Thiền Sư Trung Hoa

Đời Thứ Năm Sau Lục Tổ



∗ THIỀN SƯ LƯƠNG GIỚI – Động Sơn – Khai Tổ Tông Tào Động (807-869)

Sư họ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát-nhã đến câu “vô nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý”, Sư chợt lấy tay rờ mặt hỏi thầy:

– Con có mắt, tai, mũi, lưỡi… cớ sao trong kinh nói không?

Ông thầy kinh lạ, bảo:

– Ta chẳng phải thầy của ngươi.

Ông giới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ Thiền sư Linh Mặc xin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc.

*

Sư du phương, trước yết kiến Nam Tuyền Phổ Nguyện. Gặp ngày kỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:

– Cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng?

Cả chúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa:- Đợi có bạn liền đến.

Nam Tuyền bảo:- Chú nhỏ này tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sư thưa:- Hòa thượng chớ ếm kẻ lành thành đứa giặc.

*

Kế đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:

– Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói “vô tình thuyết pháp”, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy?

Qui Sơn bảo:- Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.

Sư thưa:- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.

Qui Sơn dựng đứng phất tử, hỏi:- Hội chăng?

Sư thưa:- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.

Qui Sơn bảo: – Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói.

Sư thưa:- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?

Qui Sơn bảo:

– Ở Lễ Lăng tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau, có Đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt vị ấy là người ngươi kính trọng.

Sư bèn từ Qui Sơn thẳng đến Văn Nham.

*

Đến Vân Nham, Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?

Vân Nham bảo:- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.

Sư hỏi:- Hòa thượng nghe chăng?

Vân Nham bảo:- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.

Sư thưa:- Con vì sao chẳng nghe?

Vân Nham dựng phất tử, hỏi:- Lại nghe chăng?

Sư thưa:- Chẳng nghe.

Vân Nham bảo:

– Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp?

Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?

Vân Nham bảo:

– Đâu không thấy kinh Di-đà nói: “nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật niệm Pháp”?

Ngay câu này Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:

Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

Vô tình thuyết pháp bất tư nghì

Nhược tương nhĩ thính chung nan hội

Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.

DỊCH:

Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì

Nếu lấy tai nghe trọn khó hội

Phải đem mắt thấy mới liễu tri.

Sư thưa:- Con còn dư tập (thói quen) chưa hết.

Vân Nham hỏi:- Ngươi từng làm gì?

Sư thưa:- Thánh đế cũng chẳng làm.

Vân Nham hỏi:- Được hoan hỉ chưa?

Sư thưa:- Hoan hỉ thì chẳng không, như trong đống rác lượm được hòn ngọc sáng.

*

Sư từ Vân Nham đi nơi khác. Vân Nham hỏi:- Đi nơi nào?

Sư thưa:- Tuy lìa Hòa thượng mà chưa định chỗ ở?

Văn Nham hỏi:- Phải đi Hồ Nam chăng?

Sư thưa:- Không.

Vân Nham hỏi:- Phải đi về quê chăng?

Sư thưa:- Không.

Vân Nham hỏi:- Bao lâu trở lại?

Sư thưa:- Đợi Hòa thượng có chỗ ở thì trở lại.

Vân Nham bảo:- Từ đây một phen đi khó được thấy nhau.

Sư thưa:- Khó được chẳng thấy nhau.

Sắp đi, Sư lại thưa:

– Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi “tả được hình dáng của Thầy chăng”, con phải đáp làm sao?

Vân Nham lặng thinh hồi lâu, bảo: – Chỉ cái ấy.

Sư trầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo:

– Xà-lê Lương Giới thừa đương việc lớn phải xét kỹ.

Sư vẫn còn hồ nghi.

*

Sau, Sư nhân qua suối nhìn thấy bóng, đại ngộ ý chỉ trước, liền làm một bài kệ:

Thiết kỵ tùng tha mích

Điều điều dữ ngã sơ

Ngã kim độc tự vãng

Xứ xứ đắc phùng cừ.

Cừ kim chánh thị ngã

Ngã kim bất thị cừ

Ưng tu nhậm ma hội

Phương đắc khế như như.

DỊCH:

Rất kỵ tìm nơi khác

Xa xôi bỏ lảng ta,

Ta nay riêng tự đến

Chỗ chỗ đều gặp va.

Va nay chính là ta

Ta nay chẳng phải va

Phải nên như thế hội

Mới mong hợp như như.

Sư đến Phần Đàm yết kiến Thủ tọa Sơ. Thủ tọa dạy chúng có câu:

Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

Phật giới, đạo giới bất tư nghì.

DỊCH

Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

Phật giới, đạo giới chẳng nghĩ nghì.

Sư hỏi:

– Phật giới, đạo giới chẳng hỏi, người nói Phật giới đạo giới là gì? Chỉ xin nói một câu?

Thủ tọa làm thinh không đáp. Sư giục:- Sao chẳng nói mau?

Thủ tọa bảo:- Nói chẳng được.

Sư thưa:- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà “nói chẳng được”?

Thủ tọa cũng không đáp. Sư thưa:- Phật với đạo chỉ là danh tự, sao chẳng dẫn kinh.

Thủ tọa hỏi:- Kinh nói thế nào?

Sư thưa:- Được ý quên lời (đắc ý vong ngôn).

Thủ tọa bảo:- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành bệnh.

Sư thưa:- Nói Phật giới, đạo giới bệnh lớn nhỏ?

Thủ tọa không đáp được, sáng hôm sau tịch. Thời nhân gọi Sư là hỏi chết Thủ tọa.

*

Đến cuối niên hiệu Đại Trung đời Đường (khoảng 840 TL), Sư trụ núi Tân Phong tiếp dẫn học chúng, về sau giáo hóa thạnh hành ở Động Sơn thuộc Dự Chương Cao An.

Một hôm, nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng hỏi:

– Hòa thượng ở chỗ Tiên sư được chỉ dạy gì?

Sư đáp:- Tuy ở trong ấy mà chẳng nhờ Tiên sư chỉ dạy.

Tăng hỏi:- Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết trai cúng dường làm gì?

Sư bảo:- Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại Tiên sư.

Tăng hỏi:

– Hòa thượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vì sao lại thiết trai cúng dường Vân Nham?

Sư bảo:

– Ta chẳng trọng Tiên sư đạo đức, cũng chẳng vì Phật pháp, chỉ trọng chẳng vì ta nói phá.

Sau, Sư quyền khai Ngũ vị để giáo hóa học đồ. Ngũ vị là:

1) Chánh trung thiên.

2) Thiên trung chánh.

3) Chánh trung lai.

4) Thiên trung chí.

5) Kiêm trung đáo.

Có bài tụng ngũ vị:

Chánh trung thiên

Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền

Mạc quái tương phùng bất tương thức

Ẩn ẩn du hoài cựu nhựt hiềm.

Thiên trung chánh

Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh

Phân minh địch diện biệt vô chân

Hưu cánh mê đầu du nhận ảnh.

Chánh trung lai

Vô trung hữu lộ cách trần ai

Đản năng bất xúc đương kim húy

Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.

Thiên trung chí

Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị

Hảo thủ du như hỏa lý liên

Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí

Kiêm trung đáo

Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa

Nhân nhân tận dục xuất thường lưu

Chiết hiệp hoàn qui khôi lý tọa.

DỊCH

Chánh trung thiên

Đêm tối canh ba trăng rọi hiên

Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết

Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.

Thiên trung chánh

Mất sáng lão bà tìm cổ kính

Rõ ràng đối diện đâu riêng chân

Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.

Chánh trung lai

Đường cái trong không cách trần ai (bụi bặm)

Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ

Đã thăng tiền triều cắt lưỡi tài.

Thiên trung chí

Hai kiếm đua nhau cần gì tránh

Tay khéo vẫn như lò lửa sen

Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí

Kiêm trung đáo

Chẳng rơi không, có ai dám hòa

Người người trọn muốn vượt dòng thường

Tan hiệp trở về ngồi trong tro.

[Đại ý Ngũ vị: Chánh là chỉ cho Thể, Không, Lý. Thiên là chỉ cho Dụng, Sắc, Sự.

Chánh trung thiên: Chánh vị thể có đủ thiên vị dụng sự tướng. Cái hay đủ là thể, cái bị đủ là dụng. Cho nên lấy cái thể hay đủ định làm quân vị (vị vua). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về vị quân. Người tu mới nhận được dụng đủ nơi thể, sự trong lý, là vị tu hành hữu vi. Về ngũ vị công huân nó thuộc vị thứ nhất. Phối hợp vị thứ của Đại thừa thì cùng vị Tam hiền trước thập địa tương đương.

Thiên trung chánh: Thiên vị dụng có đủ chánh vị thể. Nhân cái dụng hay đủ, định là Thần vị (vị tôi). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về thần vị. Trên phương diện tu hành mà luận, người tu nhận được lý đủ nơi sự, thể sẵn trong dụng, là vị liễu đạt được lý các pháp đều không, chỉ một chân như bình đẳng. Đứng về mặt Đại thừa là kiến đạo.

Chánh trung lai: Các pháp hữu vi như lý tùy duyên, như tánh duyên khởi. Là vị quân thị thần (vua xem tôi) vậy. Người tu nơi đây như lý tu sự, như tánh khởi hành, cùng với pháp thân Bồ-tát từ sơ địa đến thất địa tu hành còn dụng công, tương đương.

Thiên trung chí: Sự dụng toàn hợp nơi thể, trở về vô vi. Tức là vị thần hướng quân (tôi nhằm vào vua). Người tu đến đây trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳng thấy dụng công. Là tương đương với hàng Bồ-tát từ bát địa đến thập địa, trong vị tu đạo vô công dụng.

Kiêm Trung đáo: Thể dụng đồng đến, sự lý cùng hành. Tức là vị quân thần hiệp (vua tôi hiệp) vậy. Là Phật quả tột cùng tối thượng.

Theo Tào Sơn giải: Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có muôn hình tượng. Chánh Trung thiên, bỏ lý theo sự. Thiên Trung chánh, bỏ sự về lý. Kiêm đới, thần ứng hợp các duyên, không rơi vào các cõi, chẳng phải nhiễm, tịnh, chánh, thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền, chân tông vô trước. (Tào Sơn ngũ vị Quân Thần chỉ quyết)]

*

Sư thượng đường dạy chúng:

– Khi Hướng làm sao? Khi Phụng làm sao? Khi Công làm sao? Khi Cộng Công làm sao? Khi Công Công làm sao?

Có vị Tăng đứng ra hỏi:- Thế nào là Hướng?

Sư đáp:- Khi ăn cơm thì sao?

– Thế nào là Phụng?

– Khi trái thì sao?

– Thế nào là Công?

– Khi buông cuốc thì sao?

– Thế nào là Cộng Công?

– Chẳng được sắc.

– Thế nào là Công Công?

– Chẳng chung.

Sư nói tụng:

Hướng

Thánh chúa do lai pháp đế Nghiêu

Ngự nhân dĩ lễ khúc long yêu

Hữu thời náo thị đầu biên quá

Đáo xứ văn minh hạ thánh triều.

Phụng

Tịnh tẩy nùng trang vi a thùy

Tử qui thanh lý khuyến nhân qui

Bách hoa lạc tận đề vô tận

Cánh hướng loạn phong thâm xứ đề.

Công

Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân

Đảo ky ngọc tượng sấn kỳ lân

Nhi kim cao ẩn thiên phong ngoại

Nguyệt kiểu phong thanh hảo nhật thần.

Cộng công

Chúng sanh chư Phật bất tương xâm,

Sơn tự cao hề thủy tự thâm

Vạn biệt thiên sai minh để sự

Chá cô đề xứ bách hoa tân.

Công Công

Đầu giác tài sanh dĩ bất kham

Nghĩ tâm cầu Phật hão tu tàm

Điều điều không kiếp vô nhân hức

Khẳng hướng nam tuần ngũ thập tam.

DỊCH

Hướng

Thánh chúa từng dùng pháp đế Nghiêu

Kẻ hầu theo lễ khúc long yêu

Chợ ồn có lúc đi qua thẳng

Đến chỗ văn minh mừng thánh triều.

Phụng

Tắm sạch máu me đấy là ai?

Người trong âm hưởng khuyến người về

Trăm hoa rụng hết, ca không bặt

Lại đến núi sâu hót mải mê.

Công

Hoa nở cây khô, xuân kiếp ngoại

Ngả lưng tượng ngọc, đuổi kỳ lân

Ngoài ngàn chót núi hôm nay ẩn

Trăng sáng gió lành buổi sáng tươi.

Cộng Công

Chúng sanh chư Phật nào lẫn xen

Núi tự cao chừ nước tự sâu

Ngàn sai muôn biệt sự quá rõ

Chá cô vừa hót trăm hoa cười.

Công Công

Đầu mới mọc sừng việc chẳng nên

Đem tâm cầu Phật thật hư hèn

Xa xôi không kiếp nào ai biết

Chịu hướng về nam năm mươi ba

*

Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) bửa củi, bèn bó một bó củi ném trước mặt Sư.

Sư hỏi:- Nặng nhiều ít?

Tuyết Phong thưa:- Người khắp trên mặt đất chung giở không nổi.

Sư hỏi:- Sao đem đến đây được?

Tuyết Phong đáp không được.

*

Có vị Tăng hỏi:

– “Luôn luôn siêng lau chùi”, vì sao không được y bát? Chẳng biết người nào nên được?

Sư bảo:- Người không vào cửa được.

Tăng thưa:- Vả như người không vào cửa lại được hay không?

Sư bảo:

– Tuy nhiên như thế, chẳng được, chẳng cùng kia từ chối. Nói thẳng rằng “xưa nay không một vật”, vẫn chưa nên được y bát kia. Ngươi hỏi người nào nên được, nơi đây nên có một chuyển ngữ, hãy nói có chuyển ngữ gì?

Tăng nói đến chín mươi sáu chuyển ngữ mà chưa khế hợp, một chuyển ngữ sau rốt mới khế hợp ý Sư. Sư bảo:

– Xà-lê sao không nói chuyển ngữ ấy trước?

*

Có vị Tăng hỏi:

– Bình thường Thầy dạy chúng con đi đường chim (điểu đạo), chưa biết thế nào là đường chim?

Sư bảo:- Chẳng gặp một người.

Tăng thưa:- Thế nào là đi?

Sư bảo:- Phải ngay dưới chân không việc khác.

Tăng thưa:- Như đi đường chim, phải là “bản lai diện mục” chăng?

Sư bảo:- Xà-lê nhân đâu mà điên đảo?

Tăng thưa:- Chỗ nào là con điên đảo?

Sư bảo:- Nếu không điên đảo vì sao lại nhận giặc làm con?

Tăng thưa:- Thế nào là bản lai diện mục?

Sư bảo:- Chẳng đi đường chim.

*

Ban đêm tham vấn mà không thắp đèn. Có vị Tăng ra thưa hỏi xong thối lui. Sư bảo thị giả thắp đèn và gọi vị Tăng vừa thưa hỏi đến. Vị Tăng ấy ra đến gần Sư, Sư bảo:

– Lấy hai ba lượng phấn đến cho Thượng tọa này.

Vị Tăng ấy phủi áo trở lui. Từ đây tỉnh giác bèn đem tất cả y và dụng cụ cho hết, thiết trai cúng dường.

Đến ba năm sau vị Tăng ấy đến từ giã Sư, Sư bảo:

– Đi vui vẻ!

Lúc đó, Tuyết Phong đứng hầu, hỏi Sư:

– Vị Tăng này từ giã bao lâu sẽ trở lại?

Sư bảo:

– Y chỉ biết một lần đi, mà không biết trở lại.

Vị Tăng ấy về nhà tăng đến chỗ để y bát, ngồi tịch. Tuyết Phong đến báo tin cho Sư. Sư bảo:

– Tuy nhiên như thế, so với lão tăng vẫn còn ba đời.

*

Sư thượng đường dạy chúng:

– Lại có người không đền đáp bốn ân ba cõi chăng?

Chúng đều không đáp, Sư lại bảo:

– Nếu chẳng thể nhận ý này, làm sao vượt khỏi hoạn trước sau. Hẳn phải tâm tâm chẳng chạm vật, bước bước không chỗ nơi, thường không gián đoạn mới được tương ưng. Cần phải nỗ lực, chớ nhàn rỗi qua ngày!

*

Tào Sơn Bổn Tịch đến từ Sư, Sư bèn phó chúc:

– Ta ở chỗ Tiên sư Vân Nham thân được ấn chứng “Bảo cảnh tam-muội” là yếu chỉ cùng tột, nay phó chúc cho ngươi. Lời rằng:

Như thị chi pháp

Nhữ kim đắc chí

Ngân uyển thạnh tuyết

Loại chi phất tề

Ý bất tại ngôn

Động thành sào cựu

Bối xúc câu phi

Đản hình văn thể

Dạ bán chánh minh

Vị vật tác tắc

Tuy phi hữu vi

Như lâm Bảo cảnh

Nhữ bất thị cừ

Như thế anh nhi

Bất khứ bất lai

Bà bà hòa hòa

Chung bất đắc vật

Trùng ly lục hào

Điệp nhi vi tam

Như trị thảo vị

Chánh trung diệu hiệp

Thông tông thông đổ

Thố nhiên tắc cát

Thiên chân nhi diệu

Nhân duyên thời tiết

Tế nhập vô gian

Phật Tổ mật phó

Nghi thiện bảo hộ.

Minh nguyệt tàng lộ

Hỗn tắc tri xứ.

Lai cơ diệc phó

Sai lạc cố trữ.

Như đại hỏa tụ

Tức thuộc nhiễm ô.

Thiên hiểu bất lộ

Dụng bạt chư khổ.

Bất thị vô ngữ

Hình ảnh tương đổ.

Cừ chánh thị nhữ

Ngũ tướng hoàn cụ.

Bất khởi bất trụ

Hữu cú vô cú.

Ngữ vị chánh cố

Thiên chánh hồi hỗ.

Biến tận thành ngũ

Như kim cang Sử.

Sao xướng song cử.

Hiệp đới hiệp lộ

Bất khả phạm ngỗ.

Bất thuộc mê ngộ

Tịch nhiên chiêu trước.

Đại tuyệt phương sở

Hào hốt chi sai

Bất ưng luật lữ.

Kim hữu đốn tiệm

Duyên lập tông thú

Tông thú phân hỷ

Tức thị qui củ.

Thông thông thú cực

Chân thường lưu chú

Ngoại tịch trung diêu

Hệ câu phục thử.

Tiên Thánh bi chi

Vị pháp đàn độ

Tùy kỳ điên đảo

Dĩ tri vi tố.

Điên đảo tưởng diệt

Khẳng tâm tự hứa

Yếu hiệp cổ triệt

Thỉnh quân tiền cổ.

Phật đạo thùy thành

Thập kiếp quán thọ

Như hổ chi khuyết

Như mã chi chú.

Dĩ hữu hạ liệt

Bảo kỷ trân ngự

Dĩ hữu kinh dị

Ly nô bạch cổ.

Nghệ dĩ xảo lực

Xạ trúng bách bộ

Tiên phong tương trị

Xảo lực hà dư.

Mộc nhân phương ca

Thạch nữ khởi vũ

Phi tình thức đáo

Ninh dung tư lự.

Thần phụng ư quân

Tử thuận ư phụ

Bất thuận phi hiếu

Bất phụng phi phụ.

Tiềm hành mật dụng

Như ngu như lỗ

Đản năng tương tục

Danh chủ trung chủ.

DỊCH

Pháp như thế ấy

Phật Tổ thầm trao

Nay ngươi được đó

Nên khéo giữ gìn.

Chén bạc đựng tuyết

Trăng sáng che cò

Loại đó chẳng đồng

Lẫn thì biết chỗ.

Ý chẳng ở lời

Cơ đến cũng đến

Động thành hang ổ

Sai rơi đoái giữ.

Tránh chạm đều lỗi

Như đống lửa lớn

Chỉ bày màu vẻ

Liền thuộc nhiễm ô.

Nửa đêm sáng tỏ

Trời sáng chẳng bày

Vì vật làm phép

Dùng nhổ các khổ.

Tuy chẳng hữu vi

Chẳng phải không nói

Như đến gương báu

Hình bóng thấy nhau.

Ngươi chẳng phải y

Y chính là ngươi

Như trẻ trong nôi

Năm tướng đầy đủ.

Chẳng đi chẳng lại

Chẳng dậy chẳng đứng

Tu oa! Tu oa!

Có câu không câu

Trọn chẳng được vật

Lại lìa sáu hào

Chồng chất làm ba

Như vị cô trị

Chánh trung khéo gộp

Thông tông thông đồ

Yên lặng thì tốt

Thiên chân mà diệu

Thời tiết nhân duyên

Nhỏ vào chẳng hở

Sai trong mảy may

Nay có đốn tiệm

Tông thú phân vậy

Tông không thú tột

Ngoài yên trong loạn

Thánh trước thương đó

Tùy kia điên đảo

Tưởng điên đảo diệt

Cốt hiệp vết xưa

Phật đạo sắp thành

Như hang của cọp

Do có thấp kém

Do có sợ hãi

Nghề do sức kéo

Tên nhọn sắp chạm

Người gỗ vừa ca

Tình thức chẳng đến

Thần phụng nơi vua   

Vì lời chưa rõ.

Thiên chánh hồi hỗ

Biến khắp thành năm

Như sử Kim Cang.

Nhịp xướng đồng cử

Gộp hẹp gộp rộng

Chẳng nên phạm nghịch.

Chẳng thuộc mê ngộ

Lặng lẽ rành rõ.

Lớn tột chỗ nơi

Chẳng hợp luật lữ.

Duyên lập tông thú

Tức là qui củ

Chân thường trôi chảy.

Cột ngựa dẹp chuột

Vì làm pháp thí.

Lấy nâu làm trắng

Là tâm tự nhận.

Xin xem xưa trước

Mười kiếp quán cây.

Như trạm của ngựa

Bàn báu xe quí.

Mèo nhà bò trắng

Trăm bước bắn trúng.

Sức khéo làm gì?

Gái đá đứng múa

Đâu cho suy nghĩ.

Con thuận nơi cha

Không thuận chẳng hiếu

Không phụng chẳng phụ.

Làm thầm dụng kín

Chỉ hay tiếp nối  

Như ngu như ngốc

Gọi chủ trong chủ.

*

Sư lại bảo: Thời đại mạt pháp người nhiều càn tuệ, nếu cần nghiệm rõ chân ngụy có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy). Một là kiến sấm lậu, căn cơ không rời địa vị, rơi trong biển độc. Hai là tình sấm lậu, dính mắc tại xoay về và bỏ đi, chỗ thấy chênh lệch khô khan. Ba là ngữ sấm lậu, giỏi nghiên cứu, mất chân tông, căn cơ mờ mịt trước sau, trí ô trọc trôi chảy. Đối ba thứ này, ngươi phải khéo biết.

Sư lại làm ba bài kệ cương yếu:

1.- Sao xướng câu hành

Kim châm song tỏa bị

Hiệp lộ ẩn toàn cai

Bảo ấn đương phong diệu

Trùng trùng cẩm phùng khai.

2.- Kim tỏa huyền lộ

Giáo hỗ minh trung ám

Công tề chuyển giác nan

Lực cùng vong tiến thối

Kim tỏa võng man man.

3.- Bất đọa phàm thánh

Sự lý câu bất thiệp

Hồi chiếu tuyệt u vi

Bối phong vô xảo chuyết

Điện hỏa thước nan trung.

DỊCH

1.- Nhịp xướng đồng hành

Chìa vàng hai khóa đủ

Ẩn bày thảy bao trùm

Ấn báu tài chống gió

Lụa gấm đứt đường khâu

2.- Lưới vàng bủa đường huyền

Lẫn nhau sáng trong tối

Chuyển giác khó, công bằng

Sức tột quên lui tới

Lưới vàng bủa khắp nơi

3.- Chẳng rơi phàm thánh

Sự lý đều chẳng mắc

Soi lại bặt u vi

Trái gió không khéo vụng

Điện chớp khó theo tầm.

Sư lại làm kệ rằng:

Đạo vô tâm hiệp nhân

Nhân vô tâm hiệp đạo

Dục thức cá trung ý

Nhất lão nhất bất lão.

DỊCH

Đạo không tâm hợp người

Người không tâm hợp đạo

Muốn biết ý trong đó

Một già một chẳng già.

*

Sư bệnh, sai Sa-di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa-di:

– Vân Cư hoặc hỏi Hòa thượng an vui chăng, ngươi chỉ nói “con đường Vân Nham sắp dứt”. Ngươi nói xong phải đứng xa, e y đánh ngươi.

Sa-di lãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánh một gậy.

*

Sắp viên tịch, Sư bảo chúng:

– Ta có tiếng tăm ở đời, người nào vì ta trừ được?

Cả chúng đều không đáp được, lúc đó ông Sa-di ra thưa:

– Xin pháp hiệu Hòa thượng.

Sư bảo:- Tiếng tăm của ta đã hết.

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?

Sư đáp:- Có.

Tăng thưa:- Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?

Sư bảo:- Lão tăng xem y có phần.

Tăng thưa:- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?

Sư bảo:- Khi Lão tăng xem chẳng thấy có bệnh.

Sư lại hỏi Tăng:

– Lìa cái thân hình hài rỉ chảy này, ngươi đến chỗ nào cùng ta thấy nhau?

Tăng không đáp được

Sư bèn làm bài kệ:

Học giả hằng sa vô nhất ngộ

Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ

Dục đắc vong hình dẫn tung tích

Nỗ lực ân cần không lý bộ.

DỊCH

Kẻ học hằng sa ngộ mấy người

Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi

Muốn được quên thân bặt dấu vết

Nỗ lực trong không bước ấy ngươi.

Sư sai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư chợt mở mắt bảo:

– Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?

Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyến mến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũng tùng chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: – Tăng-già không việc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.

Sư vào trượng thất ngồi yên mà tịch.

Bấy giờ là tháng ba năm thứ mười niên hiệu Hàm Thông nhà Đường (869). Sư thọ sáu mươi ba tuổi, được bốn mươi hai tuổi hạ. Vua sắc phong là Ngộ Bổn Thiền sư.

∗ THIỀN SƯ TĂNG MẬT (?-?)

Sư ở chỗ Nam Tuyền đến phiên đập sợi. Nam Tuyền thấy hỏi:

– Làm gì?

Sư đáp:- Đập sợi.

Nam Tuyền hỏi:- Ông lấy tay đập hay chân đập?

Sư thưa:- Thỉnh Hòa thượng nói hộ.

Nam Tuyền bảo:

– Hãy ghi nhớ rõ ràng đợi sau gặp người tác gia sáng mắt đem ra hỏi lại.

*

Sư cùng Động Sơn (Lương Giới) qua suối. Động Sơn bảo:

– Chớ lầm hạ chân.

Sư bảo:- Lầm tức qua chẳng được.

Động Sơn bảo:- Việc chẳng lầm thì sao?

Sư bảo:- Cùng Trưởng lão qua suối.

*

Một hôm, Sư cùng Động Sơn đi cuốc cỏ trong vườn trà. Động Sơn ném cây cuốc xuống đất bảo:

– Hôm nay tôi mệt không còn một chút khí lực.

Sư bảo:- Nếu không khí lực cái gì còn nói được?

Động Sơn bảo:- Huynh sẽ bảo có khí lực là phải chăng?

*

Sư cùng Động Sơn đi núi, chợt thấy một con thỏ bạch chạy qua. Sư khen:

– Giỏi thay!

Động Sơn hỏi:- Cái gì?

Sư bảo:- Đại sĩ bạch y bái tướng.

Động Sơn nói:

– Lão lão đại đại tác gia cá thuyết thoại. (Lớn lớn già già nói ra lời ấy.)

Sư hỏi:- Huynh thì sao?

Động Sơn nói:- Bậc trâm anh thời xưa tạm thời mất hồn.

*

Sư may đồ. Động Sơn thấy, hỏi:- Việc may đồ thế nào?

Sư bảo:- In tuồng may may.

Động Sơn bảo:

– Hai mươi năm đồng hành, nói ra lời ấy đâu có được công phu.

Sư hỏi:- Huynh nói sao?

Động Sơn nói:- Đạo lý này như đại địa phát hỏa.

Sư hỏi:

– Chỗ trí thức đã thông, sao chẳng đi qua lối tắt, thỉnh huynh một lời?

Động Sơn bảo:- Sư bá ý đâu được chấp công.

Sư nhân đây đốn giác, lời nói phi thường.

*

Sư cùng Động Sơn qua cây cầu khỉ, Động Sơn qua trước rồi, giở cây cầu lên bảo:

– Qua đây! Qua đây!

Sư gọi:- Xà-lê Giới!

Động Sơn bèn hạ cây cầu xuống.

*

Bùi Hưu hỏi chúng Tăng:- Cúng dường Phật có đến ăn chăng?

Chúng Tăng đáp:- Như Đại phu tế gia thần.

Bùi Hưu đem câu này đến hỏi Vân Nham. Vân Nham đáp:

– Có bao nhiêu thức ăn đồng thời đem đến.

Vân Nham lại hỏi Sư:- Đồng thời đem đến sau làm gì?

Sư đáp:- Sau dậy trã, bát.

Vân Nham gật đầu.

*

Sau, Sư về trụ tại Thần Sơn thuộc Đàm Châu. Có vị Tăng đến hỏi:

– Thế nào không có chỗ nghe mới là nghe kinh?

Sư bảo:- Ghét hội chăng?

Tăng thưa:- Cần hội.

Sư bảo:- Chưa hiểu nghe kinh.

Tăng hỏi:- Tại sao Nhất địa chẳng thấy Nhị địa?

Sư bảo:- Ông chẳng lầm ư? Ông là địa nào?

*

Có một Cư sĩ hỏi:- Vì việc sanh tử xin Thầy một lời.

Sư bảo:- Ngươi khi nào sanh tử?

Cư sĩ thưa:- Con chẳng hội, thỉnh Thầy nói.

Sư bảo:- Chẳng hội cần một chỗ chết đi.

∗ THIỀN SƯ KHÁNH CHƯ – Thạch Sương (806-888)

Sư họ Trần quê ở Tân Cam, Lô Lăng. Năm mười ba tuổi, Sư theo Thiền sư Thiệu Loan xuất gia, hai mươi ba tuổi đến Tung Nhạc thọ giới Cụ túc, sang Đông Lạc học luật. Tuy học luật, Sư vẫn biết là Tông tiệm. Sư lại sang Đại Qui, vào pháp hội làm mễ đầu (tri khố).

*

Một hôm, Sư ở trong liêu sàng gạo, Qui Sơn (Linh Hựu) đến bảo:

– Vật của thí chủ chớ ném bỏ.

Sư thưa:- Chẳng dám ném bỏ.

Qui Sơn lượm trên đất một hạt gạo, bảo:

– Ngươi nói chẳng ném bỏ, cái này từ đâu đến?

Sư lặng câm. Qui Sơn lại bảo:

– Chớ khi một hạt này, trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh.

Sư thưa:

– Trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh, chưa biết một hạt này từ chỗ nào sanh?

Qui Sơn cười hả hả trở về phương trượng.

Đến chiều, Qui Sơn thượng đường bảo chúng:

– Đại chúng! Trong gạo có sâu.

*

Sư đến tham Đạo Ngô, hỏi:- Thế nào chạm mắt là Bồ-đề?

Đạo Ngô gọi:- Sa-di!

Sa-di ứng thanh:- Dạ!

Đạo Ngô bảo:- Thêm nước trong tịnh bình.

Đạo Ngô lại hỏi Sư: – Ông vừa nói cái gì?

Sư thuật lại câu hỏi trước. Đạo Ngô đứng dậy đi. Sư nhân đây tỉnh giác.

*

Đạo Ngô bảo chúng: – Ta đau gần muốn chết, bởi trong tâm có một vật để lâu thành bệnh, người nào hay vì ta dẹp nó?

Sư thưa:- Tâm vật đều phi, dẹp đó thêm bệnh.

Đạo Ngô khen:- Hiền thay! Hiền thay!

Làm Tăng mới được hai tuổi hạ, Sư bèn ẩn trong dân gian, vào xóm thợ gốm vùng Lưu Dương, Trường Sa, sáng sớm dạo đi, đến chiều trở về, mọi người không biết được Sư.

Nhân một vị Tăng từ Động Sơn đến. Sư hỏi:

– Hòa thượng có lời gì dạy chúng?

Tăng đáp:

– Hôm giải hạ, Hòa thượng thượng đường dạy: “Đầu thu cuối hạ, huynh đệ hoặc đi đông đi tây, đi nên đi thẳng đến chỗ muôn dặm không có một tấc cỏ, đi làm gì?”

Sư hỏi:- Có người đáp được chăng?

Tăng nói:- Không.

Sư bảo:- Sao chẳng nói “ra khỏi cửa liền là cỏ”.

Tăng trở về thuật lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn bảo:

– Ở Lưu Dương có cổ Phật.

*

Chúng thỉnh Sư trụ trì tại núi Thạch Sương, Sư cũng cho đây là nơi hợp với chí mình.

Đạo Ngô sắp viên tịch giải tán chúng, tìm đến Thạch Sương, lấy Sư làm Trưởng tử. Sư hằng ngày chuyên cần hầu hạ, giữ đúng tư cách thờ thầy. Sau khi Đạo Ngô qui tịch, học chúng qui tụ thường trên năm trăm.

*

Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?

Sư đáp:- Trong không, một phiến đá.

Tăng lễ bái. Sư hỏi:- Hội chăng?

Tăng thưa:- Chẳng hội.

Sư bảo:- May! Ngươi chẳng hội, nếu hội ngươi đã bị vỡ đầu.

*

Sư ở trong phương trượng, có vị Tăng ở ngoài song hỏi:

– Cách nhau mấy tấc, vì sao chẳng thấy mặt Thầy?

Sư đáp:- Ta nói khắp hết chẳng từng giấu.

Vị Tăng ấy đến hỏi Tuyết Phong:

– Khắp hết chẳng từng giấu, ý chỉ thế nào?

Tuyết Phong đáp:- Chỗ nào chẳng phải Thạch Sương.

Vị Tăng trở lại thuật lời Tuyết Phong cho Sư nghe. Sư bảo:

– Cái lão này sao mà chết gấp.

Tuyết Phong nghe lời này, tự nói:- Lão tăng tội lỗi.

*

Vân Cái đến hỏi:

– Muôn cửa đều đóng chẳng hỏi, khi muôn cửa đều mở thì thế nào?

Sư đáp:- Trong nhà làm việc gì?

Cái đáp:- Không người tiếp được y.

Sư bảo:- Nói đến tột chỗ nói, chỉ nói được tám chín phần.

Cái hỏi:- Chẳng biết Hòa thượng nói thế nào?

Sư đáp:- Không người biết (tiếp) được y.

*

Tú tài Trương Chuyết đến tham vấn, Sư hỏi:- Tú tài tên họ gì?

Tú tài thưa:- Tôi họ Trương tên Chuyết.

Sư bảo:

– Tìm cái xảo (khéo) còn không thể được, cái Chuyết (vụng) từ đâu lại?

Chuyết chợt tỉnh ngộ, trình kệ:

Quang minh tịch chiếu biến hà sa

Phàm thánh hàm linh cộng ngã gia.

Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện

Lục căn tài động bị vân già.

Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh

Thú hướng chân như diệc thị tà.

Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại

Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.

DỊCH

Quang minh lặng chiếu khắp hà sa

Phàm thánh hàm linh vốn chung nhà.

Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện

Sáu căn vừa động bị che lòa.

Phá trừ phiền não càng thêm bệnh

Tìm đến chân như âu cũng tà.

Tùy thuận các duyên không chướng ngại.

Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.

*

Bùi tướng công đến. Sư nắm giở cái hốt của Bùi Công hỏi:

– Cái này ở trong tay Thiên tử gọi là Khuê, ở trong tay quan nhân gọi là Hốt, ở trong tay lão tăng gọi nó là gì?

Bùi Công lặng câm. Sư giữ cái hốt lại.

*

Sư dạy chúng:

– Kẻ sơ học chưa gặp được việc lớn, trước phải nhận ra đầu thì đuôi tự đến. Sơ Sơn hỏi:

– Thế nào là đầu?

Sư đáp:- Phải thẳng biết có.

– Thế nào là đuôi?

– Dẹp hết hiện giờ.

– Khi có đầu không đuôi thì sao?

– Mửa được vàng ròng kham làm việc gì?

– Khi có đuôi không đầu thì sao?

– Vẫn còn nương tựa.

– Khi đầu đuôi được cân xứng thì sao?

– Y chẳng khỏi giải hội, cũng chưa cho y ở.

*

Sư ở Thạch Sương hai mươi năm, học chúng thường ngồi chẳng nằm, ngồi thẳng như gốc cây. Thời nhân gọi là “chúng cây khô”.

Vua Đường Hiến Tông nghe đạo hạnh của Sư, sai sứ đem tử y ban cho.

Sư cố từ chối không nhận.

*

Niên hiệu Quang Khải năm thứ tư (889 TL), ngày hai mươi tháng hai năm Mậu Thân, Sư có chút ít bệnh, báo tin chúng hay sắp tịch, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi chín tuổi hạ.

Vua sắc phong là Phổ Hội Đại sư, tháp hiệu Kiến Tướng.

∗ THIỀN SƯ ĐẠI ĐỒNG – Núi Đầu Tử (819-914)

Sư họ Lưu người Hoài Ninh, Châu Thơ. Thuở bé, Sư xuất gia với Thiền sư Mãn ở Bảo Đường. Ban đầu, Sư tập quán hơi thở, kế xem kinh Hoa Nghiêm phát minh Tánh hải, lại đến núi Thúy Vi nơi hội của Thiền sư Vô Học tham vấn và được thâm ngộ.

Một hôm Sư hỏi:- Thế nào là Phật lý?

Thiền sư Vô Học đáp:- Phật tức chẳng lý.

– Chẳng rơi vào không chăng?

Thiền sư Vô Học lại dùng bài kệ sấm ký rằng:

Phật lý hà tằng lý

Chân không hựu bất không.

Đại Đồng cư tịch trụ

Phu diễn ngã sư tông.

DỊCH

Phật lý đâu từng lý

Chân không lại chẳng không.

Đại Đồng ở tịch trụ

Bày diễn đạo cha ông.

Sau, Sư về ở ẩn tại núi Đầu Tử cất am tranh tên Tịch Trụ.

*

Một hôm, Triệu Châu Tùng Thẩm đến huyện Đồng Thành, Sư cũng có việc xuống núi, giữa đường hai người gặp nhau mà không biết nhau. Triệu Châu hỏi thăm những người cư sĩ biết là Đầu Tử, liền nghịch rằng:

– Phải chủ núi Đầu Tử chăng?

Sư đáp:- Cho tôi xin tiền trà muối.

Triệu Châu đi thẳng đến am trước, ngồi chờ. Sư mang một bình dầu về am.

Triệu Châu hỏi:

– Nghe danh Đầu Tử đã lâu, đến đây chỉ thấy ông già bán dầu.

Sư đáp:- Thầy chỉ thấy ông già bán dầu, là không biết Đầu Tử.

– Thế nào là Đầu Tử?

Sư đưa bình dầu lên đáp:-Dầu! Dầu!

*

Triệu Châu hỏi:- Khi ở trong chết được sống là thế nào?

Sư đáp:- Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến.

Triệu Châu nói:- Ta sớm là trắng, y lại là đen.

*

Từ đó, đạo hạnh của Sư đồn khắp, khách tâm đạo đua nhau kéo đến.

Sư bảo chúng rằng:

– Các ngươi đến đây nghĩ tìm ngôn ngữ hay đẹp, góp lời văn vẻ, trong miệng quí có nói ra, lão già này khí lực yếu kém, môi lưỡi chậm lụt. Nếu các ngươi hỏi ta, ta tùy câu hỏi mà đáp. Đối đáp không có gì huyền diệu có thể kịp được ngươi, cũng không dính gì đến tai ngươi. Trọn không nói hướng thượng hướng hạ, có Phật có Pháp, có phàm có thánh. Trong chỗ các ngươi bị trói buộc, biến hiện ngàn thứ, thảy đều khiến các ngươi sanh hiểu rồi tự mang gánh lấy, sau này tự làm tự chịu. Trong ấy không có gì cho các ngươi, chẳng dám lừa dối các ngươi, không ngoài không trong, có thể nói được na ná. Các ngươi lại biết chăng?

*

Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) đứng hầu, Sư chỉ một phiến đá trước am bảo:

– Chư Phật ba đời thảy ở trong ấy.

Tuyết Phong thưa:- Nên biết có cái chẳng ở trong ấy.

Sư bảo:- Chẳng thích, thùng sơn.

*

Một hôm, Tuyết Phong theo Sư đi thăm am chủ Long Miên. Tuyết Phong hỏi: “Đường Long Miên đi về phía nào?”

Sư lấy cây gậy chỉ tới trước mặt. Tuyết Phong hỏi: “Đi bên đông hay đi bên tây?”

Sư bảo: “Chẳng thích! Thùng sơn.”

*

Hôm khác, Tuyết Phong hỏi:

– Khi một chùy liền thành thì thế nào?

Sư đáp:- Chẳng phải kẻ tánh thô tháo.

– Khi chẳng nhờ một chùy thì sao?

– Chẳng thích, thùng sơn.

*

Sư ngồi trong am, Tuyết Phong hỏi: “Hòa thượng độ này có người tham vấn chăng?”

Sư với lấy cây cuốc dưới sàn ném trước mặt Tuyết Phong. Tuyết Phong thưa: “Thế ấy, chính chỗ này cuốc đi.”

Sư bảo: “Chẳng thích, thùng sơn.”

*

Tuyết Phong từ ra đi, Sư tiễn ra cửa, liền gọi: “Đạo giả!”

Tuyết Phong ngoái đầu lại: “Dạ!”

Sư bảo: “Đi đường vui vẻ”.

*

Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Trẻ con mới sanh có đủ sáu thức chăng?”

Triệu Châu đáp: “Trên dòng nước chảy xiết, đá cầu.”

Sau, vị Tăng ấy đến hỏi Sư: “Trên dòng nước chảy xiết, đá cầu, ý nghĩa thế nào?”

Sư đáp:

– Niệm niệm chẳng tạm dừng.

*

Có vị Tăng hỏi Sư:- Cũng đồng là nước, tại sao ở biển mặn, ở sông lạt?

Sư đáp:- Trên trời sao, dưới đất cây.

– Hòa thượng lâu nay ở đây có cảnh giới gì?

– Bé gái chừa hai chỏm, đầu bạc như tơ.

– Thế nào là Tỳ-lô (pháp thân)?

– Đã có danh tự.

– Thế nào là Tỳ-lô sư (thầy Pháp thân)?

– Khi chưa có Tỳ-lô, hội lấy.

– Khi bốn núi (sanh, lão, bệnh, tử) ép ngặt làm thế nào?

– Năm uẩn đều không.

– Khi một niệm chưa sanh là thế nào?

– Thật là lời nói dối.

– Trên trời dưới trời chỉ ta là hơn hết, thế nào là ta?

– Xô té ông già Hồ (Phật) có lỗi gì?

– Thế nào là Hòa thượng Sư?

– Đón đó chẳng thấy đầu kia, theo đó chẳng thấy hình kia.

– Khi mặt trời mặt trăng chưa sáng, Phật cùng chúng sanh ở chỗ nào?

– Thấy Lão tăng giận liền nói giận, thấy Lão tăng mừng liền nói mừng.

*

Sư hỏi một vị Tăng mới đến:- Ở đâu đến?

Tăng thưa:- Ở núi Đông núi Tây lễ Tổ sư mới đến.

Sư bảo:- Tổ sư không ở núi Đông núi Tây.

Tăng lặng câm.

*

Trà đầu (trưởng phòng trà) vào phương trượng thưa hỏi. Sư bảo:

– Hãy đi, đợi khi không người sẽ đến, ta vì xà-lê nói.

Hôm sau, Trà đầu rình đợi lúc không người đến thưa: “Thỉnh Hòa thượng nói.”

Sư bảo: “Lại gần đây.”

Trà đầu đến gần. Sư bảo: “Liền chẳng đặng nói lại cho người.”

*

Tăng hỏi:- Sư tử là vua trong loài thú, tại sao bị sáu trần nuốt?

Sư đáp:- Chẳng làm, tột không ngã nhân.

*

Sư ở núi Đầu tử hơn ba mươi năm, những Thiền khách qua lại tham vấn thường đầy cả thất. Sư dùng biện tài vô úy tùy hỏi liền đáp, ứng cơ đối đáp, lời lẽ tinh vi rất nhiều, đây lược ghi ít phần mà thôi.

*

Đời Đường niên hiệu Trung Hòa (881 TL) giặc cướp nổi dậy, dân chúng tán loạn, có bọn cuồng đồ cầm đao lên núi, hỏi Sư: “Ở đây làm gì?”

Sư tùy nghi thuyết pháp, bọn chúng nghe đều bái phục, cổi y phục cúng dường, rồi giải tán.

*

Thời Ngũ đại niên hiệu Càn Hóa năm thứ tư (914 TL) ngày mùng sáu tháng tư, Sư có chút ít bệnh. Đại chúng rước thầy thuốc.

Sư bảo chúng:

– Động tác của tứ đại họp tan là phép thường, các ngươi chớ lo, ta tự giữ lấy.

Nói xong, Sư ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Thọ chín mươi sáu tuổi, vua ban hiệu là Từ Tế Đại sư, tháp hiệu “Chân Tịch”.

∗ THIỀN SƯ THIỆN HỘI ở Giáp Sơn (741-817)

Sư họ Liêu, quê ở Hiện Đình, Quảng Châu. Lúc chín tuổi, Sư xuất gia tại núi Long Nha, Lễ Châu. Sau, Sư đến Giang Lăng tập học kinh luận, chuyên luyện tam học và gắng sức tham thiền. Sư trụ trì tại Kinh Khẩu (Lễ Châu), một hôm nhân Đạo Ngô (Viên Trí) đi đến, rồi mách Sư đến tham vấn Hoa Đình Thuyền Tử, do đó được ngộ đạo. Sư trốn ẩn nơi vắng vẻ, mà học giả vẫn tấp nập tìm đến.

*

Đời Đường niên hiệu Hàm Thông thứ 11 (870 TL), toàn chúng thỉnh Sư đến trụ tại Giáp Sơn, nơi đây liền biến thành Thiền viện.

Sư thượng đường dạy chúng:

– Từ có Tổ đến đây, người ta lầm hội, nối nhau đến nay đều lấy lời Phật, Tổ làm mô phạm dạy người. Như thế, trở thành kẻ cuồng, người vô trí rồi. Kia chỉ bày tỏ cho các ngươi: “Không pháp vốn là đạo, đạo không một pháp; không Phật có thể thành, không Đạo có thể đắc, không Pháp có thể xả.” Cho nên nói: “Trước mắt không pháp, ý tại trước mắt (mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền)”.

Kia chẳng phải là pháp trước mắt. Nếu nhằm bên Phật, Tổ mà học, người này chưa có mắt sáng, đều thuộc về pháp có chỗ nương, không được tự tại, vẫn là thức tánh sanh tử mênh mang không có phần tự do.

Ngàn muôn dặm tìm thiện tri thức, cốt có cái thấy chân chánh hằng thoát khỏi hư dối, định lấy cái sanh tử trước mắt xem là thật có hay là thật không?

Nếu có người định được lẽ này, hứa nhận ông sẽ giải thoát.

Người thượng căn ngay lời nói liền rõ đạo; kẻ căn khí bậc trung, bậc hạ chạy lăng xăng như sóng bủa. Sao chẳng nhằm trong sanh tử mà an định? Sẽ nhận lấy chỗ nào? Lại nghi Phật nghi Tổ thế cái sanh tử cho ông được sao?

Người có trí sẽ cười ông. Nghe kệ đây:

Lão trì sanh tử pháp

Duy hướng Phật biên cầu.

Mục tiền mê chánh lý

Bác hỏa mích phù âu.

DỊCH:

Nhọc gìn pháp sanh tử

Chỉ nhằm bên Phật cầu

Trước mắt lầm lý chánh

Trong lửa bọt có đâu.

Có vị Tăng hỏi:

– Từ trước lập ý Tổ và ý kinh, vì sao độ này Hòa thượng nói không?

Sư đáp:- Ba năm chẳng ăn cơm, trước mắt không người đói.

– Đã không người đói, tại sao con chẳng ngộ?

– Chỉ vì ngộ mê đuổi Xà-lê. Sư nói tụng:

Minh minh vô ngộ pháp

Ngộ pháp khước mê nhân

Trường thọ lưỡng cước thùy

Vô ngụy diệc vô chân.

DỊCH:

Rõ ràng không pháp ngộ

Pháp ngộ đuổi người mê.

Duỗi thẳng hai chân ngủ

Không ngụy cũng không chân.

*

Sư có nuôi một đạo nhỏ theo làm thị giả đã lâu; sau khi Sư dừng trụ bèn khiến đi hành khước. Ông dạo đi khắp các Thiền hội mà không có chỗ dụng tâm, nghe thầy hợp chúng dạy đạo nổi danh vang dậy. Ông bèn trở về hầu hạ, thưa:

– Hòa thượng có việc kỳ đặc như thế, tại sao trước chẳng chỉ dạy cho con?

Sư bảo:

– Ngươi nấu cơm thì ta nhóm lửa, ngươi bưng dọn thì ta giở chén, có chỗ nào mà ta cô phụ ngươi?

Ông đạo nhân đây ngộ nhập.

*

Có Đại đức đến hởi:

– Về ý kinh thì con chẳng nghi, chỉ việc trong Thiền môn là thế nào?

Sư đáp:- Lão tăng cũng chỉ biết biến sống thành chín.

– Thế nào là lý thật tế?

– Cây trên đá không rễ, núi ngậm mây chẳng động.

– Thế nào là sư tử ra khỏi hang?

– Hư không chẳng hình bóng, dưới chân mây đồng nội dậy.

*

Trong hội của Sư có một vị Tăng đi đến Thạch Sương, vào cửa liền nói: “Chẳng xét.” (bất thẩm)

Thạch Sương bảo: “Chẳng cần Xà-lê.”

Ông liền nói: “Thế ấy thì trân trọng.”

Ông lại đi đến Nham Đầu, cũng nói: “Chẳng xét.”

Nham Đầu bèn “hư! hư!”

Ông nói: “Thế ấy thì trân trọng.”

Ông vừa bước trở ra, Nham Đầu bảo: “Tuy là hậu sanh cũng khá sắp xếp.”

Ông về tường thuật cho Sư.

Hôm sau, Sư lên tòa bèn gọi:

– Vị Tăng hôm qua từ Thạch Sương, Nham Đầu về ra xem!

Vị Tăng bước ra thuật lại toàn chúng nghe. Tăng thuật xong, Sư bảo:

– Đại chúng lại hội chăng? Nếu không người nói, Lão tăng chẳng tiếc hai sợi lông mày để nói ra; Thạch Sương tuy có đao sát nhân mà không có kiếm hoạt nhân (người sống). Nham Đầu có đao sát nhân cũng có kiếm hoạt nhân.

*

Tăng hỏi:- Thế nào là cảnh Giáp Sơn?

Sư đáp:- Vượn bồng con về ngọn núi xanh. Chim ngậm hoa rơi trước đỉnh biếc.

*

Đời Đường niên hiệu Trung Hòa năm đầu (881 TL) ngày mùng bảy tháng mười một, Sư gọi Chủ sự bảo:

– Nay chất huyễn của ta khi hết liền đi, các ông khéo gìn giữ như ngày ta còn, chớ giống như người đời sinh ra buồn thảm.

Ngay đêm ấy, Sư an nhiên mà tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi. Vua phong là Truyền Minh Đại sư, tháp hiệu Vĩnh Tế.

∗ THIỀN SƯ NGHĨA HUYỀN ở Lâm Tế – khai Tổ tông Lâm Tế (?-867)

Sư hiệu Nghĩa Huyền họ Hình quê ở Nam Hoa thuộc Tào Châu. Thuở nhỏ, Sư đã có chí xuất trần, đến lớn xuất gia thọ giới cụ túc. Thường dừng các nơi giảng pháp, nghiên cứu tinh tường giới luật, thâm hiểu kinh luận, Sư than rằng: “Đây là phương thuốc cứu đời, chưa phải yếu chỉ của giáo ngoại biệt truyền.”

Sư liền đi du phương.

*

Trước nhất, Sư đến hội Hoàng Bá. Ở đây, Sư oai nghi nghiêm chỉnh, đức hạnh chu toàn. Thủ tọa (Trần Tôn Túc) thấy khen rằng: “Tuy là hậu sanh, cùng chúng chẳng giống.”

Thủ tọa bèn hỏi:

– Thượng tọa ở đây được bao lâu?

Sư thưa:- Ba năm.

– Từng tham vấn chưa?

– Chưa từng tham vấn, cũng chẳng biết tham vấn cái gì?

– Sao Thầy không đến hỏi Hòa thượng Đường đầu, thế nào là đại ý Phật pháp.

Sư liền đến hỏi, chưa dứt lời, Hoàng Bá liền đánh, Sư trở xuống, Thủ tọa hỏi:

– Hỏi thế nào?

Sư thưa:

– Tôi hỏi lời chưa dứt, Hòa thượng liền đánh, tôi chẳng hội.

– Nên đi hỏi nữa.

Sư lại đến hỏi, Hoàng Bá lại đánh. Như thế ba phen hỏi, bị ba lần đánh.

Sư đến bạch Thủ tọa:

– Nhờ lòng từ bi của Thầy dạy tôi đến thưa hỏi Hòa thượng, ba phen hỏi bị ba lần đánh, tôi tự buồn chướng duyên che đậy không lãnh hội được thâm chỉ. Nay xin từ giã ra đi.

– Nếu khi Thầy đi nên đến giã từ Hòa thượng rồi sẽ đi.

Sư lễ bái trở về phòng. Thủ tọa đến thất Hòa thượng trước, thưa:

– Người đến thưa hỏi ấy, thật là đúng pháp, nếu khi đến từ, Hòa thượng dùng phương tiện tiếp y, về sau đục đẽo sẽ thành một gốc đại thọ che mát người trong thiên hạ.

Sư đến từ, Hoàng Bá bảo:

– Chẳng nên đi chỗ nào khác, ngươi đi thẳng đến Cao An chỗ Thiền sư Đại Ngu, ông ấy sẽ vì ngươi nói.

*

Sư đến Đại Ngu. Đại Ngu hỏi:- Ở chỗ nào đến?

Sư thưa:- Ở Hoàng Bá đến.

– Hoàng Bá có dạy lời gì?

– Con ba phen hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh. Chẳng biết con có lỗi hay không lỗi?

– Bà già Hoàng Bá đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi?

Ngay câu nói ấy, Sư đại ngộ, thưa:

– Xưa nay Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều.

Đại Ngu nắm đứng lại, bảo:

– Con quỉ đái dưới sàng, vừa nói có lỗi không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau! nói mau!

Sư liền cho vào hông Đại Ngu ba thoi. Đại Ngu buông ra, nói:

– Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì việc của ta.

Sư từ tạ Đại Ngu trở về Hoàng Bá.

*

Hoàng Bá thấy Sư về, liền bảo:

– Kẻ này đến đến đi đi, biết bao giờ liễu ngộ.

Sư thưa:

– Chỉ vì tâm lão bà quá thiết tha, nên nhân sự đã xong, đứng hầu.

– Đến đâu về?

– Hôm trước vâng lời dạy của Hòa thượng đến tham vấn Đại Ngu trở về.

– Đại Ngu có lời dạy gì?

Sư liền thuật lại việc trước. Hoàng Bá bảo:

– Lão Đại Ngu này đã buông lời, đợi đến đây ta cho ăn đòn.

Sư tiếp:- Nói gì đợi đến, ngay bây giờ cho ăn.

Sư liền bước tới sau lưng Hoàng Bá tát một tát. Hoàng Bá bảo:

– Gã phong điên này lại đến trong ấy nhổ râu cọp.

Sư liền hét. Hoàng Bá gọi:

– Thị giả! Dẫn gã phong điên này lại nhà thiền.

*

Sư trồng tùng, Hoàng Bá hỏi:- Trong núi sâu trồng tùng làm gì?

Sư thưa:

– Một cho sơn môn làm cảnh trí, một cho người sau làm tiêu bảng.

Nói xong, Sư trở đầu cuốc đánh xuống đất ba cái. Hoàng Bá bảo:

– Tuy nhiên như thế, con đã ăn ba mươi gậy của ta rồi.

Sư lại dùng đầu cuốc đánh xuống đất ba cái, cất tiếng hư! hư! Hoàng Bá bảo:

– Tông của ta đến con rất hưng thạnh ở đời.

*

Một hôm, Sư ngồi trước Tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, liền trở về phương trượng. Sư theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu ở đó, Hoàng Bá bảo:

– Vị Tăng đây tuy là hậu sanh lại biết có việc này.

Thủ tọa thưa:

– Hòa thượng già dưới gót chân chẳng dính đất, lại chứng cứ kẻ hậu sanh.

Hoàng Bá liền vả trên miệng một cái. Thủ tọa thưa:

– Biết là được.

*

Sư ngủ trong Tăng đường, Hoàng Bá đến thấy, lấy gậy đánh bảng một tiếng. Sư ngóc đầu xem thấy Hoàng Bá liền nhắm mắt. Hoàng Bá lại đánh bảng một tiếng, lại đi đến gian trên thấy Thủ tọa ngồi thiền.

Hoàng Bá bảo:

– Gian dưới hậu sanh lại ngồi thiền, ông trong đây vọng tưởng làm gì?

Thủ tọa nói:- Ông già làm gì?

Hoàng Bá đánh bảng một tiếng, liền đi ra.

*

Một hôm, ngày công tác công cộng, Sư đi sau. Hoàng Bá ngó ngoái lại thấy Sư đi tay không bèn hỏi:- Cuốc đâu?

Sư thưa:- Có người đem đi rồi.

Hoàng Bá gọi:- Lại gần đây cùng ngươi bàn luận một việc.

Sư lại gần. Hoàng Bá dựng đứng cây cuốc bảo:

– Chỉ cái này, mọi người nắm bắt chẳng được.

Sư chụp tay giựt lấy cây cuốc, đưa lên nói:

– Tại sao lại ở trong tay của con?

Hoàng Bá nói:- Ngày nay đã có người thay công tác.

Hoàng Bá trở về viện.

*

Công tác công cộng cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến, Sư bèn dựng cuốc đứng. Hoàng Bá hỏi:

– Gã này mệt sao?

Sư thưa:- Cuốc vẫn chưa giở, mệt cái gì?

Hoàng Bá liền đánh. Sư chụp cây gậy, cho một đạp té nhào. Hoàng Bá gọi: “Duy-na! Duy-na! đỡ ta dậy.”

Duy-na chạy lại đỡ dậy nói: “Hòa thượng đâu dung được gã phong điên này!”

Hoàng Bá vừa đứng dậy, liền đánh Duy-na.

*

Sư cuốc đất nói:

– Các nơi thì hỏa táng, còn tôi một lúc chôn sống.

Sư mang thơ Hoàng Bá đến Qui Sơn. Khi ấy Ngưỡng Sơn Huệ Tịch làm Tri khách, tiếp được thơ liền hỏi:

– Cái này là của Hoàng Bá, cái kia là của người đem thơ.

Sư liền tát. Ngưỡng Sơn nắm đứng nói:

– Lão huynh biết việc ấy?

Sư liền thôi, hai người đồng đến Qui Sơn. Qui Sơn hỏi:

– Sư huynh Hoàng Bá có chúng nhiều ít?

Sư thưa:- Bảy trăm (700) chúng.

– Người nào dẫn đầu?

– Vừa đem thơ xong.

Sư lại hỏi Qui Sơn:

– Khoảng này Hòa thượng được bao nhiêu chúng?

Qui Sơn đáp:

– Một ngàn năm trăm (1500) chúng.

– Thật nhiều thay!

– Sư huynh Hoàng Bá cũng chẳng ít.

Sư từ Qui Sơn, Ngưỡng Sơn đưa ra cửa nói:

– Chỉ đi, về sau có một người phụ tá Lão huynh, người này có đầu không đuôi, có thủy không chung. (Sau, Sư đến Trấn Châu, Phổ Hóa đã có ở trước đấy. Sư khai đường giáo hóa, Phổ Hóa phụ giúp. Sư trụ chưa bao lâu, Phổ Hóa toàn thân đều thoát.)

*

Sư giữa hạ đến Hoàng Bá, thấy Hòa thượng xem kinh. Sư nói:

– Tôi sẽ bảo người ấy, xưa nay là Hòa thượng già đâm đậu đen.

Sư ở lại mấy hôm, bèn từ đi. Hoàng Bá bảo:

– Ngươi phá hạ đến, sao chẳng trọn hạ rồi đi?

Sư thưa:- Con tạm đến lễ bái Hòa thượng.

Hoàng Bá bèn đánh đuổi đi. Sư đi được mấy dặm, nghĩ việc này liền trở lại ở trọn hạ.

Một hôm, Sư từ Hoàng Bá. Hoàng Bá hỏi:- Đi đâu?

Sư thưa:- Chẳng phải Hà Nam là về Hà Bắc.

Hoàng Bá liền đánh. Sư nắm đứng, cho một tát. Hoàng Bá cười to, gọi:

– Thị giả! Đem thiền bảng kỷ án của Tiên sư Bá Trượng ra đây.

Sư gọi:- Thị giả! Đem lửa lại.

Hoàng Bá bảo:

– Tuy nhiên như thế, con vẫn đem đi; về sau ở đâu sẽ dẹp sạch ngôn ngữ của mọi người.

*

Sư đến Hòa thượng Bình ở Tam Phong. Bình hỏi:- Ở đâu đến?

Sư đáp:- Ở Hoàng Bá đến.

– Hoàng Bá có dạy lời gì?

– Đêm qua trâu vàng gặp đất tro, thẳng đến hôm nay chẳng thấy dấu. (Kim ngưu tạc dạ tao đồ thán, trực chí như kim bất kiến trung.)

– Gió vàng thổi sáo ngọc, cái gì là tri âm. (Kim phong suy ngọc quản, na cá thị tri âm.)

– Suốt thẳng muôn lớp cổng, chẳng dừng trong giữa đêm. (Trực thấu vạn trùng quan, bất trụ thanh tiêu nội.)

– Một câu hỏi của ngươi cao tột trời xanh.

– Rồng sanh con phụng vàng, vọt nát vách lưu ly. (Long sanh kim phụng tử, xung phá bích lưu ly.)

Bình bảo: “hãy ngồi uống trà,” lại hỏi: “Vừa ở đâu đến?”

Sư thưa: “Long Quang.”

Bình hỏi: “Long Quang gần đây thế nào?”

Sư liền ra đi.

*

Sư đến Phụng Lâm, Lâm hỏi:

– Có việc đem hỏi nhau được chăng?

Sư đáp:

– Đâu được khoét thịt làm thương tích.

– Trăng biển đã không bóng, cá lội đâu thể lầm? (Hải nguyệt ký vô bóng, du ngư hà đắc mê.)

– Xem gió biết sóng dậy, nhìn nước đoán buồm bay. (Quán phong tri lãng khởi, ngoạn thủy dã phàm phiêu.)

– Một vầng riêng chiếu non sông lặng, chợt cười một tiếng đất trời kinh. (Cô luân độc chiếu giang sơn tịnh, tự tiếu nhất thanh thiên địa kinh.)

– Mặc đem ba tấc soi trời đất, một câu hợp lý thử bàn xem. (Nhậm tương tam thốn huy thiên địa, nhất cú lâm cơ thức đạo khan.)

– Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ. (Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mạc hiến thi.)

Phụng Lâm liền thôi.

Sư để bài tụng:

Đại đạo tuyệt đồng

Nhậm hướng tây đông

Thạch hỏa mạc cập

Điển quang võng thông

DỊCH:

Đại đạo hẳn đồng

Mặc hướng tây đông

Đá lửa chẳng kịp

Lằn chớp không thông.

*

Đã được Hoàng Bá ấn khả, Sư tìm đến Hà Bắc ở góc nam thành Đông Trấn Châu, gần sông Hô Đà đất Lâm Tế trụ trì một viện nhỏ. Nơi đây Phổ Hóa đã ở trước.

Một hôm, Sư gọi Phổ Hóa, Khắc Phù đến bảo: “Ta muốn ở đây dựng lập Tông chỉ Hoàng Bá, hai ông hãy giúp đỡ ta.”

Hai vị trân trọng lui ra. Ba ngày sau, Phổ Hóa đến hỏi: “Ba ngày trước Hòa thượng nói gì?”

Sư liền đánh.

Ba ngày sau, Khắc Phù lại lên hỏi: “Ba ngày trước Hòa thượng đánh Phổ Hóa là sao?”

Sư cũng đánh.

*

Phủ chủ Vương Thường Thị cùng các quan thỉnh Sư đăng tòa. Sư thượng đường bảo:

– Hôm nay sự bất đắc dĩ, Sơn tăng chiều theo nhân tình mới lên tòa này.

Nếu nhằm dưới cửa Tổ tông, khen ngợi việc lớn, hẳn là mở miệng chẳng đặng, không có chỗ các ông để chân. Hôm nay, do Thường Thị cố thỉnh, Sơn tăng tạm ẩn cương tông. Trong đây nếu có tác gia (bậc minh sư) chiến tướng liền xổ cờ bày trận đi! đối chúng chứng cứ xem.

Tăng hỏi:- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư liền hét!

Tăng lễ bái.

Sư bảo:- Ông Thầy này lại nên bàn luận.

– Thầy tuyên dương gia khúc tông phong ai? Nối pháp vị nào?

– Ta ở chỗ Hoàng Bá ba phen thưa hỏi ba lần bị đánh.

Vị Tăng suy nghĩ, Sư liền hét! và theo sau đánh, nói:

– Không thể đến trong hư không mà đóng đinh.

*

Có Tọa chủ hỏi:

– Ba thừa và mười hai phần giáo đâu chẳng phải chỉ rõ Phật tánh?

Sư đáp:- Cỏ hoang chưa từng cuốc.

– Phật đâu dối người?

– Phật ở chỗ nào?

Tọa chủ không đáp được. Sư tiếp:

– Ở trước Thường Thị định làm mờ Lão tăng, lui mau! lui mau! Làm chướng ngại người khác thưa hỏi.

Hôm nay pháp hội vì một đại sự, lại có người thưa hỏi chăng? Mau đến hỏi đi. Ông vừa mở miệng đã chẳng dính dáng. Vì sao như thế? Đâu chẳng nghe Thích Tôn nói: “Pháp lìa văn tự, vì chẳng thuộc nhân chẳng ở duyên.”

Bởi các ông tin chẳng đến, cho nên ngày nay mới dùng phương tiện (cát đằng), sợ e Thường Thị cùng các quan viên lầm Phật tánh ấy, chi bằng hãy lui.

Sư hét một tiếng! Nói tiếp: Người gốc tin kém, trọn không có ngày xong, đứng lâu, trân trọng!

*

Sư thượng đường bảo:

– Trên cục thịt đỏ có vô vị chân nhân, thường từ cửa mặt các ông ra vào. Người chưa được chứng cứ hãy xem! xem!

Có vị Tăng ra hỏi:

– Thế nào là vô vị chân nhân?

Sư bước xuống tòa nắm đứng bảo: “Nói! nói!”

Vị Tăng ấy suy nghĩ. Sư liền buông ra, nói:

– Vô vị chân nhân là cái gì, cục cứt khô.

Sư liền trở về phương trượng.

*

Tham vấn buổi chiều, Sư dạy chúng:

– Có khi đoạt nhân chẳng đoạt cảnh. Có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhân. Có khi nhân cảnh đều đoạt. Có khi nhân cảnh đều chẳng đoạt.

Tăng hỏi:- Thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?

Sư đáp:

– Ngày ấm nẩy sanh gấm trải đất, trẻ con rủ tóc trắng như tơ. (Hú nhật phát sanh phô địa cẩm, anh hài thùy phát bạch như ty.)

– Thế nào đoạt cảnh chẳng đoạt nhân?

– Lệnh vua vừa xuống khắp thiên hạ, tướng quân biên ngoại khói mù tan. (Vương lệnh dĩ hành thiên hạ biến, tướng quân tắc ngoại tuyệt yên trần.)

– Thế nào nhân cảnh đều đoạt?

– Bặt tin Tịnh Phần, riêng ở một chỗ. (Tịnh Phần tuyệt tín, độc xử nhất phương.)

– Thế nào nhân cảnh đều chẳng đoạt?

– Vua lên điện báu, lão quê hát ca. (Vương đăng bảo điện, dã lão âu ca.)

Sư lại bảo:

– Thời nay người học Phật pháp cần yếu có kiến giải chân chánh. Nếu được kiến giải chân chánh thì sanh tử chẳng nhiễm, đi đứng tự do chẳng cần cầu thù thắng mà thù thắng tự đến. Đạo lưu! (đồng đạo, chỉ chúng Tăng) Các bậc tiên đức từ xưa đều có con đường đưa người, như Sơn tăng chỉ chỗ cho người. Cốt các ông đừng bị người gạt, cần dùng liền dùng, lại chớ ôm ngờ vực.

Hiện nay học giả chẳng được, bệnh tại chỗ nào? Bệnh tại chỗ chẳng tin. Các ông nếu tự tin chẳng đến, là rộn ràng theo tất cả cảnh chuyển, bị muôn cảnh lôi, lại chẳng được tự do. Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền cùng Phật, Tổ chẳng khác. Các ông muốn biết được Phật, Tổ chăng? Chính trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy. Học nhân tin chẳng đến, liền chạy tìm ra ngoài. Dù có tìm được, cũng chỉ là tướng thù thắng của văn tự, trọn chẳng đặng ý của Phật Tổ sống. Chớ lầm!

*

Chư Thiền đức! Thời nay chẳng gặp, muôn kiếp ngàn đời luân hồi tam giới, chạy theo cảnh thích rồi phải sanh trong bụng trâu bụng lừa… Đạo lưu! Nhằm chỗ thấy của Sơn tăng cùng Thích-ca không khác. Hiện nay nhiều chỗ ứng dụng, kém thiếu cái gì? Sáu đường thần quang chưa từng cách dứt. Nếu hay thấy được như thế, chỉ một đời làm người vô sự.

*

Đại đức! Ba cõi không yên như trong nhà lửa, đây không phải là chỗ các ông dừng ở lâu, quỉ vô thường giết người trong khoảng chớp mắt chẳng lựa người sang kẻ hèn, người già kẻ trẻ. Các ông muốn cùng Phật Tổ chẳng khác, chỉ chớ tìm kiếm bên ngoài. Trên một tâm niệm thanh tịnh sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật pháp thân của ông. Trên một tâm niệm vô phân biệt sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật báo thân của ông. Trên một tâm niệm vô sai biệt sáng suốt là ngôi nhà Phật hóa thân của ông. Ba thứ thân này là người hiện nay ở trước mắt nghe pháp của ông. Chỉ không tìm kiếm bên ngoài, liền có công dụng này. Theo các nhà Kinh Luận lấy ba thân này làm nguyên tắc tột cùng. Nhằm chỗ thấy của Sơn tăng thì chẳng phải vậy. Ba thân này là danh ngôn, cũng là ba thứ y. Người xưa nói: “Thân y nghĩa lập, cõi cứ thế bàn.” Pháp tánh thân, pháp tánh độ biết rõ là quang ảnh (bóng sáng).

Đại đức! Các ông hãy nhận biết người đùa quang ảnh, là nguồn gốc tất cả chỗ của chư Phật, là chỗ các ông về nhà. Xác thân tứ đại của các ông không biết thuyết pháp, nghe pháp. Gan mật dạ dày ruột không biết thuyết pháp, nghe pháp. Hư không chẳng biết thuyết pháp, nghe pháp? Là một cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” ở trước mắt ông, nó biết thuyết pháp, nghe pháp. Nếu thấy được như thế đã cùng Phật, Tổ không khác, chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mắt đều phải. Chỉ vì tình sanh trí cách, tưởng dấy thể sai. Do đó, luân hồi trong tam giới, chịu các thứ khổ. Nếu nhằm chỗ thấy của Sơn tăng thật là rất sâu, thật là giải thoát.

*

Đạo lưu! Tâm pháp không hình thông suốt mười phương, ở mắt gọi thấy, ở tai gọi nghe, ở mũi gọi ngửi, ở miệng nói bàn, ở tay nắm bắt, ở chân đi chạy, vốn là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp. Một tâm đã không, tùy chỗ giải thoát. Sơn tăng nói thế ấy, ý ở chỗ nào? Chỉ vì tất cả các ông chạy tìm tâm không thể dừng, leo lên cơ cảnh nhàn của cổ nhân. Các ông nhận được chỗ thấy của Sơn tăng, ngồi chặt đầu Phật Báo, Hóa. Hằng mãn tâm thập địa ví như nhận khách làm con. Bậc Đẳng giác là kẻ mang gông xiềng. La-hán, Bích-chi ví như xí uế. Bồ-đề Niết-bàn như cọc cột lừa. Vì sao như thế? Chỉ vì các ông không thấu được ba kỳ kiếp là không, nên có chướng ngại này. Nếu là đạo nhân chân chánh trọn chẳng như thế, chỉ “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, tâm không một niệm mong cầu quả Phật. Bởi đâu như thế? Cổ nhân nói: “Nếu muốn làm việc cầu Phật, Phật là điềm lớn sanh tử.”

*

Đại đức! Thời giờ đáng tiếc, chỉ tính đến nhà bên lăng xăng học thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu Thiện tri thức độ. Chớ lầm!

Các ông sẵn có một cha mẹ, lại cầu vật gì? Các ông tự phản chiếu xem! Cổ nhân nói: “Diễn-nhã-đạt-đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền vô sự.”

Đại đức! Cần yếu bình thường chớ tạo hình thức. Có một bọn tớ trọc chẳng biết tốt xấu, thấy thần thấy quỉ, chỉ đông vẽ tây, thích mưa thích tạnh.

Bọn như thế đáng quở trách, có ngày đến trước lão Diêm vương bị nuốt hoàn sắt nóng. Kẻ nam nữ tốt tại gia bị bọn tinh mị dã hồ này mê hoặc, liền tác quái; có ngày quên mất hết những điều cần yếu trong cuộc sống thanh bạch của mình.

*

Có vị Tăng hỏi:

– Thế nào là chân Phật, chân pháp, chân đạo, xin Thầy chỉ dạy?

Sư đáp:

– Phật là tâm thanh tịnh, Pháp là tâm sáng suốt, Đạo là mỗi chỗ không ngại. Tịnh, sáng… tuy ba mà một, đều là danh từ suông không thật có. Người chân chánh đạo nhân niệm niệm tâm không gián đoạn. Đại sư Đạt-ma từ phương Tây đến, chỉ tìm cái người chẳng bị người gạt. Nhị Tổ một câu nói liền liễu ngộ, mới biết từ trước uổng dụng công phu. Hiện nay Sơn tăng chỗ thấy cùng Phật Tổ không khác. Nếu trong đệ nhất cú tiến được, kham cùng Phật Tổ làm thầy. Nếu trong đệ nhị cú tiến được, kham cùng trời người làm thầy. Nếu trong đệ tam cú tiến được, tự cứu chẳng xong.

Tăng hỏi:- Thế nào là đệ nhất cú?

Sư đáp:

– Tam yếu ấn khai điểm son hẹp, chưa cho nghĩ nghị chủ khách phân. (Tam yếu ấn khai chu điểm trách, vị dung nghĩ nghị chủ tân phân.)

– Thế nào là đệ nhị cú?

– Diệu giải đâu cho không đến hỏi, bọt tan nào dễ chặn dòng sông. (Diệu giải khởi dung vô trước vấn, âu hòa tranh phụ tiệt lưu cơ.)

– Thế nào là đệ tam cú?

– Chỉ xem tượng gỗ đùa trên gác, lôi kéo toàn nhờ người ẩn trong.

Sư lại bảo:

– Phàm người diễn xướng tông thừa trong một câu phải đủ ba huyền môn, mỗi huyền môn phải đủ tam yếu. Có quyền có thật, có chiếu có dụng. Các ông làm sao được hội?

*

Sư dạy chúng:

– Đạo lưu (đồng đạo)! Cốt tìm lấy kiến giải chân chánh, dọc ngang trong thiên hạ, khỏi bị bọn yêu tinh hoặc loạn, vô sự là người quí, chớ tạo tác, chỉ là bình thường. Các ông nghĩ hướng nhà bên cầu vượt qua, tìm ngón tay gót chân, lầm rồi! Chỉ nghĩ cầu Phật, Phật là danh cú. Các ông lại biết chạy tìm chăng?

Ba đời mười phương Phật Tổ ra đời cũng chỉ vì cầu Pháp. Như Đạo lưu hiện nay tham học cũng chỉ vì cầu Pháp, được pháp mới xong, chưa được vẫn như trước luân hồi trong năm đường.

Thế nào là PHÁP? Pháp là tâm pháp, tâm pháp không hình thông suốt mười phương, hiện dụng trước mắt. Người tin không đến, bèn nhận danh nhận cú, hướng trong danh tự cầu, ý suy xét Phật pháp, cách xa trời đất.

Đạo lưu! Sơn tăng nói pháp, là nói pháp gì? Nói pháp tâm địa, hay vào phàm vào thánh, vào tịnh vào uế, vào chân vào tục. Hẳn chẳng phải các ông là chân tục phàm thánh, mà hay cùng chân tục phàm thánh an bài danh tự. Chân tục phàm thánh cùng người này an bài danh tự chẳng được.

Đạo lưu! Nắm được liền dùng, chẳng mắc danh tự, gọi đó là HUYỀN CHỈ. Sơn tăng nói pháp cùng mọi người khác. Như có Văn-thù, Phổ Hiền xuất hiện trước mắt, mỗi vị hiện một thân hỏi pháp, vừa nói: “Thưa Hòa thượng”, tôi đã biết rõ. Lão tăng ngồi yên, lại có đạo lưu đến thấy nhau, tôi trọn hiểu rành.

Tại sao như thế? Chỉ vì chỗ thấy của tôi khác, ngoài chẳng nhận phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt chẳng còn nghi lầm.

*

Sư dạy chúng:

– Đạo lưu! Phật pháp không có chỗ dụng công, chỉ bình thường vô sự. Đi đại đi tiểu, mặc áo ăn cơm, nhọc đến thì nằm, người ngu cười ta, kẻ trí biết ta.

Người xưa nói: “Làm công phu bên ngoài, thảy là kẻ ngu si.” Các ngươi phải tùy thời làm chủ, ngay đó đều chân, cảnh đến lôi kéo chẳng được, dù có tập khí nghiệp địa ngục vô gián, tự chuyển thành biển lớn giải thoát.

Học giả thời nay hoàn toàn không biết pháp, ví như nắm mũi con dê để đồ vào miệng nó, không biện kẻ tớ người sang, chẳng rành chủ khách. Bọn như thế tâm tà vào đạo. Chỗ ồn vào chẳng được, gọi là người chân xuất gia, chính là người chân tại gia.

Người xuất gia phải biện được kiến giải chân chánh bình thường, biết Phật biết ma, rành chân rành ngụy, rõ phàm rõ thánh. Nếu biện được như thế, gọi là chân xuất gia. Nếu ma Phật không biết, chính là xuất gia này vào gia kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp, chưa được gọi là người chân xuất gia.

Hiện nay có cái ma Phật đồng thể chẳng phân, như nước với sữa hợp.

Chỉ có con ngỗng chúa mới biết uống sữa chừa nước. Hàng đạo lưu mắt sáng ma Phật đều đánh. Các người nếu mến Phật ghét phàm, thì phải trôi nổi trong biển sanh tử.

*

Hỏi:- Thế nào là Phật là ma?

Sư đáp:

– Ngươi vừa khởi một niệm tâm nghi ấy là ma. Nếu ngươi đạt được muôn pháp không sanh, tâm như huyễn hóa, không có một hạt bụi, một pháp, ngay đó liền thanh tịnh là Phật. Song Phật cùng ma là hai cảnh nhiễm tịnh. Nếu chỗ thấy của Sơn tăng, không Phật không chúng sanh, không xưa không nay, được liền đó được, chẳng trải qua thời tiết, không tu không chứng, không được không mất, trong tất cả thời lại không có một pháp riêng. Dù là một pháp vượt hơn cái này, ta nói như mộng như hóa.

Sơn tăng nói ra đều phải, hiện nay trước mắt đạo lưu riêng sáng rỡ lắng nghe. Người này nơi nơi chẳng kẹt, thấu suốt mười phương, tự tại trong tam giới, vào tất cả cảnh sai biệt không thể lôi kéo, trong khoảng sát-na vào tột pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La-hán nói La-hán, gặp ngạ quỉ nói ngạ quỉ, đi tất cả chỗ dạo các cõi nước, giáo hóa chúng sanh, mà chưa từng lìa một niệm, tùy chỗ thanh tịnh, ánh sáng thấu mười phương, muôn pháp nhất như.

Đạo lưu! Kẻ đại trượng phu hiện đây mới biết xưa nay vô sự. Chỉ vì các ngươi chẳng tin đến, niệm niệm tìm cầu, bỏ đầu tìm đầu, tự không thể thôi, như các vị Bồ-tát viên đốn mà vào trong pháp giới hiện thân. Nhằm trong tịnh độ chán phàm mến thánh, bọn người như thế chưa quên bỏ lấy, tâm nhiễm tịnh vẫn còn.

Kiến giải Thiền tông chẳng phải như vậy, thẳng trong hiện tại lại không thời tiết.

Sơn tăng nói ra đều là một lúc thuốc trị bệnh nhau, trọn không có pháp thật. Nếu thấy được như vậy là người chân xuất gia, mỗi ngày tiêu muôn lượng vàng cũng được.

Đạo lưu! Chớ chấp lấy, sẽ bị các bậc Lão sư đập bể cửa mặt. Nói rằng ta hiểu thiền hiểu đạo, biện luận thao thao như nước chảy, đều là người tạo nghiệp địa ngục. Nếu là người chân chánh học đạo, chẳng tìm lỗi của thế gian, cấp bách cầu kiến giải chân chánh, mới mong tròn sáng xong xuôi.

*

Hỏi:- Thế nào là kiến giải chân chánh?

Sư đáp:

– Ngươi chỉ tất cả vào phàm vào thánh, vào nhiễm vào tịnh, vào cõi nước chư Phật, vào lầu các đức Di-lặc, vào pháp giới Tỳ-lô-giá-na, chỗ chỗ đều hiện; cõi nước thành trụ hoại không, Phật ra đời chuyển đại pháp luân lại nhập Niết-bàn, chẳng thấy có tướng mạo đi lại, tìm cái sanh tử của Ngài trọn không thể được, liền vào pháp giới vô sanh; nơi nơi dạo qua các cõi nước, vào thế giới Hoa tạng, trọn thấy các pháp không tướng, đều không Phật pháp, chỉ có Đạo nhân vô y (không chỗ nương) nghe pháp. Đó là mẹ chư Phật, bởi vì chư Phật đều từ vô y (không chỗ nương) sanh. Nếu ngộ vô y (không chỗ nương), Phật cũng không thể được. Nếu người thấy được như thế, là kiến giải chân chánh.

Người học không hiểu chấp danh cú, bị danh phàm thánh làm ngại. Do đó, chướng ngại đạo nhãn không được phân minh. Mười hai phần giáo nói ra đều cốt biểu hiển lẽ này, học giả không hội, bèn nhằm trên danh cú biểu hiển sanh hiểu, đều là nương tựa rơi tại nhân quả, chưa khỏi sanh tử trong tam giới.

Các ngươi nếu muốn trong sanh tử đi đứng tự do, tới lui tự tại thì hiện nay nên biết người nghe pháp này. Y không hình không tướng, không cội không gốc, không chỗ ở, mà hoạt bát rõ ràng, ứng hiện muôn thứ hành động, chỗ dùng chỉ là không chỗ. Bởi đó, càng tìm càng xa, cầu đó thì trái, gọi đó là bí mật.

Đạo lưu! Các ngươi chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn, trong khoảng sớm chiều sẽ trở về vô thường. Các ngươi đến trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm lấy một bữa cơm mà ăn, mặc áo vá qua ngày, chỉ cốt phỏng tầm tri thức. Chớ theo đuổi thú vui, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, nếu thô thì bị bốn thứ đất nước lửa gió ép ngặt, tế thì bị sanh trụ dị diệt bức bách.

Đạo lưu! Thời nay cần biết bốn cảnh vô tướng, mới khỏi bị cảnh kéo lôi.

*

Hỏi:- Thế nào là bốn cảnh vô tướng?

Sư đáp:

– Các ngươi một niệm tâm nghi bị đất làm ngại. Các ngươi một niệm tâm ái bị nước nhận chìm. Các ngươi một niệm tâm sân bị lửa đốt cháy. Các ngươi một niệm tâm hỉ bị gió thổi bay. Nếu khéo biện được như thế chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, vọt bên đông lặn bên tây, vọt bên nam lặn bên bắc, vọt ở giữa lặn ở bên, vọt ở bên lặn ở giữa, đi trên nước như đất, đi trên đất như nước. Bởi sao được như vậy? Vì đạt bốn đại như mộng huyễn.

Đạo lưu! Các ngươi hiện nay biết nghe pháp, chẳng phải tứ đại của các ngươi, cái biết ấy hay dùng được tứ đại. Nếu khéo thấy được như thế, là đi đứng tự do. Chỗ thấy của Sơn tăng chẳng ngờ pháp ấy. Các ngươi nếu mến Thánh thì Thánh chỉ là tên Thánh. Có một nhóm người học đạo nhắm trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn-thù, trọn đã lầm vậy. Trong Ngũ Đài Sơn không có Văn-thù. Các ngươi muốn biết Văn-thù chăng? Chỉ cái dùng trước mắt các ngươi, trước sau chẳng khác, nơi nơi chẳng nghi, cái ấy là Văn-thù sống. Các ngươi một tâm niệm sáng không sai biệt, nơi nơi thảy là chân Phổ Hiền. Các ngươi một tâm niệm tự hay mở trói, tùy chỗ giải thoát, đây là Quan Thế Âm. Ba pháp lẫn nhau làm chủ bạn, ra thì đồng thời ra, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế, mới nên xem kinh.

Hỏi:- Ý Tổ sư từ phương tây sang thế nào?

Sư đáp:- Nếu có ý tự cứu chẳng xong.

Hỏi:- Đã không ý làm sao Nhị Tổ được pháp?

Sư đáp:- Được đó là chẳng được.

– Nếu đã chẳng được, thế nào là ý chẳng được?

– Vì nhằm tất cả chỗ tìm kiếm tâm không thể thôi.

Do đó, Tổ Sư nói: “Dốt thay! Đại trượng phu đem đầu tìm đầu.” Ngươi ngay lời nói này liền tự hồi quang phản chiếu, chẳng cầu cái gì khác, biết thân tâm cùng Phật Tổ chẳng khác, liền đó vô sự mới gọi là được pháp.

Đại đức! Sơn tăng hôm nay sự bất đắc dĩ nói ra khá nhiều điều vụng về.

Các ngươi chớ nhận lầm. Theo chỗ thấy của tôi, thật không chấp nhận các thứ đạo lý nhiều như thế, cần dùng liền dùng, chẳng dùng liền thôi. Các nơi nói lục độ vạn hạnh cho là Phật pháp. Tôi nói đó là cửa trang nghiêm, cửa Phật sự, chẳng phải là Phật pháp. Cho đến, trì trai giữ giới như bưng dầu chẳng nghiêng, nếu đạo nhãn chẳng sáng trọn có ngày phải đền lại nợ cơm tiền. Vì sao như thế?

Vì, “học đạo chẳng thông lý, đem thân đền tín thí, trưởng giả tuổi tám mốt, cây kia chẳng sanh nhĩ”. Nhẫn đến ở trên chót núi, một ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, sáu thời hành đạo, vẫn là người tạo nghiệp. Hoặc đem đầu mắt tủy não, vợ con đất nước, voi ngựa bảy báu hoàn toàn thí xả; hành động như thế đều là làm khổ thân tâm, lại chuốc quả khổ. Đâu bằng vô sự, thuần nhất không tạp. Những hàng Bồ-tát thập địa mãn tâm muốn tìm dấu vết của vị này trọn không thể được. Do đó, chư thiên vui mừng, địa thần nâng chân, chư Phật mười phương thảy đều khen ngợi. Bởi sao như thế? – Vì đạo nhân hiện nghe pháp, chỗ dùng không dấu vết vậy.

*

Một hôm Sư cùng Hà Dương, Trưởng lão Mộc Tháp đồng ở tại Tăng đường ngồi quanh lò lửa. Nhân nói chuyện Phổ Hóa mỗi ngày ở ngoài đường chợ chụp gió chụp đầu, biết y là phàm là thánh? Nói chưa xong, Phổ Hóa vào chúng đi đến. Sư liền hỏi: “Ngươi là phàm là thánh?”

Phổ Hóa nói: “Ông hãy nói tôi là phàm là thánh?”

Sư liền hét!

Phổ Hóa lấy tay chỉ nói: “Hà Dương kẻ tân phụ (Tân phụ là cô gái mới có chồng.) Mộc Tháp thiền Lão bà, Lâm Tế đứa tớ nhỏ, lại đủ một con mắt.”

Sư bảo: “Kẻ giặc.”

Phổ Hóa nói: “giặc, giặc”, liền đi ra.

*

Vương Thường Thị đến thưa hỏi Sư, theo Sư đến trước Tăng đường, xem xong liền hỏi:

– Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?

Sư đáp:- Chẳng xem kinh.

Thị hỏi:- Lại học thiền chăng?

Sư đáp:- Chẳng học thiền.

Thị nói:- Kinh đã chẳng xem, thiền lại chẳng học, cứu kính làm cái gì?

Sư đáp:- Thảy dạy y làm Phật tác Tổ.

Thị nói:- Mạt vàng tuy quí, rơi vào con mắt thành bệnh, lại làm sao?

Sư bảo:- Sẽ bảo ông là kẻ thế tục.

*

Một hôm, Phổ Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Sư dạy Viện chủ mua một quan tài.

Phổ Hóa về đến, Sư bảo: “Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi.”

Phổ Hóa liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh đường chợ rao: “Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang cửa đông tịch.” Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: “Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa nam mới tịch.” Như thế đến ba ngày, mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư, không ai theo xem, một mình Phổ Hóa tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi, mọi người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần rồi mất.

*

Sư sắp tịch, ngồi yên bảo: “Sau khi ta tịch, chẳng được diệt mất chánh pháp nhãn tạng của ta.”

Tam Thánh Huệ Nhiên thưa: “Đâu dám diệt mất chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng.”

Sư bảo: “Về sau có người hỏi, ngươi đáp thế nào?”

Tam Thánh liền hét!

Sư bảo: “Ai biết, chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù diệt mất.”

Sư nói kệ truyền pháp:

Diên lưu bất chỉ vấn như hà

Chân chiếu vô biên thuyết tợ tha

Ly tướng ly danh như bất bẩm

Xuy mao dụng liễu cấp tu ma

(Theo dòng chẳng dứt hỏi thế nào

Chân chiếu khôn ngằn nói giống ai.

Lìa tướng lìa danh như chẳng nhận

Gươm bén dùng rồi gấp phải mài.)

Nói xong, Sư ngồi an nhiên thị tịch. Nhằm niên hiệu Hàm Thông năm thứ tám (868 DL), ngày 10 tháng giêng năm Đinh Hợi.

Vua ban thụy là Huệ Chiếu Thiền sư, tháp hiệu Trừng Linh.

∗ TRẦN TÔN TÚC – Hiệu Đạo Minh (?-?)

Sư quê ở Giang Nam họ Trần. Thuở bé, Sư dung nhan kỳ đặc, nhân đến chùa Khai Nguyên lễ Phật, thấy Tăng như đã quen trước. Về, Sư xin phép cha mẹ xuất gia, cha mẹ đồng ý cho.

Sau khi làm Tăng, Sư giữ giới tinh nghiêm, học thông ba tạng. Đi du phương, Sư thâm ngộ nơi Tổ Hoàng Bá. Được mọi nơi kính trọng gọi là Tôn Túc nên thành danh Trần Tôn Túc.

Về sau, Sư về ở chùa Khai Nguyên, thường dùng cỏ bồ đan giày bán nuôi mẹ. Do đó, cũng có tên là Trần Bồ Hài. Tăng chúng mến trọng Sư, lần lượt tìm đến tham vấn. Lời lẽ đối đáp của Sư rất bí hiểm, khó người nhận nổi. Thế nên, những kẻ căn cơ thô thiển đều chẳng thích. Chỉ những bậc tánh sáng am hiểu huyền học, mới khâm phục.

*

Tham vấn buổi chiều, Sư bảo chúng:

– Các ngươi lại được chỗ bước vào chưa? Nếu chưa được chỗ bước vào, cần được chỗ bước vào, nếu đã được chỗ bước vào, về sau chớ cô phụ Lão tăng.

Có một vị Tăng bước ra lễ bái thưa:

– Con trọn chẳng dám cô phụ Hòa thượng.

Sư bảo:- Ngươi trước đã cô phụ ta rồi.

Sư bảo:

– Ta đã nói rõ với ngươi, ngươi còn chẳng hội, huống là che đậy mai sau.

Sư lại bảo:

– Lão tăng trụ trì ở đây chẳng từng thấy một người vô sự đi đến. Các ngươi sao chẳng lại gần?

Có một vị Tăng mới bước lại gần.

Sư bảo:

– Duy-na chẳng có ở đây, ngươi tự lãnh hai mươi gậy đi ra ngoài ba cửa.

Tăng thưa:- Con lỗi ở chỗ nào?

Sư bảo:- Đã đeo còng lại mang gông.

*

Bình thường, Sư thấy Tăng đến liền đóng cửa. Hoặc thấy Giảng sư đến, Sư gọi: Tọa chủ! Tọa chủ: dạ! Sư bảo: Kẻ vác bảng. Hoặc bảo: trong ấy có thùng cho tôi gánh nước.

Một hôm, Sư đứng ngoài hành lang, có vị Tăng đến hỏi: “Phòng Trần Tôn Túc ở chỗ nào?”

Sư liền cổi giày, đè đầu vị Tăng ấy đập. Vị Tăng ấy chạy. Sư gọi:- Đại đức!

Tăng xoay đầu nhìn lại. Sư chỉ bảo:- Đi bên này.

*

Có vị sứ thần đến viếng. Sứ thần hỏi: “Ba cửa đều mở, từ cửa nào vào?”

Sư gọi: “Thượng thơ!” Sứ thần ứng thanh: “Dạ!” Sư bảo: “Từ cửa tín vào”.

Sứ thần nhìn lên vách thấy tượng vẽ, hỏi: “Hai tôn giả đối mặt luận việc gì?”

Sư gõ cây cột nói: “Trong ba thân, cái nào chẳng nói pháp?”

*

Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tào Khê?

Sư bảo:- Lão tăng ưa sân chẳng ưa hỉ.

Tăng hỏi:- Vì sao như thế?

Sư đáp:- Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ nói thơ (Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mạc thuyết thi.)

*

Tăng hỏi: “Giáo ý Tổ ý là đồng là khác?”

Sư bảo: “Núi xanh tự núi xanh, mây trắng tự mây trắng.”

Tăng hỏi: “Thế nào là núi xanh?”

Sư bảo: “Trả một hạt mưa cho ta.”

Tăng thưa: “Nói chẳng được, thỉnh Thầy nói.”

Sư bảo: “Pháp Hoa xông trước trận, Niết-bàn câu chót thâu.”

*

Sư xem kinh, Thượng thơ Trần Tháo đến hỏi:- Hòa thượng xem kinh gì?

Sư bảo:- Kinh Kim Cang.

Tháo bảo:- Lục triều phiên dịch, đây là thứ mấy dịch?

Sư đưa quyển kinh lên bảo:- Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh.

*

Sư xem kinh Niết-bàn, có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng xem kinh gì?

Sư đưa quyển kinh lên bảo:- Cái này là phẩm trà-tỳ rốt sau.

*

Vị Tăng mới đến lễ bái Sư, Sư quở:- Xà-lê tại sao trộm trái cây của Thường trụ ăn?

Tăng thưa:- Con vừa mới đến, vì sao Hòa thượng nói trộm trái cây?

Sư bảo:- Tang vật vẫn còn.

*

Có vị Đại đức được vua ban tử y đến lễ bái. Sư cầm cái mũ lên, hỏi: Cái này gọi là gì?

Đại đức đáp: Mũ triều thiên.

Sư bảo: Thế ấy thì Lão tăng chẳng đội.

Sư lại hỏi: Nói thế nào?

Đại đức đáp: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.

Sư chỉ cánh cửa hỏi: Cái ấy là gì?

Đại đức đáp: Sắc pháp.

Sư bảo: Trước rèm ban tử y, đối vua thuyết pháp, tại sao không giữ năm giới?

Đại đức không đáp được.

*

Sư thượng đường: Xé tan ra cũng là ta, gom nhóp lại cũng là ta.

Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là xé tan ra?

Sư bảo: Ba lần chín là hai mươi bảy, Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát tức tâm tức Phật. Ta đã nói thế ấy, ngươi lại nói thế nào?

Tăng thưa: Con chẳng nói thế ấy.

Sư bảo: Cái chén đánh rơi xuống đất, cái dĩa bể thành bảy miếng.

Tăng hỏi thế nào là gom nhóp lại?

Sư bèn ngồi khoanh tay.

*

Sư dạy chúng:

– Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ.

Lại dạy:

– Ta thấy Tổ Bá Trượng không biết tốt xấu, đại chúng vừa họp, lấy gậy đồng thời đánh đuổi, lại gọi “đại chúng”, chúng xoay đầu lại, bèn bảo “ấy cái gì, có chỗ nào cùng nói”. Lại Hòa thượng Hoàng Bá cũng vậy, đánh chúng chạy, lại gọi “đại chúng”, chúng xoay đầu lại, bèn bảo “trăng tợ cung loan mưa ít gió nhiều”.

*

Sư sắp tịch gọi môn đồ lại nói: Nơi đây hết duyên, ta sẽ đi vậy.

Rồi ngồi kiết già thị tịch, thọ chín mươi tám tuổi, được bảy mươi sáu tuổi hạ.

∗ NGƯỠNG SƠN HUỆ TỊCH – Tổ thứ hai Tông Qui Ngưỡng (804-899)

Thiền sư Huệ Tịch quê ở Hoài Hóa, Thiều Châu, con nhà họ Diệp. Năm mười lăm tuổi, Sư muốn xuất gia, cha mẹ không cho. Đến năm mười bảy tuổi, Sư chặt hai ngón tay, đến trước cha mẹ quì thệ cầu chánh pháp để báo ân sanh thành dưỡng dục. Cha mẹ mới cho xuất gia.

Sư đến chùa Nam Hoa xin xuất gia với Thiền sư Thông. Chưa được thọ giới cụ túc, Sư đã đi du phương.

*

Sư đến yết kiến Đam Nguyên, nhân đây được huyền chỉ.

Đam Nguyên bảo:

– Quốc sư lúc đương thời được sáu đời Tổ sư truyền cho chín mươi bảy viên tướng (tướng tròn), Ngài trao cho Lão tăng dặn rằng: “Sau khi ta tịch diệt ba mươi năm, có ông Sa-di từ phương nam đến, sẽ làm hưng thạnh giáo này, ngươi nên thứ lớp truyền trao chớ để đoạn dứt.” Nay ta trao cho con, con phải vâng giữ.

Nói xong, Đam Nguyên trao bản ấy qua cho Sư. Sư nhận được, xem qua một lượt, bèn đem đốt.

Hôm khác, Đam Nguyên hỏi Sư:

– Những tướng ta trao cho hôm trước cần phải quí trọng giữ kín.

Sư thưa:- Hôm ấy xem xong, con đốt quách rồi.

Đam Nguyên bảo:

– Pháp môn này của ta không người hội được, chỉ có thầy ta và các bậc Tổ sư Đại thánh mới hiểu hết, sao con lại đốt đi?

Sư thưa:

– Con một phen xem qua đã biết ý chỉ trong đó, ứng dụng được chẳng cần cầm bản.

Đam Nguyên bảo:

– Tuy như thế, nơi con thì được, người sau làm sao tin đến được?

Sư thưa:

– Hòa thượng nếu cần, con chép lại chẳng khó.

Sư liền chép hết lại thành một tập chẳng sót một điều, trình lên. Đam Nguyên khen là đúng.

*

Sư giặt y, Đam Nguyên hỏi: Chính bây giờ làm gì?

Sư đáp: Chính bây giờ nhằm chỗ nào thấy?

*

Sư còn Sa-di đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu.

Qui Sơn hỏi:- Ngươi là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?

Sư thưa:- Có chủ.

– Chủ ở chỗ nào?

Sư từ bên đông sang bên tây đứng. Qui Sơn biết con người kỳ lạ nên cố tâm chỉ dạy.

Sư hỏi:- Thế nào là chỗ ở của chân Phật?

Qui Sơn đáp:

– Dùng cái diệu tư (nghĩ nhớ) mà không tư (nghĩ nhớ) xoay cái tư tinh anh sáng suốt vô cùng, tư hết trở về nguồn, tánh tướng thường trụ, sự lý không hai, chân Phật như như.

Ngay câu nói ấy, Sư đốn ngộ, dừng lại đây hầu hạ Qui Sơn.

*

Sư sang Giang Lăng thọ giới, ở lại một hạ để học luật. Sau đó, Sư đến tham vấn Nham Đầu. Nham Đầu thấy Sư liền giở phất tử lên. Sư trải tọa cụ. Nham Đầu đưa phất tử lại sau lưng. Sư vác tọa cụ lên vai đi ra. Nham Đầu bảo: “Ta chẳng nhận ông buông, chỉ nhận ông thâu.”

*

Sư đến tham vấn Thạch Thất, hỏi:

– Phật với đạo cách nhau bao nhiêu?

Thạch Thất đáp:- Đạo như xè tay, Phật như nắm tay.

Sư từ Thạch Thất, Thạch Thất tiễn ra tới cổng bảo rằng:

– Ngươi chớ một bề đi, về sau ở lại bên ta.

*

Vi Trụ đến Qui Sơn xin một bài kệ. Qui Sơn bảo:

– Thấy mặt trình nhau vẫn là kẻ độn, huống là bày trên giấy mực.

Vi Trụ đến xin Sư. Sư vẽ trên giấy một tướng tròn, chú rằng: Nghĩ mà biết là rơi vào đầu thứ hai, chẳng nghĩ mà biết là rơi vào đầu thứ ba.

*

Một hôm, Thượng Tọa ở Qui Sơn đưa phất tử lên bảo:

– Nếu người nào làm được đạo lý liền cho phất tử.

Sư thưa:- Tôi làm được đạo lý, lại được chăng?

Thượng Tọa bảo:- Chỉ làm được đạo lý liền được.

Sư bèn chụp tay giựt cây phất tử đi.

*

Qui Sơn cùng Sư du hành, bỗng chim tha quả hồng chín đánh rơi trước mặt. Qui Sơn vội lượm quả hồng đưa Sư. Sư nhận quả hồng đi lại nước rửa, rửa xong, Sư dâng Qui Sơn. Qui Sơn bảo: “Ở chỗ nào con được quả này?” Sư thưa: “Đây là đạo đức của Hòa thượng cảm nên.” Qui Sơn nói: “Con đâu phải không có”, liền bẻ nửa quả hồng cho Sư.

*

Sư đến phiên chăn trâu dưới sườn núi, thấy một vị Tăng lên núi không bao lâu lại xuống. Sư bèn hỏi: “Thượng tọa sao không lưu lại trong núi?”

Tăng nói: “Chỉ vì nhân duyên chẳng hợp.”

Sư hỏi: “Có nhân duyên gì thử nói xem.”

Tăng nói: “Hòa thượng hỏi tôi tên gì, tôi đáp Qui Chân. Hòa thượng hỏi Qui Chân ở đâu, tôi đáp không được.”

Sư bảo: “Thượng tọa trở lên thưa với Hòa thượng con nói được, Hòa thượng hỏi nói thế nào, chỉ đáp ‘trong mắt, trong tai, trong mũi’.”

Vị Tăng trở lại nói đúng như Sư dạy. Qui Sơn quở: “Kẻ nói suông vô ích, đây là lời thiện tri thức của năm trăm người.”

*

Sư nằm mộng thấy vào nội viện của đức Di-lặc, trong nhà Tăng, các tòa đều có người ngồi, chỉ có tòa thứ hai trống, Sư liền lên tòa ngồi. Có vị Tôn giả bạch chùy (khai kiểng) rằng: “Hôm nay tòa thứ hai nói pháp.”

Sư đứng dậy bạch chùy rằng: “Pháp Đại thừa ly tứ cú, tuyệt bách phi, lắng nghe! lắng nghe! Chúng giải tán đi.”

Sư thức giấc đem việc ấy thuật lại Qui Sơn. Qui Sơn bảo: “Con đã vào vị thánh.”

Sư lễ tạ.

*

Sư vẫn theo Qui Sơn ngót mười lăm năm. Được Qui Sơn mật ấn, Sư lãnh chúng ở núi Vương Mãng. Hóa duyên ở đây không hợp, Sư dời đến Ngưỡng Sơn, học chúng đua nhau đến đấy rất đông.

Sư thượng đường dạy chúng:

– Hết thảy các ngươi! Mỗi người tự hồi quang phản quán, chớ ghi ngôn ngữ của ta. Các ngươi từ kiếp vô thủy đến giờ trái sáng hợp tối, gốc vọng tưởng quá sâu khó nhổ mau được. Do đó, giả lập phương tiện dẹp thức thô của các ngươi, như đem lá vàng dỗ con nít khóc, có cái gì là phải. Như người đem các thứ hàng hóa cùng vàng lập phố bán, bán hàng hóa chỉ nghĩ thích hợp với người mua. Vì thế, nói “Thạch Đầu là phố chân kim, chỗ ta là phố tạp hóa”. Có người đến tìm phẩn chuột ta cũng bết cho, kẻ khác đến cầu chân kim ta cũng trao cho.

Tăng hỏi:- Chẳng cần phẩn chuột, xin Hòa thượng cho chân kim?

Sư bảo:- Răng nhọn nghỉ mở miệng, năm lừa cũng chẳng hội.

Tăng không đáp được.

Sư tiếp:

– Tìm hỏi thì có trao đổi, chẳng tìm hỏi thì không ta. Nếu nói bên thân Thiền tông cần một người làm bạn cũng không, huống là có năm bảy trăm chúng? Nếu ta nói đông nói tây, ắt giành nhau lượm lặt, như đem nắm tay không để gạt con nít, trọn không có thật. Nay ta nói rõ với các ngươi việc bên cạnh thánh, chớ đem tâm nghĩ tính, chỉ nhằm vào biển tánh của chính mình mà tu hành như thật. Chẳng cần tam minh lục thông. Vì sao? Vì đây là việc bên chót của thánh. Hiện nay cần thức tâm đạt bản, cốt được cái gốc chẳng lo cái ngọn. Sau này, khi khác sẽ tự đầy đủ. Nếu chưa được gốc, dầu cho đem tâm học y cũng chẳng được. Các ngươi đâu chẳng nghe Hòa thượng Qui Sơn nói: “Tình phàm thánh hết, bày hiện chân thường, sự lý chẳng hai, tức như như Phật”.

*

Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư?

Sư lấy tay vẽ vòng tròn trong hư không, giữa vòng tròn viết chữ Phật.

Tăng không đáp được. Sư gọi đệ nhất tọa bảo:

– Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, chính khi ấy là làm gì?

Đệ nhất tọa đáp:- Chính khi ấy là chỗ buông thân mạng của con.

Sư bảo:- Sao không hỏi Lão tăng?

Đệ nhất tọa đáp:- Chính khi ấy chẳng thấy có Hòa thượng.

Sư bảo:- Đỡ tông giáo của ta chẳng đứng.

*

Sư về Qui Sơn thăm, Linh Hựu hỏi:

– Con đã xưng là thiện tri thức, có biện được những người các nơi đến; biết có chẳng biết có, đã kế thừa thầy hay không kế thừa thầy, là nghĩa học là huyền học, con thử nói xem.

Sư thưa:

– Con có chỗ kinh nghiệm, khi thấy Tăng các nơi đến liền dựng phất tử dậy, hỏi y: Các nơi lại nói cái này hay chẳng nói. Lại bảo, ý lão túc các nơi thế nào.

Linh Hựu khen:- Đây là nanh vuốt trong Tông môn từ trước!

Linh Hựu lại hỏi:

– Chúng sanh trên quả đất nghiệp thức mênh mang không gốc có thể tựa, con làm sao biết họ có cùng chẳng có?

Sư thưa:

– Con có chỗ kinh nghiệm, lúc ấy có vị Tăng đi qua trước mặt, Sư gọi: “Xà lê!” Vị Tăng xoay đầu lại. Sư thưa: Bạch Hòa thượng, cái này là nghiệp thức mênh mang không gốc có thể tựa.

Linh Hựu bảo:- Đây là một giọt sữa sư tử, làm tan sáu đấu sữa lừa.

*

Có vị Tăng người Ấn từ hư không đến, Sư hỏi: “Vừa rồi ở đâu đến?”

Tăng thưa: “Ở Tây thiên.”

Sư hỏi: “Rời Tây thiên lúc nào?”

Tăng thưa: “Sớm mai.”

Sư bảo: “Sao mà chậm lắm vậy?”

Tăng thưa: “Vì còn dạo núi xem nước.”

Sư bảo: “Thần thông du hí thì chẳng không, Phật pháp của Xà-lê cần trao lại cho Lão tăng mới được?”

Tăng thưa: “Định sang Đông độ lễ Văn-thù, lại gặp Tiểu Thích-ca”, bèn đem sách chữ Phạn bằng lá bối trao cho Sư, làm lễ rồi nương hư không mà đi.

Từ đây Sư có hiệu là Tiểu Thích-ca.

*

Qui Sơn niêm một mặt gương gởi cho Sư. Sư thượng đường đưa lên bảo: “Chúng hãy nói, là gương Qui Sơn hay gương Ngưỡng Sơn? Cóngười nói được thì không đập nát.”

Toàn chúng đều không nói được. Sư liền đập nát.

*

Sư hỏi Song Phong: “Gần đây chỗ thấy của Sư đệ thế nào?”

Song Phong đáp: “Cứ chỗ thấy của tôi, thật không một pháp có thể xứng tình.”

Sư bảo: “Ngươi hiểu vẫn còn tại cảnh.”

Song Phong hỏi: “Tôi chỉ hiểu như thế, Sư huynh thế nào?”

Sư đáp: “Ngươi đâu chẳng biết, không một pháp có thể xứng tình.”

Qui Sơn nghe khen:

– Một câu của Huệ Tịch nghi chết người trong thiên hạ.

*

Sư cùng một vị Tăng nói đạo, bên cạnh có vị Tăng thưa: “Nói đó là Văn-thù, nín đó là Duy-ma.”

Sư bảo: “Chẳng nói chẳng nín đó, đâu chẳng phải là ngươi?”

Tăng lặng thinh. Sư bảo: “Sao chẳng hiện thần thông?”

Tăng thưa: “Chẳng từ hiện thần thông, chỉ ngại Hòa thượng bắt vào dạy.”

Sư bảo: “Xét rõ chỗ đến của ngươi chưa có con mắt giáo ngoại biệt truyền.”

*

Tăng hỏi:- Ý vào cửa Thiền tông đốn ngộ thế nào?

Sư bảo:- Ý này khó tột. Nếu người thượng căn thượng trí trong tông môn của Tổ phải một nghe ngàn ngộ được đại tổng trì. Căn cơ bậc này thật khó có. Còn hàng căn trí kém nhỏ, như Cổ đức nói “nếu chẳng an thiền tịnh lự, đến trong đó trọn không biết gì cả”.

Tăng thưa:- Trừ ngoài bậc đặc cách này, lại riêng có phương tiện khiến kẻ học được vào chăng?

Sư bảo:- Riêng có riêng không khiến tâm ngươi chẳng an. Ngươi là người xứ nào?

Tăng thưa:- Người U Châu.

Sư bảo:- Ngươi có nhớ xứ ấy chăng?

– Thường nhớ.

– Xứ ấy lầu đài vườn rừng người ngựa rộn ràng, ngươi thử nhớ lại xem cái nhớ có nhiều thứ chăng?

– Con đến chỗ ấy tất cả đều chẳng thấy có.

– Ngươi hiểu còn ở cảnh, tín vị thì phải, nhân vị thì chẳng phải. Căn cứ chỗ hiểu của ngươi chỉ được một huyền, được ngồi mặc y, về sau tự xem.

Vị Tăng ấy lễ tạ lui ra.

*

Sư trước ở Ngưỡng Sơn, sau dời về Quan Âm chỉ dạy Tăng chúng làm tiêu chuẩn cho Thiền tông.

Còn vài năm tịch, Sư có làm bài kệ:

Niên mãn thất thập thất

Lão khứ thị kim nhật

Nhậm tánh tự phù trầm

Lưỡng thủ phan quật tất.

(Năm đầy bảy mươi bảy

Chính là ngày tôi đi

Mặc tánh tự chìm nổi

Hai tay ngồi bó gối.)

*

Khi Sư sắp tịch ở tại núi Đông Bình, có vài vị Tăng đứng hầu, Sư nói kệ:

Nhất nhị nhị tam tử

Bình mục phục ngưỡng thị

Lưỡng khẩu nhất vô thiệt

Thư thị ngô tông chỉ.

(Một hai hai ba con

Mắt thường lại ngước xem

Hai miệng một không lưỡi

Đây là tông chỉ ta.)

Nói xong, Sư ngồi hai tay bó gối tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi. Vua ban thụy Trí Thông Thiền sư, tháp hiệu Diệu Quang.

∗ HƯƠNG NGHIÊM TRÍ NHÀN (724-814)

Sư quê ở Thanh Châu, chán tục xuất gia, đi tham vấn các nơi. Khi ở chỗ Tổ Bá Trượng, Sư tánh thức minh mẫn, tham thiền chẳng ngộ. Đến Tổ Bá Trượng tịch, Sư theo tham học với Qui Sơn Linh Hựu.

Một hôm Qui Sơn bảo:

– Ta nghe ngươi ở chỗ Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đó là ngươi thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem?

Sư bị một câu hỏi này mờ mịt không đáp được. Trở về liêu, Sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp trọn không thể có. Sư than: “Bánh vẽ chẳng no bụng đói.” Đến cầu xin Qui Sơn nói phá. Qui Sơn bảo:

– Nếu ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc của ta, đâu can hệ gì đến ngươi?

Sư bèn đem những sách vở đã thu thập được đồng thời đốt hết. Sư nói: “Đời này chẳng học Phật pháp nữa, chỉ làm Tăng thường làm việc cơm cháo, khỏi nhọc tâm thần.”

Sư khóc từ giã Qui Sơn ra đi.

*

Thẳng đến Nam Dương chỗ di tích Quốc sư Huệ Trung. Sư trụ tại đây.

Một hôm nhân cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng, Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Sư trở về tắm gội thắp hương nhắm hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng rằng: “Hòa thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay.”

Sư làm bài tụng:

Nhất kích vong sở tri

Cách bất giả tu trì.

Động dung dương cổ lộ

Bất đọa thiểu (tiểu) nhiên ki (cơ).

Xứ xứ vô tung tích

Thanh sắc ngoại oai nghi.

Chư nhân đạt đạo giả

Hàm ngôn thượng thượng ki (cơ).

(Một tiếng quên sở tri

Chẳng cần phải tu trì.

Đổi sắc bày đường xưa

Chẳng rơi cơ lặng yên.

Nơi nơi không dấu vết

Oai nghi ngoài sắc thanh.

Những người bậc đạt đạo

Đều gọi thượng thượng cơ.)

*

Qui Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn: “Kẻ này đã triệt ngộ.”

Ngưỡng Sơn thưa: “Đây là máy tâm ý thức trước thuật được, đợi con đến nơi khám phá mới chắc.”

Ngưỡng Sơn đến thăm Sư, bảo:

– Hòa thượng khen ngợi Sư đệ đã phát minh đại sự, thử nói tôi nghe?

Sư đọc bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe. Ngưỡng Sơn bảo:

– Đó là do trước kia học tập ghi nhớ mà thành, nếu thật chánh ngộ hãy làm bài tụng khác.

Sư nói tụng:

Khứ niên bần vị thị bần

Kim niên bần thủy thị bần

Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa

Kim niên bần chùy dã vô.

(Năm xưa nghèo chưa thật nghèo

Năm nay nghèo mới thật nghèo

Năm xưa nghèo vẫn còn có đất cắm dùi

Năm nay nghèo dùi cũng không.)

Ngưỡng Sơn bảo:- Sư đệ ngộ Như Lai thiền mà chưa ngộ Tổ sư thiền.

Sư lại nói bài tụng:

Ngã hữu nhất ki (cơ)

Thuấn mục thị y

Nhược nhân bất hội

Biệt hoán Sa-di

(Ta có một ki (cơ)

Chớp mắt chỉ y

Nếu người chẳng hội

Riêng gọi Sa-di.)

Ngưỡng Sơn gật đầu và về thưa lại Qui Sơn:

– Đáng mừng! Sư đệ Trí Nhàn đã ngộ Tổ sư thiền.

*

Sau, Sư về trụ tại Hương Nghiêm, Tăng chúng nghe danh kéo nhau đến tham vấn.

Sư thượng đường:

– Đạo do ngộ mà đạt, chẳng tại ngữ ngôn, huống là thấy miên mật rỡ rỡ chưa từng cách rời, chẳng nhọc tâm ý. Tạm nhờ hồi quang phản chiếu, hằng ngày công dụng trọn vẹn, kẻ mê thì tự trái.

*

Tăng hỏi:

– Khi chẳng mộ chư thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?

Sư đáp:- Muôn cơ thôi bỏ, ngàn thánh chẳng đeo.

Khi ấy có Sơ Sơn ở trong chúng phát tiếng ụa, hỏi:

– Ấy là tiếng gì?

Sư hỏi:- Ai đó?

Chúng thưa:- Sư thúc.

Sư hỏi:- Chẳng bằng lòng Lão tăng sao?

Sơ Sơn bước ra nói:- Phải.

Sư hỏi:- Ngươi nói được chăng?

Sơ Sơn nói:- Nói được.

– Ngươi thử nói xem.

– Nếu bảo tôi nói cần phải đáp lại lễ thầy trò mới được.

Sư liền bước xuống tòa lễ bái, hỏi lại câu trước.

Sơ Sơn nói:

– Sao chẳng nói, khẳng (nhận) trọng chẳng được toàn.

Sư bảo:

– Ngươi nói thế ấy, ba mươi năm tiêu ngược, dù ở núi không có củi đốt, ở gần nước không có nước uống. Rõ ràng nhớ lấy! (Sau Sơ Sơn bị bệnh mửa hai mươi bảy năm mới bớt, còn ba năm sau mỗi khi ăn xong cũng lấy tay móc cho mửa ra. Đúng như lời Hương Nghiêm thọ ký.)

*

Tăng hỏi: “Thế nào là đạo?”

Sư đáp: “Rồng ngâm trong cây khô.”

– “Con chẳng hội.”

Sư bảo: “Tròng con mắt trong đầu lâu.”

Hỏi: “Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Hòa thượng nói?”

Sư đáp: “Trước thợ săn chẳng được nói giới của Bổn sư.”

*

Sư bảo chúng:- Ví như người leo lên cây cao, dưới là vực thẳm ngàn thước. Người ấy miệng ngậm cành cây, chân không đạp chỗ nào, tay không bám vào đâu. Chợt có người đến hỏi “ý Tổ sư từ Ấn Độ sang”. Nếu mở miệng đáp thì mất mạng nát thân, bằng chẳng đáp thì phụ lòng người hỏi. Chính khi ấy phải làm sao?

Khi ấy có Thượng tọa Chiêu bước ra thưa:

– Chẳng hỏi khi đã leo lên cây, lúc chưa leo lên cây thì thế nào?

Sư cười rồi thôi.

*

Có vị Tăng từ Qui Sơn đến, Sư hỏi: “Những ngày gần đây Hòa thượng có dạy những câu gì?”

Tăng thưa: “Có người hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang, Hòa thượng liền dựng đứng phất tử.”

Sư hỏi tiếp: “Trong ấy huynh đệ hiểu ý Hòa thượng thế nào?”

Tăng thưa: “Trong ấy bàn với nhau rằng ‘chính nơi sắc mà rõ được tâm, gá nơi vật mà hiển được lý’.”

Sư bảo: “Hội thì liền hội, chẳng hội mắc kẹt nơi ấy, chết gấp.”

Tăng lại hỏi Sư: “Ý Thầy thế nào?”

Sư liền giở phất tử lên.

Sư có làm bài kệ:

Tử thốt mẫu trác

Tử giác mẫu xác

Tử mẫu câu vong

Ứng duyên bất thát

(Con kêu mẹ mổ

Con biết mẹ vỏ

Con mẹ đều quên

Hợp duyên chẳng lố.)

*

Sư tùy cơ dạy chúng những lời đơn giản, và có làm trên hai trăm bài tụng đối cơ ứng dụng không theo qui luật, các nơi truyền bá rất thạnh.

∗ THIỀN SƯ THƯỜNG THÔNG ở núi Tuyết Đậu (834-905)

Sư họ Lý quê ở Hình Châu, vào núi Thước xuất gia. Năm hai mươi tuổi, Sư trở về chùa Khai Nguyên ở bổn Châu thọ giới, ở đây học kinh luật bảy năm.

Sư tự than: “Ma-đằng sang Hán dịch ra văn này, Đạt-ma đến Lương nói rõ việc gì?”

Sư bèn cất bước du phương, đến tham vấn Hòa thượng Trường Sa.

Trường Sa hỏi:- Ngươi người ở xứ nào?

Sư thưa:- Ở Hình Châu.

– Ta bảo chẳng phải từ kia đến.

– Hòa thượng đã từng ở đây chăng?

Trường Sa chấp nhận, cho vào thất.

Sau, Sư đến Động Sơn, Thạch Sương thấy pháp không có vị khác. Đến niên hiệu Hàm Thông, Sư dạo Tuyên Thành, Quận thú lập Thiền uyển nơi núi Ta Tiên để hiệu Đoàn Thành Viện thỉnh Sư trụ trì. Tăng chúng tìm đến tham vấn

*

Tăng hỏi: “Thế nào là mật thất?”

Sư đáp: “Chẳng thông gió.”

Tăng hỏi: “Thế nào là người trong mật thất?”

Sư đáp: “Các thánh tiên xem chẳng thấy.”

Lại nói: “Ngàn Phật không thể nghĩ, muôn thánh chẳng thể bàn, càn khôn hoại mà không hoại, hư không bao mà chẳng bao, tất cả so sánh không bằng, ba đời xướng mà chẳng khởi.”

*

Khoảng niên hiệu Quang Khải (883-885) giặc cướp nổi loạn, Sư đem đồ chúng đến Tứ Minh. Đến niên hiệu Đại Thuận năm thứ hai (891), Quận thú thỉnh Sư ở núi Tuyết Đậu, ở đây sự giáo hóa được hưng thạnh.

*

Niên hiệu Thiên Hựu năm thứ hai (905) tháng bảy, Sư có chút ít bệnh, nhóm chúng thắp hương phó chúc xong, chắp tay thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.

∗ NI LIỄU NHIÊN ở Mạt Sơn (?-?)

Hòa thượng Quán Khê Nhàn đi du phương đến núi này, tự nói: “Nếu tương đương thì ở, chẳng vậy thì xô ngã giường thiền.”

Nhàn vừa vào Tăng đường, Liễu Nhiên sai thị giả đến hỏi: “Thượng tọa du phương đến? hay vì Phật pháp đến?”

Nhàn đáp: “Vì Phật pháp đến.”

Liễu Nhiên lên tòa, Nhàn đến tham. Liễu Nhiên hỏi: “Hôm nay Thượng tọa rời ở đâu đến?”

Nhàn đáp: “Rời cửa đường đến.”

Liễu Nhiên bảo: “Sao chẳng đậy lại?”

Nhàn không đáp được, mới lễ bái hỏi: “Thế nào là Mạt Sơn?”

Liễu Nhiên đáp: “Chẳng bày đảnh.”

Nhàn hỏi: “Thế nào chủ Mạt Sơn?”

Nhiên đáp: “Chẳng phải tướng nam nữ.”

Nhàn nạt rằng: “Sao chẳng biến đi?”

Nhiên đáp: “Chẳng phải thần, chẳng phải quỉ, biến cái gì?”

Nhàn mới kính phục, ở lại làm Tri viên ba năm.

*

Có vị Tăng đến tham vấn, Nhiên bảo: “Rất lam lũ vậy?”

Tăng đáp: “Tuy nhiên như thế vẫn là sư tử con.”

Nhiên bảo: “Đã là sư tử con, vì sao bị Văn-thù cỡi?”

Tăng không đáp được.

Tăng hỏi: “Thế nào là tâm cổ Phật?”

Nhiên đáp: “Thế giới nghiêng đổ?”

Tăng hỏi: “Thế giới vì sao nghiêng đổ?”

Nhiên đáp: “Trọn không thân ta.”

∗ ĐỨC SƠN TUYÊN GIÁM (780-865)

Sư họ Chu quê ở Kiếm Nam, Giản Châu, xuất gia lúc hai mươi tuổi, cũng năm ấy thọ giới cụ túc. Sư nghiên cứu tinh thâm Luật tạng, thông suốt chỉ thú các kinh thuộc Tánh tông và Tướng tông. Vì thường giảng kinh Kim Cang Bát-nhã, nên thời nhân gọi Sư là Chu Kim Cang. Sư thường nói với đồng học: “Một sợi lông nuốt bể cả, tánh bể không thiếu; hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động, học cùng không học chỉ có ta biết thôi.”

Nghe phương Nam Thiền tông thạnh hành, Sư bất bình nói: “Kẻ xuất gia muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật, chẳng còn được thành Phật. Những kẻ ma ở phương Nam dám nói ‘trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật’. Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt hết những giống ấy để đền ơn Phật.”

Sư bèn khăn gói lên đường mang theo bộ Thanh Long sớ sao, ra khỏi đất Thục, nhắm Lễ Dương tiến bước.

Trên đường, Sư gặp một bà già bán bánh, bèn dừng nghỉ chân và bảo bà lấy ít cái bánh điểm tâm. Bà già chỉ gánh của Sư hỏi: “Gói ấy là sách vở gì?”

Sư bảo: “Thanh Long sớ sao.”

Bà hỏi: “Thầy thường giảng kinh gì?”

Sư đáp: “Kinh Kim Cang.”

Bà nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu Thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp chẳng được, mời Thầy đi nơi khác?”

Sư chịu. Bà hỏi: “Kinh Kim Cang nói ‘quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc’, xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào?”

Sư đáp không được, bèn hỏi đường lên Long Đàm.

*

Đến Pháp đường (nhà nói pháp) gặp Long Đàm, Sư nói: “Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi Đàm (đầm) chẳng thấy, mà Long (rồng) cũng không hiện.”

Sùng Tín bảo: “Ngươi đã gần đến Long Đàm.”

Sư không đáp được, liền dừng lại đây.

*

Một đêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín bảo: “Đêm khuya sao chẳng xuống?”

Sư kính chào bước ra, lại trở vào, thưa: “Bên ngoài tối đen.”

Sùng Tín thắp đèn cầy đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ, liền lễ bái. Sùng Tín hỏi: “Ngươi thấy cái gì?”

Sư thưa: “Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng trong thiên hạ.”

Hôm sau, Sùng Tín lên tòa bảo chúng:

– Trong chúng đây có một gã răng như kiếm bén, miệng tợ chậu máu, đánh một gậy chẳng ngó lại, khi khác y lên ngọn núi cao vót dựng lập đạo của ta.

*

Sư đem bộ sớ sao chất đống trước pháp đường (nhà nói pháp) nổi lửa đốt, nói:

– Tột cùng các biện luận siêu huyền như một sợi lông ném trong hư không; hết sạch các trọng yếu ở đời in một nhỏ nước gieo trong hồ lớn.

Sư lễ từ Sùng Tín đi du phương.

*

Đến Qui Sơn, Sư vào pháp đường từ phía tây đi qua phía đông, lại từ phía đông sang phía tây, hỏi: “Có chăng? Có chăng?”

Qui Sơn ngồi lặng lẽ không ngó tới. Sư nói: “không, không”, liền đi thẳng ra cửa tự nói: “Tuy nhiên như thế cũng chẳng đặng thô xuất.”

Sư bèn đầy đủ oai nghi đi trở vào. Vừa bước ra cửa, Sư đưa tọa cụ lên, gọi: “Hòa- thượng”, Qui Sơn toan nắm phất tử, Sư liền hét, phủi áo ra đi.

Chiều, Qui Sơn hỏi Thủ tọa: “Vị Tăng mới đến khi sáng còn ở chăng?”

Thủ tọa thưa: “Ngay khi đó, y trở ra pháp đường mang giày cỏ đi luôn.”

Qui Sơn bảo: “Gã ấy về sau, lên tận ngọn núi cao, cất am cỏ ở, để rồi quở Phật mắng Tổ.”

Sư dừng lại Lễ Dương 30 năm. Gặp lúc Đường Võ Tôn phế giáo, Sư tị nạn ở một mình trong thạch thất tại Phù Sơn. Đến thời Đại Trung năm đầu (847), Thái thú tên Tiết Đình Vọng tái trùng tu tịnh xá Đức Sơn để hiệu là Cổ đức Thiền viện, tìm kiếm những vị đạo hạnh trụ trì. Nghe tiếng Sư, Đình Vọng nhiều phen đến thỉnh, Sư chẳng chịu xuống núi. Đình Vọng lập kế, lấy trà, muối đến phao vu Sư phạm cấm pháp, điệu Sư về Châu chiêm lễ. Đình Vọng cố thỉnh cho được Sư ở Đức Sơn. Sau cùng Sư chấp nhận. Ở đây, Sư xiển dương Tông phong rất thạnh.

*

Sư thượng đường bảo chúng:

– Nơi mình vô sự thì chớ vọng cầu, vọng cầu mà được cũng chẳng phải được. Các ông chỉ vô sự nơi tâm, vô tâm nơi sự thì hư (rỗng) mà linh (lanh lẹ), không mà diệu.

Nếu có nói gốc ngọn chừng đầu mảy lông đều là tự dối. Còn có mảy may nghĩ nhớ, là nghiệp nhân tam đồ. Bất chợt sanh tình (vọng khởi) là muôn kiếp bị khóa kín (địa ngục). Danh thánh hiệu phàm trọn là tiếng rỗng, tướng đặc biệt hình xấu xa đều là sắc huyễn. Các ông muốn cầu đó, mà không bị lụy sao? Và các ông chán đó, lại thành bệnh lớn? Cả hai đều là vô ích.

*

Sư thượng đường bảo:

– Hôm nay tối không được thưa hỏi, ai thưa hỏi sẽ ăn ba mươi gậy.

Khi ấy có một vị Tăng bước ra lễ bái, Sư liền đánh. Tăng ấy thưa:

– Con chưa thốt ra lời hỏi, vì sao Hòa thượng đánh con?

Sư hỏi:- Ông là người xứ nào?

– Con người Tân La (Triều Tiên).

Sư bảo:- Ông khi chưa xuống thuyền đã đáng ăn ba mươi gậy rồi.

*

Long Nha hỏi:

– Khi con cầm kiếm Mạc Da toan chặt đầu Thầy thì sao?

Sư đưa cổ đến trước. Long Nha nói: “Rơi.”

Sư cuời hả! hả!

Sau, Long Nha đến Động Sơn, thuật lại việc ấy. Động Sơn hỏi: “Đức Sơn nói thế nào?”

Long Nha thưa: “Đức Sơn không nói.”

Động Sơn bảo: “Chớ nói Đức Sơn không nói, hãy đem đầu Đức Sơn trình Lão tăng xem?”

Long Nha biết lỗi xin sám hối.

Có người đem việc ấy thuật lại Sư, Sư bảo: “Ông già Động Sơn không biết tốt xấu, gã ấy đã chết được bao lâu, cứu được chỗ dụng gì?”

*

Sư thượng đường bảo: “Hỏi tức có lỗi, chẳng hỏi lại trái.”

Có vị Tăng bước ra lễ bái. Sư liền đánh. Tăng thưa: “Con mới lễ bái vì sao Hòa thượng đánh?”

Sư bảo: “Đợi ngươi mở miệng làm gì kịp.”

*

Sư sai thị giả gọi Nghĩa Tồn, Nghĩa Tồn đến, Sư bảo: “Ta bảo kêu Nghĩa Tồn, ngươi đến làm gì?”

Nghĩa Tồn không đáp được.

*

Sư thấy vị Tăng đến, liền đóng cửa. Vị Tăng gõ cửa. Sư hỏi: “Ai?”

Tăng thưa: “Sư tử con”.

Sư mở cửa. Tăng lễ bái. Sư liền leo lên cổ cỡi, nói: “Súc sanh này từ xứ nào đến?”

*

Tuyết Phong Nghĩa Tồn hỏi: “Tông thừa từ trước, riêng con có phần chăng?”

Sư đánh một gậy, bảo: “Nói gì?”

Nghĩa Tồn thưa: “Chẳng hội.”

Hôm sau, giờ thưa hỏi, Sư nói: “Tông của ta không cầu lời, thật không có một pháp dạy người.”

Tuyết Phong nhân câu này được tỉnh.

*

Sư dạy chúng:

– Các ông từ sáng đến chiều có việc gì? chẳng cần trình môi lừa, mỏ ngựa hỏi Lão già Đức Sơn sao? Ta chẳng sợ các ông, chưa biết các ông có những nghi vấn gì?

Gần đây trong thời kỳ mạt pháp, có rất nhiều bọn quỉ thần ở nhà bên nói rằng “ta là Thiền sư”. Chẳng biết học được bao nhiêu thiền đạo, nói tương tợ cho Lão tăng nghe? Các ông! Những lão trọc ở mọi nơi dạy các ông tu hành thành Phật, chạy bên ngoài thành được bao nhiêu ông Phật? Các ông nếu không thể học, lại chạy tìm cái gì? Nếu có học các ông thử đem cái học được trình cho Lão tăng xem? Một câu chẳng tương đương phải ăn một gậy đau điếng mới được.

Các ông bị những lão trọc mọi nơi dùng ma mị làm bệnh, nói ta là người tu hành, làm ra hình thức in tuồng bộ mặt người đắc đạo. Chớ có nhận dụng tâm như thế, muôn kiếp ngàn đời luân hồi trong tam giới đều là “Có tâm”. Vì cớ sao? Vì tâm sanh thì các thứ pháp sanh. Nếu khéo một niệm chẳng sanh thì hằng thoát khỏi sanh tử, chẳng bị sanh tử trói buộc, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, lại còn có việc gì?

*

Nhân giả! Ta thấy các ông phát tâm đến trong hội những lão trọc học Phật pháp, gánh vác chẳng tiếc thân mạng, rốt cuộc các ông đều bị đâm đui mắt, đoạn đứt mạng căn. Có vài ba trăm kẻ tương tợ dâm nữ, nói: “Ta làm hóa chủ dựng lập pháp tràng, vì người sau mở mắt cho họ”. Kẻ ấy tự cứu được chăng?

Nhân giả! Nói tu hành như thế, các ông đâu chẳng nghe Lão Hồ (ông già Ấn Độ, chỉ Phật) trải ba kiếp A-tăng-kỳ tu hành mà nay còn đâu? Sau tám mươi năm chết mất, cùng các ông có khác gì?

Các ông chớ cuồng! Khuyên các ông không gì hơn THÔI HẾT đi, VÔ SỰ đi. Tâm vừa khởi một niệm tức là quyến thuộc nhà ma, là kẻ tục phá giới.

Các ông thấy Đức Sơn ra đời năm năm, mười năm, đồng nghĩ tụ họp nhau đến nạn vấn, mong ta đớ lưỡi không lời. Các ông thật là bọn lâu la. Sao nay chẳng để cây dùi xoi phủng đãy đựng, xuất đầu hay chẳng xuất đầu là tốt, ta cần hỏi thật các ông , chớ lầm.

*

Nhân giả! Các ông chạy lăng xăng bên nhà ngoài, nói “ta hiểu thiền, hiểu đạo”; chỉ ngực, chỉ sườn, khen ngợi, trịnh trọng. Những cái ấy cần phải mửa hết mới được Vô Sự.

Các ông chỉ cần ngoài không mắc thanh sắc, trong không hiểu biết năng sở. Vì thể không phàm thánh, lại học cái gì? Dù học được trăm ngàn diệu nghĩa, chỉ là con quỉ ăn ghẻ bướu, thảy đều là tinh mị. Ta trong ấy rỗng thênh, nói có chẳng phải có, nói không chẳng phải không, nói phàm chẳng phàm, nói thánh chẳng thánh, tất cả chỗ để y chẳng được, mà làm thầy muôn pháp, cái ấy ta chẳng dám chê y.

Sở dĩ Lão Hồ (Phật) mửa ra bao nhiêu phương tiện đàm dãi dạy các ông VÔ SỰ đi, chớ nhằm bên ngoài tìm. Các ông lại chẳng nhận, muốn được gom góp những ngôn cú thù thắng, dồn trong hông trong ngực, nói lời khéo léo, lấy đầu lưỡi biện đến quần vải, cốt mong cho người biết, nói ta là Thiền sư, mong có chỗ xuất đầu lộ diện. Nếu có kiến giải như thế là con quỉ ở xương trôn, có ngày sẽ vào địa ngục Bạt thiệt. Đến đó rồi, tìm người nói ta là Thiền sư đi!

Kẻ khách trong nhà thiền vừa bị người hỏi đến việc bổn phận, miệng in cây cọc, liền trở lại nói với họ Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát, dẫn rộng trong ba tạng, nói giáo là thiền là đạo, dối gạt người chung quanh, có gì là dính dáng, chê bai tiên Tổ của ta.

Chỗ thấy của lão Đức Sơn này chẳng phải thế, trong ấy Phật cũng không, pháp cũng không; Đạt-ma là ông già Hồ tanh hôi, Bồ-tát thập địa là kẻ gánh phẩn, Đẳng giác Diệu giác là kẻ phàm phu phá giới, Bồ-đề Niết-bàn là cây cọc cột lừa, mười hai phần giáo là bộ sổ của quỉ thần, là giấy lau ghẻ, Tứ quả Tam hiền Sơ tâm Thập địa là quỉ giữ mồ xưa, tự cứu được chăng? Phật là cục phân của ông già Hồ (Ấn).

*

Nhân giả! Chớ lầm thân mặc áo ghẻ bướu, học việc gì? Ăn cơm no rồi, nói chân như Niết-bàn, ngoài da lại có máu chăng? Cần phải có ý khí trượng phu mới được.

Các ông chớ mến thánh, thánh là danh từ rỗng. Đến tam giới mười phương thế gian, nếu có một hạt bụi, một pháp thật để cho các ông nhận lấy, sanh hiểu gìn giữ quí trọng, trọn rơi vào thiên ma ngoại đạo, ấy là có học được, cũng là bọn tinh mị dã hồ nương cỏ dựa cây.

Các ông! Khoảng này không có một pháp cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng hội thiền. Ta cũng chẳng phải thiện tri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa đi đái, ăn cơm mặc áo, còn có việc gì?

Lão Đức Sơn này khuyên các ông chi bằng giữ bổn phận đi, sớm thôi dứt đi, chớ học cuồng loạn, mỗi người gánh tử thi một cách linh hoạt đi. Các lão trọc trong miệng ưa ăn đàm dãi của người, nói “ta là người vào tam giới tu hạnh uẩn tích, nuôi lớn thai thánh, nguyện thành quả Phật”. Những bọn như thế, Lão Đức Sơn này thấy như tên độc bắn vào tim, kim châm vào mắt, đã cô phụ tiên Tổ, làm lụy Tông đồ của ta. Họ nói “ta là kẻ xuất gia”, như thế ăn tiêu của thí chủ mười phương, thật sự một giọt nước cũng chẳng tiêu đặng, còn chẳng dám đi trên đất quốc vương, cha mẹ không nuôi món ngon vật lạ, đâu phải là không việc. Chớ lầm dụng tâm, vua Diêm-la sẽ thăm hỏi ngươi, sẽ xỏ mũi ngươi trói vào cột trụ để đền lại nợ trước. Chớ bảo Lão tăng chẳng nói.

Các ông thật là có phước gặp Đức Sơn ra đời, vì các ông cổi dây trói buộc, thoát khỏi lồng giam, gỡ khỏi lưng ngựa, được làm người tốt, tam giới lục đạo bắt ông chẳng được. Lại không có pháp khác. Cái sáng rỡ rỗng rang không ngại tự tại ấy, chẳng phải vật do các ông trang nghiêm được. Từ Phật đến Tổ đều truyền pháp này mà được xuất ly. Một Đại tạng kinh chỉ là chỉnh lý các ông hiện thời.

Các ông chớ nhằm chỗ khác tìm kiếm, cho đến Đạt-ma – vị Tăng nước Hồ con mắt xanh nhỏ – đến xứ này cũng chỉ dạy các ông Vô Sự đi, dạy các ông chớ tạo tác, mặc áo ăn cơm, đi ỉa đi đái, lại không có sanh tử đáng sợ, cũng không Niết-bàn nên được, không Bồ-đề để chứng, chỉ là tầm thường một người Vô Sự.

Nhất là, chớ khoanh tay làm Thiền sư, tìm chỗ xuất đầu, dùng lời khéo léo lừa gạt kẻ hậu sanh, muốn được người gọi mình là Trưởng lão, trên phần của chính mình không chút dính dáng, vẫn là tâm thức lăng xăng ngày đêm tác quái chẳng dừng, tán thán trịnh trọng ta là tông đồ của Mã Đại sư ở Giang Tây.

Lão Đức Sơn này chẳng phải thế.

Này hết thảy các ông! Ta thấy Hòa thượng Thạch Đầu ông già không biết tốt xấu, sở dĩ mắng các đồ đệ: “Các ngươi chớ mắc nơi thanh sắc, danh ngôn, cú nghĩa, cảnh trí, cơ quan, đạo lý thiện ác, phàm thánh, thủ xả, phan duyên, nhiễm tịnh, minh ám, hữu vô, trong các cái đáng nghĩ, được thế mới phải là người Vô Sự. Phật cũng chẳng bằng ngươi, Tổ cũng chẳng bằng ngươi.”

*

Nhân giả! Chớ chạy mòn gót chân các ông, không có thiền đạo nào khác có thể học. Nếu có học được, tức là hai đầu ba cổ, là kiến giải của ngoại đạo.

Cũng không có thần thông biến hóa thật. Nếu ông nói thần thông là thánh thì chư thiên, long thần, tiên, ngoại đạo được ngũ thần thông và tu-la cũng có thần thông, lý ưng là Phật sao?

Ở trên đảnh núi một mình, ngày ăn một bữa, ngồi mãi chẳng nằm, sáu thời lễ tụng, vẫn còn hồ nghi sanh tử. Lão Hồ (Phật) có nói: “các hạnh vô thường là pháp sanh diệt”. Nếu nói nhập định ngưng thần tịnh lự mà được, bọn Ni-kiền-tử v.v… các thầy ngoại đạo cũng nhập được đại định tám muôn kiếp, đâu chẳng phải là Phật ư? Phải biết rõ tà kiến tinh mị.

*

Nhân giả! Lão Hồ chẳng phải Thánh. Phật là cục cứt của Lão Hồ. Cần thiết nhân giả biện rành tốt xấu, chớ mắc nhân ngã thì khỏi bị chư thánh cột, Bồ-đề cột, giải thoát, thù thắng, danh ngôn, diệu nghĩa nhận chìm, trói buộc. Vì cớ sao? – Vì một niệm vọng tâm chẳng sạch tức là sanh tử tiếp nối.

Nhân giả! Thời giờ chẳng đợi người, chớ để trôi qua tháng ngày, thời gian đáng tiếc. Lão tăng chẳng mong các ông làm kẻ tớ gánh vác ruộng nhà.

Nếu các ông chấp nhận thì tin lấy, nếu chẳng chấp nhận thì mỗi người có một cái bát mang lên vai mà đi. Lão tăng cũng chẳng cần các ông.

Các lão trọc ở mọi nơi, một người chiếm cứ một xứ, nói thiền nói đạo, các ông mau đi học lấy chép lấy. Ta trong đây không có một pháp cho các ông.

Nhân giả! Hỏi lấy học lấy để làm tri giải, Lão tăng không thể vào địa ngục Bạt thiệt. Nếu có một hạt bụi, một pháp chỉ dạy cho người, nói rằng có Phật có pháp, có tam giới để ra, đều là dã hồ tinh mị.

*

Chư nhân giả! Muốn được biết chăng? Chỉ là cái rỗng không, còn không có một mảy bụi có thể được, nơi nơi thanh tịnh, sáng rỡ rỗng suốt, trong ngoài đều sáng suốt, vô sự, vô y, không chỗ nương gá thì có việc gì? Lão tăng từ sanh đến tử chỉ là Lão tỳ-kheo, tuy sanh trong tam giới mà không cấu nhiễm, còn muốn được ra khỏi chỗ nào? Dù có chỗ đi, cũng là lồng bẫy, ma sẽ có cơ hội thuận tiện.

Nhân giả! Chớ dụng thân tâm, vì không thể được, chỉ cần trong tất cả thời chớ kẹt nơi thanh sắc, cốt phải những hành lý từ trước một lúc ném hết, chóng thoát xiềng xích, hằng lìa cái (ngũ cái) triền (thập triền). Một niệm không sanh thì mé trước mé sau dứt, không nghĩ không nhớ, không một pháp hợp tình.

*

Nhân giả! Làm sao cắm mỏ xuống, các ông nhiều tri giải, đã từng biết mặt mày y chăng? Kẻ xuất gia, cho đến bậc Bồ-tát thập địa mãn tâm tìm dấu vết của y cũng chẳng được. Do đó, chư thiên hoan hỉ, địa thần đỡ chân, mười phương chư Phật khen ngợi, ma vương khóc lóc. Vì cớ sao? Bởi cái rỗng không này hoạt bát rạng ngời, không cội gốc, không chỗ nơi. Nếu người đến được trong ấy, con mắt đứng chớp đều không liên hệ.

*

Nhân giả! Chớ cầu Phật, Phật là kẻ giặc đại sát nhân lừa bao nhiêu người rơi vào hầm ma dâm. Chớ cầu Văn-thù Phổ Hiền, là kẻ tớ ruộng nhà.

Đáng tiếc, là bậc trượng phu đường đường mà uống thuốc độc của người. Bèn toan làm Thiền sư, trước mặt thấy thần thấy quỉ, về sau cuồng loạn chạy sang nhà bên tìm Sư bà đập ngói bói cho. Bị các lão trọc vô tri, xủ quẻ bảo lễ quỉ Tổ sư, quỉ Phật, quỉ Bồ-đề Niết-bàn. Kẻ dâm nữ nhỏ ấy chẳng hội, liền hỏi “thế nào là ý Tổ sư từ tây sang”, lão trọc kia liền đánh giường thiền làm cảnh, hoặc dựng phất tử, bảo “trời trong tốt, mưa tốt, lồng đèn tốt”, lời lẽ khéo léo gượng làm tiết mục, có huyền lộ, điểu đạo, xè tay. Nếu nhận những lời nói như thế, khác nào đem bát báu đựng đồ dơ, như đem phẩn làm hương chiên-đàn.

*

Nhân giả! Kia đã là trượng phu, ta cũng vậy, khiếp nhược với ai? Mà trọn ngày đến các lão trọc mọi nơi nhận lấy đàm dãi của họ, trọn không biết hổ thẹn. Khổ thay! Khổ thay! Làm cuồng loạn ngươi, nhân quả rõ ràng sẽ làm thân trâu kéo cày mang bừa.

Hoặc kẻ tròng mắt chợt hiện, khí lực chẳng thêm, dùng gậy to đập xương sống ông, ăn cướp áo cơm của Phật, nói “ta tu hành xong”.

*

Sư dạy chúng:

– Có khi cỡi đầu cọp nắm đuôi cọp, câu thứ nhất rõ tông chỉ, khi không nói thấy bày cơ phong, như đồng điện chớp.

*

Sư có bệnh, Tăng hỏi: “Lại có cái chẳng bệnh chăng?”

Sư đáp: “Có.”

Tăng hỏi: “Thế nào là cái chẳng bệnh?”

Sư bảo: “Ôi da! Ôi da!”

Sư lại bảo chúng:

– Chụp không tìm tiếng luống nhọc tâm thần các ngươi; mộng tỉnh, tỉnh rồi trọn không có việc gì.

Nói xong, Sư ngồi yên mà tịch. Nhằm đời Đường niên hiệu Hàm Thông năm thứ sáu (865), ngày mùng ba tháng chạp năm Ất Dậu. Sư thọ tám mươi sáu tuổi. Vua sắc thụy Kiến Tánh Đại sư.

– LỜI DỊCH GIẢ

Chúng tôi cố tránh né không dám lạm bàn những ngôn ngữ và hành động của chư Thiền đức. Bởi lẽ không muốn độc giả nhai lại những bã xác mía khô, để mỗi độc giả tự thưởng thức vị cam lồ của chính mình phát minh.

Nhưng, qua ngôn ngữ của ngài Đức Sơn, nếu chúng tôi không bàn e có nhiều độc giả hiểu lệch lạc, khiến bản nguyện của chúng tôi không đạt được, mà có thể trái lại là khác. Do đó, chúng tôi có ít lời bình như sau:

Đức Sơn là một ngôi sao sáng trong Thiền môn vào thời Đường mạt.

Những Thiền sinh đến tham vấn đa số được Ngài cho ăn gậy. Mỗi khi thượng đường dạy chúng, Ngài thường dùng những ngôn ngữ táo bạo, mà người ta gọi là “mắng Phật mạ Tổ”.

Vì sao Đức Sơn có hành động ngôn ngữ ấy? Bởi lẽ, Ngài quá NHIỆT TÌNH, nói theo danh từ nhà Thiền có “tâm lão bà”. Chúng ta thấy, khi Ngài cất gánh kinh lên vai sang phương Nam, không vì tìm hiểu thiền, mà cốt “tiêu diệt chúng ma quái (Thiền tông) để báo ân Phật”. Tâm niệm ấy, đã nói lên Ngài là sứ giả của Luật, Giáo. Luật, Giáo là lý tưởng tối thượng đời Ngài phải phụng thờ. Như vậy, Ngài sang phương Nam với NHIỆT TÌNH hộ pháp “tồi tà phụ chánh” (dẹp tà giúp chánh).

Sau khi gặp Long Đàm, lý tưởng tối thượng của Ngài tôn thờ đã trở thành hình ảnh chết, là cặn bã của người xưa. Chí nguyện “tồi tà phụ chánh” của Ngài đã tan biến như mây khói, hay ngược lại chính Ngài tự thấy mình là nguời “phụ tà tồi chánh” (giúp tà dẹp chánh). Đột biến bất thần ấy, khiến Ngài mang gánh kinh ra trước pháp đường thiêu sạch.

Có ngồi nhà giam mới biết thương những người bị giam, đó là NHIỆT TÌNH của Đức Sơn qua giai đoạn hai.

Thiền, Đạo là cái linh minh hiện hữu nơi mình. Song vừa khởi tâm tìm nó liền mất, mong thấy nó đã chẳng hiện. Nó không phải những văn tự khô cằn, cũng không phải ngôn ngữ sanh diệt. Bám vào văn tự, vào ngôn ngữ để cầu Thiền cầu Đạo thật là đại sai lầm. Bỏ mình đi cầu Thiền cầu Đạo nơi người, thật là việc “cỡi trâu tìm trâu”, “bính đinh cầu hỏa”.

Nhưng, nhà giam văn tự ngôn ngữ, dây xiềng cầu cạnh bên ngoài đã và đang giam giữ xiềng xích bao nhiêu người có thiện chí học đạo. Do đó, với NHIỆT TÌNH của Đức Sơn phải đập tan nó bằng gậy, mạt sát chúng bằng lời, hầu mong cổi trói cho mọi người. Đúng như lời bình của Vân Môn sau này “chỉ có Đức Sơn mới hay khen ngợi Phật, Tổ”.

Phật, Tổ cố lập mọi phương tiện để phá chấp cho chúng ta. Chúng ta không mượn phương tiện ấy để gột sạch vọng chấp của mình, trái lại bám lấy phương tiện cho là cứu kính, thật là tự lấy dây trói mình. Khi đã bị trói rồi, chạy cầu người khác mở trói. Đó là từ sai lầm này sang sai lầm khác, cả đời lẩn quẩn, làm sao thoát được!

Ai đã có “tâm lão bà” trông thấy thế mà chẳng thương? Huống nữa Đức Sơn là một nạn nhân vừa thoát nạn, trông thấy bạn đồng hành của mình đang bị bao vây, làm sao không có những cái đánh tóe lửa, những lời mắng tét tai, lấy làm phương tiện cứu cấp.

Cho nên, đọc Đức Sơn, chúng ta đừng khó chịu bởi ngôn ngữ và hành động của Ngài, vì biết đó là phương tiện cấp bách, cũng đừng bắt chước ngôn ngữ ấy để phỉ báng Tam Bảo mà phải đọa địa ngục. Chúng ta cần phải học NHIỆT TÌNH của Đức Sơn, và cốt nhận ra chỗ chí yếu mà Ngài muốn chỉ dạy.

Trang trước Mục lục Trang sau

Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.