả hay không? Nhưng Thầy có gì đâu mà lo? Thầy còn bộ râu của Thầy mà..
Ngài từng nói: Bất cứ ai cũng có thể giác ngộ nhưng hãy rủ bỏ tất cả những gì mà bạn không rủ bỏ được, và rủ bỏ một cách thật mạnh mẽ.
Từ đó Ngài lưu lại Hương Cảng, vì thời thế loạn lạc không thể trở về núi Vân Môn thân cận Lão Hòa Thượng nhưng Ngài vẫn thường thơ tín qua lại vấn an và còn tận lực trợ giúp Lão Hòa Thượng trùng tu Thiền Tự.
Năm 1958 Hư Công tự tay biên thảo, giải thích ý kệ trong quyển “Tăng Đính Đạo Ảnh Phật Tổ.” Đây là một cống hiến giá trị cho Phật giáo. Đồng thời Hư Công cũng gởi cho Ngài một lá thơ như sau:
“Độ Luân Nhân giả huệ giám:
Đã lâu xa cách, gần đây Nhân-giả hoằng pháp độ sanh ra sao? Mới đây tôi vừa viết thêm một bộ “Phật Tổ Đạo Ảnh.” Xin gởi tặng Nhân-giả tham khảo lưu niệm, hy vọng cùng được lợi cho mình và lợi cho người.
Nay trân trọng,
Pháp Hỉ,
Hư Vân cẩn bái. Ngày 2 tháng 12 năm 1958”
Hòa Thượng Lai Quả và Hòa Thượng Hư Vân tại Thượng Hải (1952)
Hai vị Đức độ cao Tăng của Thiền tông Trung Hoa thời cận đại là Lão Hòa Thượng Hư Vân và Lão Hòa Thượng Lai Quả. Chúng ta đã không có duyên trực tiếp thọ nhận những lời dạy từ hai Ngài nhưng qua thơ của Hư Công và Lai Công gởi đến cho Sư phụ, chúng ta có thể cảm thọ được phong cách và đạo hạnh của nhị Lão Hoà Thượng.
Dưới đây là một bức thơ Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi cho Ngài năm 1955:
“Độ Luân Nhân-giả huệ giám,
Hôm qua Quảng Diệu lên núi mang theo nhiều thẻ vàng lá cùng với số tiền một ngàn năm trăm HK (tiền Hồng Kông) mà Nhân-giả đã có lòng nhân ái trợ giúp. Vậy chi khoản cần thêm để hoàn thành công trình đúc tượng Phật A Di Đà mà dạo trước Nhân-giả đã phát nguyện là một ngàn hai trăm chín mươi HK. Vậy xin Nhân-giả khi nào thuận tiện, nhớ chuyển giao số còn lại này cho Quảng Diệu. Hiện nay Thiền Viện Chân Như đang tiến hành việc trùng tu và tình trạng tài chánh đã kiệt quệ, rất mong Nhân-giả phát tâm ủng hộ. Hy vọng Nhân-giả lãnh đạo Kiều bào đến núi hành hương một chuyến. Đây là sự trông mong của tôi.
Pháp Hỉ,
Hư Vân Ngày 23 tháng 5 năm 1955.
Núi Vân Cư, Chân Như Thiền Viện.”
Để phúc đáp những bức thơ cảm ơn của Đại lão Hòa Thượng Hư Vân về những đóng góp cho Tu viện ở Vân Cư, Ngài viết:
“Con đã ghi nhận mối quan tâm sâu xa của Hòa Thượng cho thế hệ mai sau. Sự khiêm cung tự coi nhẹ bản thân mình để tùy thuận chúng sanh thật là vĩ đại. Tâm từ vô biên, đạo hạnh tuyệt đối không thiên vị của Hòa Thượng đã khiến cho nhiều người hoan hỷ tự nguyện hộ pháp Ngài.”
Đang lúc Trung Hoa sắp giải phóng, Ngài viết thơ thỉnh Thiền sư Lai Quả sang Hương Cảng:
“Lai Quả Hòa Thượng từ bi,
Vì Phật pháp hiện đang thắm sâu trong huệ mạng của Ngài, nên con mong Ngài hoan hỷ hộ trì Phật pháp chính như bảo trọng thân mạng Ngài. Con hết lòng tôn kính cuộc đời bảo vệ đạo pháp của Ngài. Hiện nay Phật pháp trong thế nguy cơ, con nguyện cầu Ngài không bị tổn hại dù đến một mảy lông. Khi xưa Nhị Tổ chặt tay để cầu pháp, Lục Tổ vì bảo vệ Phật pháp nên ẩn tích trong nhóm thợ săn mười sáu năm trường. Con sẽ an tâm và không còn khắc khoải lo âu nếu Ngài noi gương các Tổ và đến Hương Cảng, xem như chuyến đi này không phải là vì sợ sệt mà chính là để bảo vệ Phật pháp và quảng độ chúng sanh
Xin nắm lấy thời cơ.
Pháp an,
An Từ cẩn bái.”
Ít lâu sau Ngài Lai Quả hồi âm:
“An Từ Đại sư quang giám,
Hôm qua tôi kính cẩn nhận được thơ của Đại sư. Một khi Đại-pháp đã được hoàn toàn hoằng hóa và hướng thượng, thì sá chi phân biệt xứ sở?
Khi thọ mạng con người chỉ còn dài khoảng mười năm, tôi dự định sẽ trở lại thế giới Ta-bà này để quảng tuyên Đạo-tràng Pháp-khí, gieo trồng lối sống Tu viện làm trường cột. Là con cháu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ cần chân thật tu hành, nào có sá chi khi phải đương đầu với ngại hiểm. Xin Ngài an tâm. Sau cùng kính chúc Ngài pháp đạo an.
Lai Quả thủ bút.”
Từ nội dung thơ của Hòa Thượng Hư Vân, chúng ta thấy rõ Ngài không quản khó nhọc, khổ tâm lo trùng tu các đạo tràng, tu viện cùng bảo hộ Tăng-đoàn. Thơ của thiền sư Lai Quả đã thể hiện ý chí vì pháp quên thân. Chính hai vị Đại Sư thiền tông này đã phục hưng Phật giáo với tinh thần đại vô úy, khiến nhiều người khâm kính.
Mục lục | Trang sau |