Thiền Sư Trung Hoa

Đời Thứ 14 Sau Lục Tổ



∗ Thiền sư Chánh Giác hiệu Hoằng Trí ở Thiên Đồng Minh Châu (1069-1135)

Sư họ Lý, quê ở Thấp Châu, mẹ Sư mộng thấy một vị Tăng ở Ngũ Đài cởi chiếc vòng mang vào cánh tay mặt bà. Sau đó, bà thọ thai Sư. Trong lúc mang thai, bà gìn giữ trai giới cẩn mật. Sư sanh ra, cánh tay mặt nổi quầng giống chiếc vòng. Ông nội và cha Sư tham thiền với Thiền sư Phật-đà Tôn đã lâu. Phật-đà chỉ Sư nói với cha Sư rằng: Đứa bé này đạo vận rất tốt, chẳng phải là người ở trong trần ai. Nếu xuất gia ắt làm pháp khí.

Năm mười một tuổi, Sư được độ ở Tịnh Minh Bổn Tông. Năm mười bốn tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Năm mười tám tuổi, Sư đi du phương. Khi sắp ra đi, Sư thưa với ông nội rằng: “Nếu con không phát minh việc lớn, thề không trở về.”

Sư đến Hương Sơn chùa Tịnh Nhơn của Thiền sư Thành. Thiền sư Thành một phen trông thấy Sư liền hứa nhận. Một hôm, Sư nghe vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu “con mắt do cha mẹ sanh hẳn thấy ba ngàn thế giới”, bỗng nhiên có tỉnh. Sư liền đến trượng thất trình bày chỗ ngộ. Thiền sư Thành chỉ hương trên đài hỏi: – Trong đây là vật gì?

Sư thưa: – Là tâm hạnh gì?

Thiền sư Thành hỏi: – Chỗ ngộ của ngươi lại thế nào?

Sư lấy tay vẽ một tướng tròn để trình, lại ném ra phía sau.

Thiền sư Thành nói: – Kẻ đùa hòn đất có giới hạn gì?

Sư thưa: – Lầm!

Thiền sư Thành bảo: – Phải thấy người khác mới được.

Sư thưa: – Vâng! Vâng!

*

Sư đến Thiền sư Tử Thuần Đơn Hà. Đơn Hà hỏi: – Thế nào là chính mình trước không kiếp?

Sư thưa: – Con ếch nuốt trăng nằm đáy giếng, canh ba chẳng mượn cuốn rèm lên.

Đơn Hà bảo: – Chưa phải, nói lại.

suy nghĩ. Đơn Hà đánh một phất tử, nói:

– Lại nói chẳng mượn?

Sư ngay lời nói đó đại ngộ, liền đảnh lễ.

Đơn Hà bảo: – Sao chẳng nói lấy một câu?

Sư thưa: – Ngày nay con mất tiền bị tội.

Đơn Hà bảo: – Chưa rảnh để làm xong, ngươi hãy đi.

Đơn Hà nhận trụ chùa Đại Hồng, cử Sư giữ chức Thư ký. Sau Đơn Hà sai Sư thủ chúng, số người đắc pháp khá đông. Được bốn năm, Sư dời đến Viên Thông. Khi ấy, Thiền sư Chơn Yết mời đến trụ Trường Lô, sai Tăng đi rước Sư. Sư đến, chúng ra nghênh đón, trông thấy y phục của Sư rách rưới đều lấy làm lạ. Chơn Yết sai thị giả đổi giày mới cho Sư. Sư bảo:- Tôi vì giày mà đến sao?

Cả chúng nghe nói hết lòng kính phục cầu thỉnh thuyết pháp. Sư ở lại đây làm Đệ nhất tọa sáu năm.

Sư ra trụ trì chùa Phổ Chiếu ở Thất Châu, kế bổ trụ chùa Viên Thông, chùa Năng Nhơn ở Thái Bình. Sau cùng đến Thiên Đồng ở Trường Lô. Nơi đây chật hẹp, Sư sửa sang khoáng đạt, Tăng chúng đua nhau đến tham vấn rất đông.

thượng đường: Gác vàng rèm sổ ai truyền tin nhà, màn đỏ phủ tối ném chân châu, chính khi ấy thấy nghe có chỗ chẳng đến, nói năng có chỗ chẳng kịp, làm sao thông được tin tức? Mộng về đêm tối mờ mờ sáng, cười chỉ gia phong rực rỡ xuân.

thượng đườngTâm không thể duyên, miệng không thể luận, dù cho lui bước gánh vác, tối kỵ đương đầu chạm húy. Gió mát trăng trong bến đò xưa, thuyền đêm chèo chuyển lưu ly dấy.

thượng đườngKhông kiếp có chân tông, trước tiếng hỏi chính mình, đỏ cùng kế sống mới, trong trắng gia phong xưa, quả thật ngoài tam thừalặng lẽ trong một ấn, trở lại đi dị loại, muôn dòng tự về đông.

thượng đường: Hôm nay là ngày đức Thích-ca đản sanh, Trường Lô chẳng biết nói thiền cùng quí vị vẽ hình tướng, chỉ như khi còn ở trong thai bà Ma-da thì sao? Sư lấy phất tử vẽ tướng này ( ), nói: Chỉ như khi lấy nước trong tắm sắc thân lại thế nào?

Sư lại vẽ tướng này ( ), nói: Khi đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương, tay chỉ trời tay chỉ đất, thành đạo thuyết pháp, thần thông biến hóatrí tuệ biện tài bốn mươi chín năm hơn ba trăm hội, nói xanh luận vàng chỉ Đông vẽ Tây, khi nhập Niết-bàn lại là sao?

Sư vẽ tướng này ( ), lại nói: Nếu là kẻ Thiền tăng đủ mắt ắt là nhận nhau, kia nếu chưa được thế, mỗi mỗi trải qua mới được.

thượng đường, Tăng ra hỏi: – Thế nào là người nhằm đi?

Sư đáp: – Mây trắng gieo khe mất, núi xanh tựa không cao.

Tăng thưa: – Thế nào là người trở lại?

Sư đáp: – Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi, đêm tối xuyên mây vào xóm làng.

Tăng thưa: – Thế nào là người không đi không lại?

Sư đáp: – Gái đá kêu về mộng tam giớingười gỗ ngồi bặt sáu cửa an.

Sư lại nói: – Trong câu sáng tông thì dễ, trong tông biện thấu ắt khó.

im lặng giây lâu nói: Lại hiểu chăng? Gà sương chưa gáy Gia Lâm sáng, thầm lặng hành nhân qua Tuyết Sơn.

Tăng hỏi: – Khi một mảy tơ chẳng mắc thì thế nào?

Sư đáp: – Hợp nhau thuyền khách thảy gay chèo.

Tăng hỏi: – Trong kia việc thế nào?

Sư đáp: – Đao bén búa bén chẻ chẳng vào.

Tăng hỏi: – Khi miệng đãy mở thì thế nào?

Sư đáp: – Mặc tình chận khe lấp suối.

Tăng hỏi: – Khi lý thanh hư cứu kính không thân thì thế nào?

Sư đáp: – Vân màu dấu chưa bày, tin tức khó truyền đến.

Tăng thưa: – Một bước thầm dời huyền lộ chuyển, khắp thân buông thõng kiếp hồ không.

Sư đáp: – Khi đản sanh đến cha, toàn thân không sót chiếu.

Tăng thưa: – Lý đã như thế sự lại thế nào?

Sư đáp: – Rành rẽ kéo về việc phân hóa, mây ứng mười phương lại ngại gì.

Tăng thưa: – Thế ấy thì bụi bụi đều hiện thân bản lai rồi vậy?

Sư đáp: – Thấu tất cả sắc, siêu tất cả tâm.

Tăng thưa: – Như lý như sự lại là thế nào?

Sư đáp: – Rắn chết trên đường thôi chớ đập, chiếc giỏ không đáy bỏ mang về.

Tăng thưa: – Vào chợ khéo thổi dài, về nhà mặc áo ngắn.

Sư đáp: – Người gỗ trên núi ca, gái đá bên khe múa.

thượng đường: – Chư Thiền đức! Người nuốt hết Phật ba đời, vì sao lại mở miệng chẳng được? Người soi thấu bốn thiên hạ, vì sao nhắm mắt chẳng được? Bảo người nhiều bệnh hoạn cùng ông đồng thời niêm xong vậy. Hãy làm sao được thập thành thấu suốt đi. Lại hiểu chăng? Chẻ bể Hoa Sơn sắc nối nhau, khai thấu Hoàng Hà tiến đến biển.

trụ trì được cúng không mừng, cho ra không chán, gặp những năm khó khăn lương thực cạn mà vẫn nuôi hơn vạn chúng. Sư thường quá ngọ không ăn.

Đến niên hiệu Thiệu Hưng (1135) tháng chín năm Đinh Sửu, Sư đi ra mắt quan liêu và đàn việt trong quận, kế đến ra mắt Việt soái Triệu Công để lời từ biệt, ngày bảy tháng mười về núi. Hôm sau, Sư tắm gội mặc y phục ngồi ngay thẳng nói chuyện với chúng. Sư nhìn vị Tăng hầu đòi bút viết thơ, để lại cho Thiền sư Đại Huệ ở Dục Vương việc thỉnh người kế thừa. Thơ kệ rằng:

Mộng huyễn không hoa,

Sáu mươi bảy năm,

Chim trắng khói lặn,

Nước thu tiếp trời.

Sư ném bút liền tịch. Sư thọ sáu mươi bảy tuổi, vua sắc thụy là Hoằng Trí, tháp hiệu Diệu Quang.

∗ THIỀN SƯ THANH LIỄU CHƠN YẾT ở Trường Lô Chơn Châu

Sư họ Ung, quê ở Tả Miên. Lúc còn bồng nách cha mẹ đem vào chùa, thấy tượng Phật, Sư vui mừng chớp mắt nhướng mày. Đến mười tám tuổi, Sư thi kinh Pháp Hoa được độ làm Tăng. Sư đến Thành đô chùa Đại Từ học tập kinh luậnlãnh hội được đại ý. Sư ra đất Thục đến Miến Hán vào thất Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà.

Đơn Hà hỏi: – Thế nào là chính mình trước không kiếp?

suy nghĩ để đáp. Đơn Hà bảo: – Ngươi còn ồn hãy đi.

Một hôm, Sư lên ngọn Bát Vu bỗng nhiên khế ngộ, thẳng về đứng hầu.

Đơn Hà tát bảo: – Sẽ bảo ông biết có.

vui vẻ lễ bái.

Hôm sau, Đơn Hà thượng đường nói: – Nhật soi Cô Phong biếc, nguyệt đến nước khe trong, Tổ sư huyền diệu quyết, chớ hướng tất lòng an.

Liền xuống tòa. Sư tiến đến trước thưa: – Ngày nay đăng tòa lại chẳng lừa được con.

Đơn Hà hỏi: – Ngươi thử nhắc lại ngày nay ta đăng tòa xem?

Sư im lặng giây lâu. Đơn Hà bảo: – Sẽ nói ông khắp đất.

Sư liền đi ra.

*

Sau Sư đi dạo Ngũ Đài SơnKinh Sư, Phù Biện, thẳng đến Trường Lô yết kiến Tổ Chiếu, qua một lời nói khế hợp. Tổ Chiếu cho làm thị giả, qua một năm liền chia phần giáo hóa, không bao lâu Tổ cáo bệnh dưỡng già, giao phần giáo hóa lại Sư. Học giả qui tụ như trước. Đến cuối niên hiệu Kiến Viêm (1127), Sư đến Tứ Minh, trụ Phổ Đà, Thiên Phong ở Thai Châu, Tuyết Phong ở Mân. Vua ra chiếu mời Sư trụ trì chùa Dục Vương, kế chùa Long Tường ở Ôn Châu, chùa Từ Ninh Cảnh Sơn ở Hàn Châu. Hoàng thái hậu mời khai sơn chùa Sùng Tiên ở Cao Ninh.

*

thượng đường: Tôi ở chỗ Tiên sư ngay một tát so sánh đều dứt, tìm chỗ mở miệng không thể được. Hiện nay lại có người sống vui chẳng cùng thế ấy chăng? Nếu không, hàm sắt mang yên mỗi người tự đeo.

thượng đường: Trên đảnh Cô Phong qua cây cầu độc mộc, đi thẳng thế ấy vẫn là chỗ chân cao chân thấp của thời nhân. Nếu thấy được triệt chẳng ra khỏi cửa mà thâu khắp mười phương, chưa vào cửa mà thường ở trong thất. Nếu kia chưa như thế, nhân trời mát bửa một gốc củi.

*

thượng đường: Bên khóe miệng lên meo trắng, mới được vào cửa; khắp chân thối nát đi, mới biết có việc trong cửa. Lại phải biết có cái chẳng ra cửa.

Sư bảo: – Gọi cái gì là cửa?

Có vị Tăng hỏi: – Chư Phật ba đời nhằm trong đống lửa xoay bánh xe đại pháp, lại quả thật đấy chăng?

Sư cười to bảo: – Tôi lại nghi đấy.

Tăng thưa: – Hòa thượng vì sao lại nghi?

Sư đáp: – Hoa đồng thơm đầy đất, chim rừng chẳng biết thơm.

Tăng thưa: – Chẳng rơi phong thể lại nhận chuyển thân hay không?

Sư đáp: – Chỗ đi người đá chẳng đồng công.

Tăng thưa: – Hướng thượng việc thế nào?

Sư đáp: – Diệu ở trước hòn bọt, há che mắt ngàn thánh.

Tăng lễ bái.

*

Một hôm, Sư vào nhà trù xem làm bún, chợt thùng thông lủng đáy. Chúng đều la hoảng: – Uổng lắm!

Sư bảo: – Thùng thông lủng đáy tự nên vui mừng, vì sao lại phiền não?

Chúng thưa: – Hòa thượng thì được.

Sư nói: – Quả thật đáng tiếc một thùng bún.

*

thượng đường: Rêu phong lối cũ chẳng rơi hư ngưng, mù phủ rừng xanh nhận bày phong yếu, kim móc kín đáo, ai bảo ông chài về tổ, chỉ thế thừa đương, chính là bình thường sống thích lại có người đủ con mắt thấu cổng chăng?

Sư im lặng giây lâu nói: – Dù cho sớm nghe liền trở về, đâu bằng từ lâu chẳng ra cửa.

*

thượng đường: Chợt mưa chợt tạnh chợt lạnh chợt nóng, cái của Sơn tăng thì Sơn tăng tự biết, cái của quí vị thì quí vị tự nói. Hãy nói miệng của Tuyết Phong (Sư) trừ ngoài ăn cơm cần làm gì?

*

Sư hỏi vị Tăng: – Trên điện Lưu-ly Ngọc nữ phóng thoi để rõ bên việc gì?

Tăng thưa: – Hồi hỗ chẳng đương cơ.

Sư bảo: – Lại có đứt nối hay không?

Tăng thưa: – Xưa nay chưa từng gián đoạn.

Sư bảo: – Chính khi chẳng từng gián đoạn là sao?

Tăng trân trọng rồi đi ra.

*

thượng đường: Thân không huyễn hóa tức pháp thân.

Sư múa bảo: – Thấy chăng? Thấy chăng? Thế ấy thấy được “qua cầu thôn rượu quí”.

Sư múa bảo: – Thấy chăng? Thấy chăng? Thế ấy chẳng thấy “cách bờ hoa rừng thơm”.

*

thượng đường: Lại có người không bị huyền diệu ô nhiễm chăng?

Sư im lặng giây lâu nói: – Một điểm này nghiêng nước bốn biển, đã là rửa đi chẳng rơi.

Tăng hỏi: – Thế nào là chính mình trước không kiếp?

Sư đáp: – Ngựa trắng vào hoa lau.

*

thượng đường: Tột nhiệm tan gốc, thể diệu mất tông, một câu đứt dòng, sâu huyền cùng tột, bởi vì chỗ kín kim vàng chẳng bày sáng nhọn, chỉ ngọc xuyên qua thầm bày sắc lạ. Tuy nhiên như thế vẫn là xen lẫn hai sáng, hãy nói chỗ khéo vụng chẳng đến làm sao hiểu nhau?

Sư im lặng giây lâu nói: – Mây thưa soi thấu xanh mờ nhạt, cây núi thấp cao khóa biếc sâu.

thượng đường: Chuyển công đến vị là người nhằm đi, ngọc ẩn Kinh Sơn quí. Chuyển vị đến công là người trở lại, lò hồng mảnh tuyết xuân. Công vị đều chuyển, khắp thân chẳng kẹt, buông tay quên áo, gái đá đêm lên máy, thất kín không người quét. Chính khi ấy bặt khí tức một câu làm sao hiểu nhau?

Sư im lặng giây lâu nói: – Về cội gió rơi lá, soi tột trăng đầm không.

Sư tịch tại chùa Sùng Tiên ở Cao Ninh. Vua sắc thụy là Ngộ Không.

∗ THIỀN SƯ ĐỨC CHỈ CHƠN TẾ ở Viên Thông Giang Châu

Sư họ Lý, là con Kim Tử Từ Hoành, gia thế sang trọng, đôi mắt Sư trông xanh biếc sáng lóng lánh. Năm mười tuổi, Sư chưa biết học chỉ thích ngủ, cha Sư gọi là bé u mê. Đến khôn lớn, Sư nhớ giỏi học tài. Khoảng hai mươi tuổi, Sư mộng thấy vị Tăng lạ trao cho bốn câu kệ và bức tượng của Nham chủ Nam An, bên cạnh có ghi bài kệ Thông Minh. Từ đây Sư trì niệm chẳng quên. Sau năm năm, Sư theo Kim Tử đến Tây Lạc, một đêm chợt đại ngộ, làm luôn mấy bài kệ. Một bài rằng: ?Chẳng bởi ngôn cú chẳng bởi người, chẳng bởi vật sắc chẳng bởi tiếng, đêm tối thổi đèn bèn đến gối, bỗng nhiên trong ấy đã sáng rồi.? Mỗi bài ca đều như thế, mọi người đều không hiểu. Sư cố xin xuất gia cha chẳng cho muốn nối tiếp làm quan. Sư thưa: Con sắp thoát khỏi lưới đời chẳng mắc trong tam giới, há lại vùi đầu trong danh lợi sao? Sư xin theo anh là Giác, rồi thế phát xuất gia thọ giới cụ túc. Sư tu chưa mấy năm mà đã nổi tiếng ở Kinh sư. Niên hiệu Tuyên Hòa thứ ba (1121) vào mùa xuân, vua Huy Tông ban hiệu là Chơn TếSư nương với Thiền sư Duy Chiếu ở Viên Thông.

*

thượng đườngSơn tăng hai mươi năm về trước hai mắt đều mù không thấy chi cả, chỉ là nghe người nói đạo, trên bầu trời trong có mặt nhật to, soi thấu tam thiên đại thiên thế giới, không chỗ nào mà chẳng khắp, bởi sách vở muôn thứ trọn không thể thấy. Sau hai mươi năm mắt sáng từ từ mở, lại gặp màu trời mờ tối mây dầy nổi dậy, xem xét bốn phương trên dưới suy cùng, khi thấy mây bay liền theo chỗ đi mà suy tính, khi thấy mây dừng liền ở chỗ dừng làm hang ổ. Chính trong khoảng ấy, chợt gặp được người biết nhiều, hỏi rằng: Có phải cần thấy mặt trời chăng? Sao chẳng nhìn trên đảnh núi cao đi? Sơn tăng lại hỏi kia rằng: Chỗ nào là đảnh núi cao? Kia đáp: Chỗ hồng trần chẳng đến. Chư nhân giả! Tin tức này rất chính xác. Lại hiểu chăng? Nằm dài trên bàn Phật Đà Gia.

*

thượng đường: Đêm qua ngài Cù-đàm đem tam thiên đại thiên thế giới đến, một hớp nuốt hết, như người uống nước nóng dấu vết chẳng còn liền đó tiêu tan. Chính khi ấy chư vị đại Bồ-tát, Thanh văn, La-hán và tất cả chúng sanh thảy đều chẳng hay chẳng biết. Chỉ có ngài Văn-thù, Phổ Hiền bỗng nhiên thấy được. Tuy nhiên thấy được mênh mông mênh mông dường như nhìn trên biển cả chợt nổi chợt chìm. Quí vị hãy nói, là tin tức gì? Nếu kiểm điểm được vỡ, nhận quí vị trên đảnh môn đủ một con mắt.

*

thị tịch trà-tỳ được xá-lợi rất nhiều, xây tháp thờ tại núi Tư Không.

∗ THIỀN SƯ CẢNH THÂM ở Trí Thông Hưng Quốc

Sư họ Vương, quê ở Thai Châu, từ nhỏ Sư đã xuất chúng. Năm mười tám tuổi, Sư theo ngài Đức Chỉ ở viện Quảng Độ xuất gia. Trước Sư đến yết kiến Thiền sư Tượng ở Tịnh Từ. Một hôm nghe Tượng nói: Nghĩ mà biết, suy mà hiểu đều là kế sống nhà quỉ, dấy lên không thể tự ngăn.

Sư đến Bảo Phong chỗ Thiền sư Duy Chiếu xin vào thất. Bảo Phong bảo: Cần phải dứt niệm khởi diệt, nhằm trước không kiếp quét sạch huyền lộ, chẳng dính Chánh, Thiên, dẹp sạch hiện nay, toàn thân buông hết, buông hết lại buông mới có phần tự do.

Sư nghe qua liền đốn ngộ huyền chỉ. Bảo Phong đánh trống bảo chúng: Cảnh Thâm được đạo Xiển đề đại tử, kẻ hậu học nên nương y.

Nhân đây, Sư được hiệu Đại Tử Ông.

Đến niên hiệu Kiến Viêm (1127), Sư khai pháp ở Trí Thông.

Sư thượng đường: Lại chẳng vào cổng, đi chẳng ra cửa, đi lại không vết làm sao đề xướng. Dù được cổ lộ rêu phong, dê nai bặt dấu; ngô đồng trăng phủ phụng đỏ chẳng đậu. Vì thế nói: “Chỗ ẩn thân không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn thân.” Nếu hay như thế, đi đứng không nương, trọn không hướng bối, lại thông cảm chăng? Mà nay phân tán như mây hạc, anh tôi đều mất chỗ chạm huyền.

*

Tăng hỏi: – Thế nào là Chánh trung thiên?

Sư đáp: – Bà lão mặt đen mặc lụa trắng.

Tăng hỏi: – Thế nào Thiên trung chánh?

Sư đáp: – Ông già đầu bạc mặc áo đen.

Tăng hỏi: – Thế nào là Chánh trung lai?

Sư đáp: – Trong phân bèn nhảy nhào.

Tăng hỏi: – Thế nào là Kiêm trung chí?

Sư đáp: – Đao tuyết thân lồng chẳng tự đứt.

Tăng hỏi: – Thế nào là Kiêm trung đáo?

Sư đáp: – Côn Lôn trong đêm đi.

Tăng hỏi: – Hướng thượng lại có việc hay không?

Sư đáp: – Bắt được rùa đen gọi là trạnh.

Tăng thưa: – Xin Thầy lại bày phương tiện.

Sư đáp: – Vào núi gặp cọp nằm, ra hang quỉ lại dẫn.

Tăng thưa: – Đâu được chiến tranh đãi nhau.

Sư đáp: – Ba lượng chỉ, một cân gai.

Niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu (1131), Sư về trụ tại Bảo tàng Nham. Đến năm Nhâm Thân, Sư có chút ít bệnh, nói: Thế duyên hết vậy.

Đến ngày mười ba tháng ba, Sư vì chúng tiểu tham, nói kệ:

Chẳng cần cạo tóc,

Nào phiền tắm gội,

Một đống lửa đỏ,

Ngàn chân muôn chân.

Tuy nhiên như thế, hướng thượng lại có việc hay không?

Sư liền nhắm mắt mà tịch.

∗ THIỀN SƯ NGỘ TÂN TỬ TÂM ở Hoàng Long (1044-1115)

Sư họ Vương, quê ở Khúc Giang Thiều Châu, dáng người cao lớn mặt đen giống như vị Tăng Ấn Độ. Sư xuất gia tại viện Phật-đà, khí tiết xuất chúng, tư cách hơn người.

*

Ban đầu Sư đến yết kiến Tú Thiết Diện ở Thê Hiền. Tú hỏi: – Thượng tọa người xứ nào?

Sư thưa: – Quảng Nam Thiều Châu.

Tú hỏi: – Từng đến Vân Môn chăng?

Sư thưa: – Từng đến.

Tú hỏi: – Từng đến Linh Thọ chăng?

Sư thưa: – Từng đến.

Tú hỏi: – Thế nào là cành lá Linh Thọ?

Sư thưa: – Dài tự dài, ngắn tự ngắn.

Tú bảo: – Kẻ Mán ở Quảng Nam chớ nói loạn.

Sư thưa: – Đến Bắc Lô chỉ thế ấy.

Sư liền phủi áo ra đi. Tú thừa nhận, mà Sư không lưu ý.

Sư đến Hoàng Long yết kiến Thiền sư Bảo Giác, đàm luận không có chỗ ngộ. Bảo Giác bảo: – Nếu tài năng chỉ thế, nói ăn đâu hay no bụng người?

Sư bế tắc không lời nói được, bình thản bạch:- Con đến đây cung gãy tên hết, cúi mong Hòa thượng từ bi chỉ chỗ an lạc.

Bảo Giác bảo: – Một hạt bụi bay hay che trời, một hạt cải rơi hay phủ đất, chỗ an lạc tối kỵ Thượng tọa có bao nhiêu thứ tạp nhạp. Cần phải chết toàn tâm từ vô thủy kiếp đến nay mới nên vậy.

Sư ra đi. Một hôm Sư ngồi lặng lẽ dưới tấm bảng, chợt gặp Tri sự đánh cư sĩ, Sư nghe tiếng roi bỗng nhiên đại ngộĐứng dậy quên mang giày chạy đến phương trượng thấy Bảo Giác, Sư tự khen: – Người trong thiên hạ thảy là học được, con đã ngộ được rồi.

Bảo Giác cười bảo: – Tuyển Phật được người đứng đầu bảng, ai dám đương.

Từ đây Sư được hiệu là ông già Tử Tâm, bảng chỗ Sư ở để là Tử Tâm thất. Sư ở lại đây thời gian lâu.

*

Kế đến, Sư đi dạo Tương Tây. Khi ấy Thiền sư Triết lãnh Nhạc Lộc, Sư đến ra mắt.

Triết hỏi: – Là phàm là thánh?

Sư đáp: – Phi phàm phi thánh.

Triết hỏi: – Là cái gì?

Sư đáp: – Đưa mắt nhìn lên.

Triết bảo: – Thế ấy là núi nam khởi mây, núi bắc rơi mưa.

Sư đáp: – Hãy nói là phàm là thánh?

Triết bảo: – Tại sao trên đầu mênh mang dưới chân mênh mang?

Sư ngước nhìn trên thất thốt ra tiếng hư.

Triết bảo: – Hơi gấp giết người.

Sư đáp: – Dường phải.

Phủi áo liền đi.

Sư đến yết kiến Thiền sư Ngộ ở Pháp Xướng. Ngộ hỏi: – Vừa rời chỗ nào?

Sư đáp: – Tôi từ Hoàng Long lại.

Ngộ hỏi: – Lại thấy Thiền sư Tổ Tâm chăng?

Sư đáp: – Thấy.

Ngộ hỏi: – Thấy ở chỗ nào?

Sư đáp: – Thấy ở chỗ ăn cơm ăn cháo.

Ngộ cầm đũa gắp lửa đẩy trong lò nói: – Cái này lại là sao?

Sư lôi đũa gắp lửa ra, rồi đi.

*

ban đầu trụ Vân Nham, kế dời trụ Thúy Nham. Tại Thúy Nham xưa có miếu Thần, dân trong làng cúng kính rượu thịt liên miên. Sư sai Tri sự phá miếu. Tri sự từ không dám chuốc họa. Sư bảo: Nếu hay tác họa, ta tự làm đó.

Đích thân Sư đến phá hủy cái miếu. Chợt thấy một con rắn to nằm khoanh đưa đầu như muốn mổ. Sư quở nó, nó bò đi. Sư về nghỉ an ổn. Không bao lâu, Sư trở lại trụ Vân Nham. Dựng lập Kinh tàng, Thứ sử Huỳnh Công Đình Kiên làm lời ký. Ông có đem lời ghi mộ của người thân khắc bên cạnh cái bia. Sư không bằng lòng nói: – Cái mộ mà xem thường không sợ họa sao?

Sư nói chưa dứt, bỗng làn điện chớp sấm nổ vỡ tấm bia, song tàng ký vẫn an nhiên không tổn hại.

*

Về già, Sư trụ Hoàng Long, học giả tụ họp rất đông. Sư mắc bệnh lui về ở Hối Đường.

Dạ tham, Sư đưa cây phất tử lên nói: Xem! Xem! Phất tử bệnh hay Tử Tâm bệnh? Phất tử an hay Tử Tâm an? Phất tử xỏ thấu Tử TâmTử Tâm xỏ thấu phất tử. Chính ngay khi này gọi phất tử lại là Tử Tâm, gọi Tử Tâm lại là phất tử, cứu kính phải nói thế nào?

Sư im lặng giây lâu nói: Chớ đem phải quấy đến ta biện, phù sanh xuyên tạc chẳng can nhau.

Có vị Tăng hỏi câu rốt sau. Sư nói kệ:

Một câu ở rốt sau,

Cần phải đường tâm dứt,

Cửa sáu căn đã không,

Muôn pháp không sanh diệt,

Nơi đây thấu được nguồn,

Chẳng cần cầu giải thoát,

Bình sanh thích mắng người,

Chỉ vì thường ưa sống.

Niên hiệu Chánh Hòa thứ năm (1115) tháng mười hai ngày mười ba, buổi chiều Tiểu tham, Sư nói kệ xong. Đến ngày mười lăm, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi lăm tuổi hạ. Tháp Sư ở sau Hối Đường.

∗ THIỀN SƯ DUY THANH LINH NGUYÊN ở Hoàng Long

Sư họ Trần ở Bổn Châu, được tâm ấn nơi Hối Đường Tổ Tâm. Mỗi khi vì người, Sư bảoHọc giả thời nay chưa thoát sanh tử, bệnh tại chỗ nào? Lỗi tại tâm trộm chưa chết. Song không phải tội tại họ, mà tội ở thầy. Như Hán Cao Đế giết Hàn Tín. Hàn Tín tuy chết mà tâm kia thật chết ư? Học giả thời xưa ngay một lời nói liền thoát sanh tửcông hiệu tại chỗ nào? Tại tâm trộm đã chết, song không phải học giả tự hay như thế, thật là do thầy rèn luyện diệu mật. Như Lương Võ Đế ngự ở đại điện thấy Hầu Cảnh chẳng đổi sắc mặt, mà tâm Hầu Cảnh đã khô kiệt không còn. Các nơi nói ra đâu không có mỹ lệ, cốt như Triệu Xương vẽ hoa, hoa tuy giống như thật mà chẳng phải hoa thật.

*

thượng đường: Tiếng trống vừa đánh đại chúng tụ hội, máy trời vô hạn một lúc tiết lộ. Chẳng cõi chánh nhãn liền nên qui đường, lại đợi lắm lời chôn vùi tông chỉ. Dù bảo: “Thích-ca chẳng xuất thế, bốn chín năm thuyết pháp, Đạt-ma chẳng Tây sang, Thiếu Lâm có diệu quyết.” Tu Sơn Chủ cũng giống như ở chỗ cao trông về quê nhà. Lại nói: “Người nào biết Phật Tổ, ngay đây liền siêu việt.” Dù cho thế ấy ngộ nhập thân thiết, lại có một con đường chuyển thân. Khám qua rồi vậy!

Sư lấy phất tử gõ giường thiền xuống tòa.

thượng đường: “Gió thổi tùng, trăng rọi sông, canh khuya đêm vắng lại là ai? Sương mù mây ráng che chẳng được, trong đây dù nói chẳng bằng về.” Lại về đâu? Lá sen tròn tròn tròn giống gương, góc ấu nhọn nhọn nhọn như dùi.

*

thượng đường: Chư Phật ba đời chẳng tri hữu, ân không nặng đáp. Mèo hoang trâu trắng lại tri hữu, công chẳng uổng bày, rõ đại dụng hiểu toàn cơ, bặt dấu vết chẳng nghĩ nghì, về đi tốt, không người biết, vọt thấu bầu trời tùng ngàn thước, cắt đứt hồng trần nước một khe.

*

thượng đường: Chí đạo không khó, chỉ hiềm giản trạch, chớ có yêu ghét, rõ ràng minh bạchTổ sư nói thoại thế ấy làm mù hết con mắt người trong thiên hạThiền tăng biết phải quấy rành Tăng tục, đến trong đây làm sao biện minh. Nước cùng chỗ ấy chưa hay đến, khó bảo ngồi xem khi mây bay.

∗ THIỀN SƯ TÙNG DUYỆT ở Đẩu Suất phủ Long Hưng (1044-1091)

Sư họ Hùng, quê ở Cám Châu. Buổi đầu Thủ chúng ở Đạo Ngô, lãnh một số chúng đến yết kiến Hòa thượng Trí ở Vân Cái. Trí đàm luận với Sư chưa bao nhiêu đã biết chỗ uẩn tích, bèn cười bảo: – Xem Thủ tọa khí chất phi phàm, tại sao thốt ra lời dường như kẻ say?

Sư đỏ mặt xuất mồ hôi thưa: – Cúi mong Hòa thượng chẳng tiếc từ bi.

Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt, liền xin nhập thất. Trí hỏi: – Từng thấy Hòa thượng Ngộ ở Pháp Xướng chăng?

Sư thưa: – Từng xem Ngữ lục của Ngài, tự hiểu rõ cũng không mong thấy.

Trí hỏi: – Từng thấy Hòa thượng Văn ở Động Sơn chăng?

Sư thưa: – Người Quan Tây không đầu não, mang một cái quần vải khai nước đái, có chỗ nào hay?

Trí bảo: – Ông chỉ đến chỗ khai nước đái tham lấy.

Sư theo lời dạy đến yết kiến Hòa thượng Văn thâm nhận được áo chỉ. Sư trở lại yết kiến Hòa thượng Trí. Trí hỏi: – Sau khi thấy người Quan Tây, đại sự thế nào?

Sư thưa: – Nếu chẳng được Hòa thượng chỉ dạy đã luống qua một đời.

Sư bèn lễ tạ. Sư trở lại yết kiến Chơn Tịnh.

*

Sau Sư khai pháp ở chùa Lộc Uyển, có Thiền sư Thanh Tố là người đã tham vấn lâu nơi Từ Minh, tạm ở một cái thất chưa cùng Sư giao tiếp. Sư nhân ăn trái vải, gặp Thanh Tố qua cửa. Sư gọi: – Này ông già! Đây là hương quả, mời cùng ăn.

Tố nói: – Sau khi Tiên sư tịch, đã lâu không được ăn thứ này.

Sư hỏi: – Tiên sư là ai?

Tố nói: – Từ Minh, tôi hầu hạ người mười ba năm.

Sư nghi sợ nói: – Mười ba năm kham nhẫn hầu hạ, chẳng được đạo kia là sao?

Từ đây nhân ăn quả, Sư thường thường thân cận. Tố hỏi: – Thầy đã thấy người nào?

Sư thưa: – Động Sơn Văn.

Tố hỏi: – Văn thấy người nào?

Sư thưa: – Hoàng Long Nam.

Tố bảo: – Nam tấm biển thấy Tiên sư chẳng lâu, pháp đạo chấn hưng như thế.

Sư càng nghi sợ, bèn sắm hương đèn đến lễ Tố. Tố đứng tránh nói: – Tôi do phước mỏng, Tiên sư thọ ký chẳng cho vì người.

Sư càng thêm cung kính. Tố bảo: – Vì thương lòng thành của ông, trái lời ký của Tiên sư. Ông bình sanh sở đắc, thử nói ta xem?

Sư thưa đủ sở kiến.

Tố bảo: – Khả dĩ vào Phật mà không thể vào ma.

Sư thưa: – Vì sao vậy?

Tố bảo: – Há chẳng thấy cổ nhân nói một câu rốt sau mới đến lao quan.

Như thế mấy tháng, Tố mới ấn khả, bèn răn rằng: – Văn dạy ông đều là chánh tri chánh kiến, song ông lìa Văn quá sớm nên không thể tột chỗ diệu kia. Nay tôi vì ông điểm phá, khiến ông thọ dụng được đại tự tại, ngày khác chớ có nối pháp tôi.

Sau Sư nối pháp Chơn Tịnh.

*

Tăng hỏi: – Cầm binh khiển tướng phải nhờ hổ phù của vua, lãnh chúng dạy đồ thầm mang Tổ sư tâm ấn, thế nào là Tổ sư tâm ấn?

Sư đáp: – Đầy miệng nói chẳng được.

Tăng hỏi: – Chỉ cái này hay lại có cái khác?

Sư đáp: – Chớ đem hạc chạy trốn, gọi là ngỗng cầm quân.

Tăng hỏi: – Thế nào là cảnh Đẩu Suất?

Sư đáp: – Một nước nổi màu lam, ngàn núi gọt ngọc biếc.

Tăng hỏi: – Thế nào là người trong cảnh?

Sư đáp: – Bảy trũng tám gò không người thấy, trăm tay ngàn đầu chỉ tự biết.

*

thượng đường: Tai mắt một bề trong, ở yên trong hang vắng, gió thu vào cổ tùng, trăng thu sanh sông biếc. Thiền tăng khi ấy lại cầu chân, hai con khỉ đột bốn đuôi duỗi.

Sư hét một tiếng.

*

thượng đường: Đẩu Suất trọn không biện biệt, lại kêu rùa đen là trạnh, không thể nói diệu bàn huyền, chỉ biết khua môi động lưỡi, khiến cho Thiền tăng trong thiên hạ xem thấy trong mắt một giọt máu, chớ có đổi sân làm hỉ người tiếu ngạo Yên Hà đó chăng?

Sư im lặng giây lâu nói: Thổi lên một bản thăng bình nhạc, mong được sanh bình chưa hết sầu.

thượng đường: Mới thấy tân xuân lại sang đầu hạ, bốn mùa dường tên sáng tối như thoi, bỗng chợt mặt hồng trở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần, cày lấy vườn ruộng của mình, chớ phạm lúa mạ của người, tuy nhiên như thế kéo cày mang bừa, phải là con trâu trắng ở núi Tuyết mới được. Hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào?

Sư im lặng giây lâu nói: – Bậy! Bậy!

thượng đường: Thường cư vật ngoại qua thời rỗi, cầm ngang ống sáo thổi lưng trâu, một bản tự yên núi tự biếc, tình này chẳng với mây trắng bay. Rất thích, chư Thiền đức! Nhớ lại Phạm Lãi dối vượt sóng to, nhân nghĩ Trần Đoàn ngủ rỗng trên ngọn Thái Hoa, đâu từng mộng thấy luống được cao danh, thật chưa thần đạo nhàn du dấu quê. Tuy nhiên như thế, Thiền tăng mắt sáng chớ nói, Long An tự kỷ kia. Tốt!

*

Sư thượng đườngKhông pháp cũng không tâmkhông tâm lại gì xả, cần chân trọn thuộc chân, cần giả toàn về giả, trên đất bằng chèo thuyền, trong hư không cỡi ngựa, người chín năm nhìn vách, có miệng lại như câm. Tham!

Thượng đường: “Đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật đi, ngồi đứng cùng theo nhau, nói nín đồng chung ở, muốn biết chỗ Phật đi, chỉ lời nói này vậy.” Chư Thiền đức! Cả nhà Phó Đại sĩ chỉ biết ôm cột cầu, tắm rửa đeo dây neo thuyền trên bản in đập đem lại, trong khuôn mẫu gỡ đem đi. Đâu biết nói: Thiền tăng bản sắc lấp bít hang Phật Tổ, đập nát cửa huyền diệu, nhảy ra hầm đoạn thường, chẳng nương cảnh thanh tịnh, trọn không một vật, riêng vận dụng hai nắm tay, trên biển đi ngang, dựng nhà lập nước. Có một nhóm, cần nhằm trên đầu sào trăm thước ngồi yên lặng lẽ, đến lúc thân nhào bỏ mạng không được. Đâu chẳng thấy Đại sư Vân Môn nói: Biết là việc này, ném qua một bên, dù cho thôi động tinh thần mắc chút gân cốt, nhằm trước khi hỗn độn chưa phân tiến được vẫn là kẻ độn, đâu kham ở trên đầu lưỡi người nếm được mùi vị, trọn không có ngày liễu ngộ. Chư Thiền khách! Cần hội chăng? Vén đứng lông mày có khó gì, rõ ràng chẳng thấy một mảy tơ, gió thổi bầu trời mây nổi nát, trên trăng núi biếc ngọc một hòn. Sư hét một hét xuống tòa.

*

Một hôm, Tào Sử Vô Tận, cư sĩ Trương Công Thương Ưởng đi thanh tra qua Phần Minh thỉnh Trưởng lão năm viện đến Vân Nham thuyết pháp. Sư đăng tòa rốt sau, cầm ngang cây gậy nói: Chư thiện tri thức mới đến, nắm ngang buông dọc, đứng thẳng ném xiên, đổi bước dời thân dấu đầu bày sừng, đã ở trước mặt học sĩ mỗi vị nhận bại quyết, chưa khỏi ăn gậy đau trong tay Đẩu Suất (Sư), đến trong đây chẳng do ngọt cho ngọt. Cớ sao? Vì thấy sự bất bình đâu nhẫn được. Thiền tăng chánh lệnh tự phải hành.

Chao cây gậy xuống tòa.

*

Trong thất Sư dùng ba câu nói để nghiệm học giả:

1. Vạch cỏ xem gió chỉ mong thấy tánh, chính nay Thượng tọa tánh ở chỗ nào?

2. Biết được tự tánh mới thoát sanh tử, khi chết rồi làm sao thoát?

3. Thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại phân ly nhằm chỗ nào đi?

*

Niên hiệu Nguyên Hựu thứ sáu (1091) vào mùa đông, Sư tắm gội xong, họp chúng nói kệ:

Bốn mươi tám năm,

Thánh phàm giết sạch,

Chẳng phải anh hùng,

Long An đường trơn.

ngồi yên thị tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. Vua sắc phong Chơn Tịnh Thiền sư.

∗ THIỀN SƯ CẢO PHẬT CHIẾU ở Pháp Vân

Sư thuở thiếu niên đi du phươngyết kiến Thiền sư Cơ ở Viên Thông. Sư vào thất, Cơ nhắc lại “Tăng hỏi Đầu Tử: người đại tử khi sống lại thì thế nào, Tử đáp: chẳng cho đi đêm đợi sáng sẽ đến”, ý thế nào?

Sư đáp: – Ân lớn khó đền.

Cơ rất vui bèn sai thủ chúng. Đến chiều vì chúng cầm phất tử, cơ chậm lại vụng, chúng đều cười, Sư đỏ mặt. Hôm khác nơi Tăng đường, Sư pha trà nhân chạm bình trà rơi xuống đất, thấy cái bình nhào liền được ứng cơ tam-muội.

Sau Sư nương Chơn Tịnh, nhân đọc bài kệ của Tổ:

Tâm đồng cõi hư không.

Hiện đồng pháp hư không,

Khi chứng được hư không,

Không pháp phải pháp quấy.

Sư hoát nhiên đại ngộ. Mỗi khi nói chuyện với người Sư bảo: Tôi ở Thiệu Thánh thứ ba ngày hai mươi mốt tháng mười một ngộ được thiền tấc vuông.

Sư trụ Qui Tông, sau chiếu dời về Cư Tịnh. Có vị Tăng hỏi:- Đạt-ma Tây sang truyền cái gì?

Sư đáp:- Châu, Tần, Hán, Ngụy.

Tăng hỏi:- “Xưa Tăng hỏi Vân Môn thế nào là câu thấu pháp thânVân Môn đáp: trong Bắc Đẩu tàng thân”, ý chỉ thế nào?

Sư đáp:- Lòng son mảnh mảnh.

Tăng thưa:- Nếu là con thì chẳng thế.

Sư hỏi:- Ông lại làm sao?

Tăng thưa:- Đêm qua ngưỡng đầu xem Bắc Đẩu, dường như lại giống nhân bánh trong.

Sư bảo:- Chỉ nhớ nước cỏ, ngoài ra không biết gì.

thượng đường: Tây sang ý Tổ giáo ngoại biệt truyền, chẳng phải bậc đại căn khó bề chứng nhập, người chứng nhập chẳng bị văn tự ngữ ngôn xoay chuyển, thanh sắc phải quấy làm mê, cũng không có khác Vân MônLâm Tế, có lạ Triệu Châu, Đức Sơn. Vì thế nói đạo phải rõ trong có lời là không lời, trong không lời là có lời. Nếu nhằm trong ấy tiến được, đáng gọi trọn ngày mặc áo mà chưa từng mang một sợi tơ, trọn ngày ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo. Như thế quở Phật mắng Tổ có lỗi lầm gì? Tuy nhiên như thế, muốn được chẳng chuốc nghiệp vô gián, chớ chê chánh pháp của Như Lai.

Sư hét một tiếng xuống tòa.

*

thượng đường cầm cây gậy nói: Qui Tông biết chém rắn, Hòa Sơn giỏi đánh trống, vạn tượng cùng sum la đều từ trong đây đi.

Sư ném cây gậy nói: Về nhà uống trà.

*

Sư thường nói với chúng: Lão tăng niên hiệu Hy Ninh thứ tám (1075) chăn màn tại phủ Phụng Tường cung kính, năm này nhào núi Hoa Sơn bốn mươi dặm, đè sập nhà người tám mươi thôn, bọn các ông hậu sanh trái cà trái dưa bao giờ biết được.

Có người hỏi: – Trên tòa Bảo Hoa Vương vì sao một bề thế đế?

Sư đáp: – Kẻ si! Phật tánh há có hai thứ sao?

∗ THIỀN SƯ VĂN CHUẨN ở Phần Đàm (1061-1115)

Sư họ Lương, quê ở Đường Cố phủ Hưng Nguyên. Thuở trong nôi, thấy tượng Phật, Sư liền cười, đến đồng tử, Sư chẳng ưa nghe rượu thịt. Sa-môn Hư Phổ ở chùa Kim Sơn đến nhà khất thực, Sư ở trước cửa ứng đối như người lớn. Lúc bấy giờ mới tám tuổi, Sư xin từ cha mẹ theo Hư Phổ về chùa.

*

Kinh lược Thiểm Tây là Phạm Công đến chùa Hư Phổ, Phổ tuổi già ứng đối lơ là. Sư đứng hầu bên cạnh giải thích rõ ràng, tới lui có qui củ, Phạm Công muốn dẫn Sư về Thiểm Tây, Sư từ rằng: Lên núi để cầu ngọc, vào biển để tìm châu, mỗi người có chí của mình. Người học đạo có bản hạnh, việc đẹp ở đời không phải là chỗ tâm thích.

Phạm Công thầm khen lời này, liền cho xuất gia làm Tăng.

Sư đến nương Thiền sư Thừa ở Lương Sơn. Thừa quở rằng: Khu ô chưa thọ giới, dám học Phật thừa!

Sư vòng tay thưa: – Đàn tràng là giới chăng? Xà-lê phạm hạnh và ba phen yết-ma là giới chăng?

Thừa kinh ngạc. Sư cười thưa: – Tuy nhiên đâu dám không vâng lời dạy.

Sư bèn đến Luật sư Đường An thọ giới cụ túc. Sư dạo khắp các nơi giảng dạy tại Thành đô. Pháp sư Đàm Diễn thích chỗ anh tài của Sư, vỗ về bảo: Ông là pháp thuyền sau này. Phương Nam có các bậc khai sĩ như Chơn Như ở Đại Qui, Chơn Tịnh ở Cửu Phong, nên đến đó cầu đạo.

Sư lễ bái vâng dạy, cùng đồng học đến Đại Qui, trụ tại đây khá lâu mà không khế ngộ.

Sư đến Cửu Phong yết kiến Chơn Tịnh. Chơn Tịnh hỏi: – Ở đâu đến?

Sư thưa:- Hưng Nguyên phủ đến.

Chơn Tịnh hỏi:- Vừa rời chỗ nào?

Sư thưa:- Đại Qui.

Chơn Tịnh hỏi:- Hạ ở đâu?

Sư thưa:- Qui Sơn.

Chơn Tịnh xòe tay nói:- Tay ta sao giống tay Phật.

mờ mịt không biết. Chơn Tịnh quở: – Mới đến câu câu không sai lầm một mảy tơ linh minh thiên chân, vừa nói đến tay Phật liền thành cách ngại, bệnh tại chỗ nào?

Sư thưa:- Chẳng hiểu.

Chơn Tịnh bảo:- Tất cả hiện thành, lại bảo ai hiểu?

Sư ở đây hầu hạ hơn mười năm. Một hôm Sư cầm cây gậy vạch mặt hồ cho trống giặt y, nhân đây đại ngộ, chạy đến Chơn Tịnh thuật sở ngộ.

Chơn Tịnh quở:- Trong đây lại dám dùng gai sậy ư?

Từ đây, Sư càng ẩn giấu mà danh càng bày.

Tiết chế Lý Cảnh Chơn thú Dự Chương mến đức Sư thỉnh khai pháp ở Vân Nham. Chưa bao lâu, Phạm Công mời Sư đến Phần Đàm. Sư lời lẽ như tên bay nước lũ, cơ phong như điện chớp, Thiền tăng sợ mà kính. Dưới sự hướng dẫn của Sư có cả ngàn người. Sư tự hiệu là Trạm Đường.

Có vị Tăng mới đến yết kiến liền trải tọa cụSư bảo:- Chưa hỏi việc người, Thượng tọa vừa rời chỗ nào?

Tăng thưa:- Qui Tông ở Lô Sơn.

Sư hỏi:- Qui Tông chỗ nào?

Tăng thưa:- Hạ!

Sư bảo:- Trong hang ếch làm kế sống.

Tăng thưa:- Hòa thượng sao không lãnh thoại?

Sư bảo:- Ông đâu chẳng phải từ Qui Tông lại.

Tăng thưa:- Phải.

Sư bảo:- Kẻ trước lừa sau ngựa.

Sư hỏi đệ nhị tòa:- Vừa ở chỗ nào đến?

Tăng thưa:- Viên Châu.

Sư hỏi:- Hạ ở đâu?

Tăng thưa:- Ngưỡng Sơn.

Sư hỏi:- Lại thấy tiểu Thích-ca chăng?

Tăng thưa:- Thấy.

Sư hỏi:- Lỗ mũi dài hay ngắn?

Tăng suy nghĩSư bảo: – Ông thầy quê, lời nói đã rơi.

*

Sư hỏi vị Tăng: – Ông đến làm gì?

Tăng thưa: – Con đến vấn an Hòa thượng.

Sư bảo: – Mây bay đầu núi nhàn biết mấy, nước chảy dưới khe rất nhộn nhàng.

Tăng thưa: – Hòa thượng chớ lừa người.

Sư bảo: – Mã Đại sư vì sao từ gót chân ông đi qua?

Tăng không đáp được. Sư bảo: – Lại là Xà-lê lừa lão Tăng.

*

Sư ở Phần Ninh gặp Hòa thượng Tử TâmTử Tâm hỏi:- Ông trở về trong núi này chăng?

Sư thưa: – Cần đến lễ bái Sư huynh.

Tử Tâm bảo: – Khi ông đến khéo xem phương tiện.

Sư thưa: – Cớ sao?

Tử Tâm bảo: – Con đường Hoàng Long ta trơn.

Sư hỏi: – Đã té nhào bao nhiêu người?

Tử Tâm bảo: – Ông chưa đến Hoàng Long gót chân trước đã rít.

Sư thưa: – Hòa thượng đâu được đóng cửa tiếp nhau.

Tử Tâm lại hỏi: – Lão Chuẩn nuôi nhiều Tăng thế này chỉ là tụ đầu cãi lẽ rồi ăn cơm, ông cứu kính đem cái gì vì người?

Sư thưa: – Nhân gió thổi lửa.

Tử Tâm bảo: – Nhiễu loạn làm gì?

Sư thưa: – Từ đây có chút ít.

Sư hỏi lại: – Trong núi Hòa thượng nuôi bao nhiêu chúng?

Tử Tâm nói: – Bốn trăm người toàn là Thiền tăng tinh xảo.

Sư thưa: – Trong hang sư tử không thú khác.

Tử Tâm bảo: – Khi ông đến cũng phải chiếu cố.

Sư thưa: – Cũng đợi khi đến.

Tử Tâm hỏi: – Khi đến làm sao?

Sư thưa: – Kêu lại rửa chân.

Tử Tâm bảo: – Ông thầy đất Xuyên mở miệng to thế.

Sư thưa: – Thượng tọa Chuẩn từ lâu như thế.

Tử Tâm nói: – Ba mươi năm đùa cỡi ngựa.

*

Thấy Tăng xem kinh, Sư hỏi: – Xem kinh gì?

Tăng thưa: – Kinh Kim Cang.

Sư bảo: – Trong kinh nói “Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp” phải chăng?

Tăng thưa: – Phải.

Sư bảo: – Tại sao núi Vân Cư cao, núi Bảo Phong thấp?

Tăng thưa: – Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp.

Sư bảo: – Ông chỉ làm được kẻ tôi tớ Tọa chủ.

Tăng thưa: – Hòa thượng lại thế nào?

Sư bảo: – Hãy buông lỗ mũi ông để thở.

*

Sư hỏi vị Tăng: – An vui chăng?

Tăng thưa: – Vô sự.

Sư bảo: – Ông còn có việc lớn.

Tăng hỏi: – Chưa biết con còn có việc gì?

Sư bảo: – Gần đây Kim Cang ở Thượng Lam cùng Thổ Địa ở Thiên Ninh đánh nhau.

Tăng không nói được. Sư bảo: – Nguyên lai vô sự.

*

Một hôm Sư thượng đường: Bảo Phong một đêm ngủ không suy tính, ngày nay thượng đường moi bụng móc ngực thảy suy nghĩ chẳng ra, mà nay đến giờ việc bức ngặt phải ra cửa gấp, liền đưa cây gậy nói: Thượng tọa Chuẩn gần đây làm được cán cây phất tử, hãy tạm đem cúng dường đại chúng, bèn ném xuống nói: Gốc tre lá móc dây gai cột, dạng tựa thiên nhiên riêng một nhà.

*

Niên hiệu Chánh Hòa thứ năm (1115) mùa hạ tháng sáu, Sư bị bệnh. Thủ tọa đến hỏi thăm: – Ngày gần đây thân thể Hòa thượng thế nào?

Sư bảo: – Lừa què leo vách.

Thủ tọa thưa: – Hòa thượng cũng nên uống thuốc.

Sư bảo: – Cây mục bắc cầu.

Thủ tọa thưa: – Cũng biết Hòa thượng chẳng chịu kiêng miệng.

Sư hỏi: – Ông làm sao?

Thủ tọa suy nghĩ để nói. Sư bảo: – Ông cũng cần phải uống thuốc.

Đến ngày hai mươi hai tháng bảy, Sư nói kệ rồi tịch, thọ năm mươi lăm tuổi, ba mươi lăm tuổi hạ.

Thừa tướng Trương Vô Tận làm lời bia, Giản Nghị Hồng Câu phụ chép Ngữ lục.

∗ THIỀN SƯ PHÁP DIỄN ở Ngũ Tổ

Sư họ Đặng, quê ở Miên Châu, đến ba mươi lăm tuổi mới thế phát xuất gia. Sư thọ giới cụ túc xong đến Thành đô học tập luận Bách PhápDuy Thức. Sư nhân nghe Bồ-tát khi vào kiến đạo, trí cùng lý hợp, cảnh cùng thần hội, chẳng phân năng chứng sở chứng. Ngoại đạo ở Ấn Độ thường nạn Tỳ-kheo rằng: Đã chẳng phân năng chứng sở chứng, lại lấy cái gì làm chứng? Tỳ-kheo không đáp được. Ngoại đạo chê bai không đánh chuông trống, chúng lại mặc ca-sa. Pháp sư Huyền Trang sang Ấn Độ cứu được nghĩa này rằng: “Như người uống nước lạnh nóng tự biết.” Từ đây mới giải được cái nạn này. Sư nói: Lạnh nóng ắt là biết vậy, thế nào là việc tự biết?

Sư liền chất vấn thầy dạy: Chẳng biết lý tự biết như thế nào?

Giảng sư cũng không giải được, chỉ khuyên rằng: Ngươi muốn rõ lẽ này nên đến phương Nam hỏi những vị truyền Phật Tâm tông.

Sư liền mang gói sang phương Nam.

*

Sư gặp các bậc tôn túc đều hỏi câu này, chỗ nghi trọn chẳng phá được. Khi đến Thiền sư Bổn ở Viên Chiếu thì những nhân duyên xưa nay đều hiểu hết. Chỉ hiểu chỗ: “Tăng hỏi Hưng Hóa: – Khi bốn phương tám mặt đến thì thế nào? Hưng Hóa đáp: – Đánh ở giữa đi. Tăng làm lễ. Hưng Hóa nói: – Hôm qua ta đi phó trai trong thôn, đi đường gặp một trận gió to mưa lớn, lại nhằm trong miếu cổ tránh được qua.”

Sư đem điều này hỏi Thiền sư Bổn. Bổn đáp: – Đây là nhân duyên dưới tông Lâm Tế, phải hỏi con cháu trong nhà ấy mới được.

Sư liền đến yết kiến Thiền sư Viễn ở Phù Sơn thưa hỏi điều này. Viễn bảo: – Ta có một thí dụ nói tương tợ cho ông. Ông giống như kẻ bán củi trong ba thôn, gánh một gánh đến chữ thập (+) đầu đường đứng hỏi người, ở trong nhà ngày nay thương lượng việc gì?

Sư thầm nghĩ rằng: Nếu như thế vẫn chưa phải.

Một hôm, Viễn bảo: – Ta già rồi e qua mất thì giờ của ông, nên đến nương với Bạch Vân, lão này tuy hậu sanh ta chưa biết mặt, chỉ thấy bài tụng ba gậy của Lâm Tế có chỗ hơn người, ắt hay làm xong việc lớn cho ông.

Sư thầm lặng lễ từ.

Đến Bạch Vân, Sư nhắc vị Tăng hỏi Nam Tuyền về châu ma-ni để thưa hỏi. Bạch Vân liền nạt. Sư lãnh ngộ dâng bài kệ đầu cơ:

Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa

Xoa thủ đinh ninh vấn Tổ ông

Kỷ độ mãi lai hoàn tự mại

Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong.

Dịch:

Trước non một mảnh nhàn điền địa

Tay chấp tận tình hỏi Tổ ông

Mấy độ bán ra rồi mua lại

Vì thương tùng trúc dẫn gió lành.

Bạch Vân ấn khả, sai coi việc trồng gai. Chưa bao lâu, Bạch Vân đến bảo Sư: – Có một số Thiền khách từ Lô Sơn đến đều có chỗ ngộ nhập, bảo y nói cũng nói được rõ ràngcử nhân duyên hỏi y cũng hiểu được, bảo y hạ ngữ cũng hạ được, chỉ là chưa hiện tiền.

Khi ấy Sư rất nghi, thầm nghĩ: Đã ngộ rồi nói cũng nói được, rõ cũng rõ được, tại sao chưa hiện tiền?

Sư bèn nghiên cứu luôn nhiều ngày, bỗng nhiên tỉnh ngộcủa báu từ trước buông hết, chạy đến yết kiến Bạch VânBạch Vân dùng tay múa chân đạp. Sư chỉ một cái cười mà thôi. Sau Sư nói: – Tôi nhân đây khắp thân xuất mồ hôi, liền rõ được dưới chỗ gió lành.

Một hôm Bạch Vân dạy chúng: – Người xưa nói như gương đúc tượng, sau khi tượng thành, gương ở chỗ nào?

Chúng hạ ngữ đều chẳng khế hợp. Bạch Vân hỏi Sư, Sư lại gần thăm hỏi nói: – Cũng chẳng so sánh nhiều.

Bạch Vân cười bảo: – Phải là Đạo giả mới được.

Ban đầu Sư ra trụ trì chùa Tứ Diện, kế dời về Bạch Vân. Về già đến trụ Đông Sơn núi Ngũ Tổ.

Tăng hỏi:- Cầm gậy lãnh chúng, Tổ lệnh đang hành, ngồi cắt yếu tân, ý Sư thế nào?

Sư đáp:- Gió thu thổi sông Vị, lá rụng đầy Trường An.

Tăng thưa:- Tứ Diện không cửa núi non đẹp, ngày nay mới được chủ nhân về.

Sư bảo: – Ông nói đầu đường ở chỗ nào?

Tăng thưa: – Tại sao đối diện chẳng biết nhau?

Sư bảo: – Đáng mừng đến rồi.

Tăng hỏi: – Thế nào là một giọt nước Bạch Vân?

Sư đáp: – Giã gạo đập gai.

Tăng hỏi: – Người uống thì sao?

Sư đáp: – Bảo ông không chỗ để mắt.

Tăng hỏi: – Đầu lưỡi người trong thiên hạ bị Bạch Vân ngồi cắt, đầu lưỡi Bạch Vân người nào ngồi cắt?

Sư đáp: – Thôn đông ông Vương Đại.

thượng đườngCổ nhân nói: “Nếu ta vì ông nói liền dứt mất lưỡi của ta, nếu chẳng nói với ông liền câm mất miệng của ta, hãy nói lại có chỗ vì người hay chăng?” Tứ Diện có khi nghĩ vì ông nuốt mất, chỉ bị răng trước cửa làm ngại, nghĩ vì ông mửa hết, lại bị cổ họng nhỏ, hãy nói lại có chỗ vì người hay không?

Sư bèn nói: – Tứ Diện tự đến Liễu Hạ Huệ.

thượng đườngBạch Vân chẳng biết nói thiền, ba cửa mở qua hai bên, có người động đến cây chốt, hai cánh quạt đông quạt tây.

thượng đường: Một bề thế ấy đi, lộ vắng người thưa, một bề thế ấy đi, cô phụ thánh trước, bỏ hai lối này Tổ Phật không thể gần, giả sử cùng Bạch Vân đồng sanh đồng tử cũng chưa xứng bình sanh. Sao vậy? Phụng Hoàng chẳng phải phàm phu vật, chẳng được ngô đồng thệ chẳng nương.

*

Tiểu tham Sư nhắc, Đức Sơn nói: “Đêm nay chẳng đáp thoại, người hỏi thoại ăn ba mươi gậy.” Trong chúng thông đó rất nhiều, hiểu đó chẳng ít. Hãy nói nhằm chỗ nào thấy Đức Sơn? Có người nào chẳng tiếc tánh mạng thử ra nói xem? Nếu khôngSơn tăng vì đại chúng cùng Lão nhân Đức Sơn thấy nhau vậy. Đợi Đức Sơn nói: “đêm nay chẳng đáp thoại, người hỏi thoại ăn ba mươi gậy” chỉ nhằm Ngài nói: “có thoại cũng chẳng hỏi, gậy cũng chẳng ăn”. Các ông nói, lại ăn gậy Đức Sơn chăng? Đến trong đây phải là kẻ ấy mới được. Huống là ta hơn mười năm trên biển kiếm tìm, thấy mấy vị tôn túc tự cho là hiểu đúng. Khi đến trong hội Phù Sơn liền là mở miệng chẳng được. Sau đến dưới cửa Bạch Vân, nhai vỡ được một hạt đậu đá liền được trăm vị đầy đủ. Hãy nói một câu hạt đậu làm sao nói?

Sư lại nói: Hoa nở màu gà my sớm thu, người nào hay nhuộm đỏ sợi tơ, có khi gió động cùng nương tựa, dường nhắm trước thềm dấu chẳng thôi.

*

thượng đường: Hôm qua Sơn tăng vào thành thấy một hàng rào trong là người gỗ, liền lại gần xem, hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu xa vô kể, chuyển động đi ngồi xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi thấy rõ, khi xem kỹ vốn là miếng vải xanh bọc lại ở trong có người. Lão tăng không thể chịu nổi, bèn đến hỏi ông tên gì, kia nói: Hòa thượng già xem là xong, hỏi tên làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kia hỏi một câu khiến cho không lời có thể đáp không lý có thể bày. Lại có người vì Sơn tăng nói được chăng? Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc.

*

Sư dạy chúng: Chân như phàm thánh đều là lời mộng, Phật và chúng sanh đều là Tăng ngữ. Hoặc có người ra nói: Lão Bàn Sơn ghê! Chỉ nói với y: Chẳng nhân Tử Bá hoa nở sớm, đâu được hoàng oanh đậu liễu tơ. Nếu lại hỏi rằng: Lão Ngũ Tổ ghê! Tự bảo: Vâng! Tỉnh tỉnh lấy.

*

Sư dạy chúng nhắc: Hòa thượng Đức Sơn nhân Tăng hỏi “chư Thánh từ trước lấy pháp gì dạy người?, Đức Sơn đáp: “tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người”. Tuyết Phong do đây có tỉnh. Sau có vị Tăng hỏi Tuyết Phong: “Hòa thượng thấy Đức Sơn được cái gì liền thôi đi?, Tuyết Phong nói: “ta khi ấy đi tay không về tay không”. Ngày nay Bạch Vân nói: “Nhằm thấu chưa qua.” Có người từ Đông Kinh lại, hỏi y: “chỗ nào lại?, y lại nói: “Tô Châu lại”, hỏi y: “Tô Châu việc thế nào?, y nói: “tất cả tầm thường”. Tuy nhiên như thế, dối Bạch Vân chẳng được. Cớ sao? Chỉ vì ngữ âm mỗi nơi có khác. Cứu kính thế nào? Tô Châu ấu, Thiệu Bá sen.

*

Ba ông Phật hầu Sư, trên một cái nhà trạm nói thoại ban đêm, đến khi trở về đèn đã tắt. Sư ở trong tối bảo: – Mỗi người hạ một chuyển ngữ.

Phật Giám thưa: – Phụng đẹp múa đêm vắng.

Phật Nhãn thưa: – Rắn sắt ngang đường xưa.

Phật Quả thưa: – Xem gót chân.

Sư bảo: – Diệt tông ta là Khắc Cần vậy.

*

Niên hiệu Sùng Ninh thứ ba (1104) ngày hai mươi lăm tháng sáu, Sư thượng đường từ chúng: Hòa thượng Triệu Châu có câu rốt sau, các ông làm sao hội, thử ra nói xem? Nếu hội được chẳng ngại sống thích thú tự tại, bằng chưa được thế, việc tốt này làm sao nói?

Sư im lặng giây lâu nói: Nói tức nói rồi, chỉ là các ngươi chẳng biết. Cần hiểu chăng? Giàu hiềm ngàn miệng ít, nghèo hận một thân nhiều. Trân trọng!

Sư trở về trượng thất tắm gội sạch sẽ, gần sáng nằm kiết tường mà tịch.

∗ THIỀN SƯ TRÍ BỔN núi Vân Cái Đàm Châu

Sư họ Quách, quê ở Thụy Châu.

Ngày khai đường, có vị Tăng hỏi: – Chư Phật ra đời trời mưa bốn thứ hoa, Hòa thượng ra đời có điềm lành gì?

Sư đáp: – Ngàn nghe chẳng bằng một thấy.

Tăng hỏi: – Sau khi thấy thế nào?

Sư đáp: – Mù!

Tăng hỏi: – Thế nào là pháp thân thanh tịnh?

Sư đáp: – Nhà không tớ nhỏ chẳng thành quân tử.

Tăng hỏi: – Đem tâm tìm tâm làm sao tìm được?

Sư đáp: – Người Ba Tư học tiếng Hán.

Tăng hỏi: – Thế nào là chỗ con xuất thân?

Sư đáp: – Tuyết Phong nguyên là người Lãnh Nam.

Tăng hỏi: – Nói được hành chẳng được, hành được nói chẳng được, chưa biết hành chẳng được làm sao nói?

Sư đáp: – Miệng ở dưới gót chân.

Tăng hỏi: – Nói chẳng được làm sao hành?

Sư đáp: – Đạp đến đầu lưỡi.

Tăng hỏi: – Biết Thầy đã chứa báu trong bị, ngày nay chốn này mượn tạm xem?

Sư đáp: – Vừa rồi dường bị người mượn đi.

thượng đường: Người đi lỗ mũi thấu trời, kẻ lại chân đạp đất thật. Hãy nói Tổ sư ý nhằm chỗ nào?

Sư im lặng giây lâu nói: Hằng giận xuân về không chỗ kiếm, chẳng hay trôi thẳng đến trong đây.

*

thượng đường lớn tiếng gọi: – Thị giả!

Thị giả: – Dạ!

Sư hỏi: – Đại chúng họp hay chưa?

Thị giả thưa: – Đại chúng đã họp.

Sư bảo: – Một cái kia vì sao chẳng đến dự tham?

Thị giả câm miệng.

Sư bảo: – Đến tức chẳng điểm.

*

thượng đường: Đầy miệng nói chẳng ra, câu câu rất sáng tỏ, đầy mắt xem chẳng thấy, núi núi chồng lẫn xanh, tiếng trống vẫn chẳng hiểu, hà huống là tiếng chuông. Sư hét một hét.

*

thượng đường cầm ngang cây gậy nói: Răng như đao kiếm mặt tợ mắt sắt, phóng điện sáng sáng chẳng dứt, tay nắm một vạn cân tật-lê, khi rảnh gõ rơi mặt trăng bên trời. Chao một cái.

Tăng hỏi: – Thế nào là sư tử ăn thịt người?

Sư đáp: – Trước Ngũ Lão phong.

Tăng thưa: – Cái này há biết ăn thịt người.

Sư đáp: – Ngày nay lượm được tánh mạng.

thượng đường: Đầu đội núi Tu-di, chân đạp bốn biển cả, hít thở sấm gió ồn, động dụng sanh năm sắc, nếu hay biết được y, mặc tình năm tháng đổi. Hãy nói người nào biết được y?

Sư hét một tiếng nói: – Tớ vườn nhà.

∗ THIỀN SƯ NHẬT ÍCH ở Thượng Phương

Ngày khai đường, Thủ tọa bạch chùy xong. Sư nói: – Trước bạch chùy quán một lại chẳng thành, sau bạch chùy quán hai lại chẳng phải, đến trong đây dù là mắt sắt tròng đồng, cũng phải vỡ trăm mảnh. Có Thiền tăng nào chẳng sợ nguy vong, thử ra xem?

Khi ấy có hai vị Tăng đồng ra. Sư nói: – Một mũi tên rơi hai chim Điêu.

Tăng thưa: – Thoại con chưa hỏi đâu được rối loạn.

Sư hỏi: – Đâu chẳng phải là tăng Tân La ư?

Tăng suy nghĩSư bảo: – Kẻ đánh cây cột cái.

Tăng hỏi: – Thế nào là việc bên chưa xuất thế?

Sư đáp: – Đáy giếng con ếch nuốt mặt trăng.

Tăng hỏi: – Thế nào là việc bên xuất thế?

Sư đáp: – Con cò đạp gãy cành lau khô.

Tăng hỏi: – Bỏ hai lối này, thế nào là chỗ Hòa thượng vì người?

Sư đáp: – Kim Cang dùi ấy thật hoàn hảo, bày ở đầu đường bán cho ai.

Tăng hỏi: – Thế nào là con trâu đực nhiều năm?

Sư đáp: – Răng thưa mắt mờ.

Tăng hỏi: – Chợ ồn gặp nhau việc thế nào?

Sư đáp: – Đi đông mua tiện, đi tây mua quí.

Tăng thưa: – Chợt như chẳng khởi tiện chẳng khởi quí lại làm sao?

Sư đáp: – Củ cải Trấn Châu.

Tăng hỏi: – Tất cả hàm linh đều có Phật tánh, đã có Phật tánh vì sao lại chun vào thai lừa bụng ngựa?

Sư đáp: – Biết mà cố phạm.

Tăng hỏi: – Chưa biết nhằm chỗ nào sám hối?

Sư đánh nói: – Hãy làm thây ngựa chết.

Tăng hỏi: – Khi thấy mặt trình nhau thế nào?

Sư bảo: – Mắt trái nửa cân, mắt phải tám lượng.

Tăng đưa tọa cụ nói: – Cái này ghê?

Sư bảo: – Chẳng nhọc đưa ra.

Sư nhìn bên phải bên trái nói: Ông già mặt vàng đi khắp bảy bước, duới gót chân chính nên một chùy, Hồ tăng mắt biếc ngồi ngó chín năm, trên đảnh môn đáng tiếc một thẻ. Đương thời nếu có Thiền tăng vì chúng kiệt lực, hạ được độc thủ này, khỏi phải niêm hoa vi tiếu uổng phá mặt mày, đứng trong tuyết đến gối, trở thành dấu xe. Từ đây đem lầm đến lầm, đem sọt đánh sọt, bèn có năm canh hương thơm ngàn đèn nối sáng, nhằm trên bàn gỗ xướng hai nói ba, nơi đầu cây gậy tức lật chỉ nam vẽ bắc, liền có nhóm tiến trước lui sau hỏi pháp hỏi tâm, có những kẻ nương cửa tựa vách tìm Phật tìm Tổ. Trước sân chỉ bá, liền gọi là ý Tổ Tây sang, trong mặt trời xem núi, lại lầm nhận tự kỷ học nhân. Đâu chẳng biết một đại sự này vốn tự linh minh, tột mé vị lai chưa từng gián đoạn, chẳng nhờ tu chứng há ở nghĩ suy. Dù Thu Tử vẫn có chỗ chẳng biết, chẳng phải hay biện của Mãn Từ. Chẳng thấy Mã Tổ một tiếng hét, Bá Trượng tai điếc ba ngày. Bảo Thọ lệnh hành Trấn Châu, một thành mù mắt. Đại cơ đại dụng như điện chớp không thể dừng, một xướng một đề dường bờ đứt không thể đi. Chính ngay khi ấy chư Phật ba đời chỉ có thể đứng bên xem, sáu đời Tổ sư chứng minh có phần. Đại chúng hãy nói, ngày nay lại có chứng minh hay chăng?

Sư im lặng giây lâu nói: Thẻ!

*

thượng đườngThập Đắc bửa củi, Hàn Sơn thổi lửa, chỉ có Phong Can trong núi ngồi yên. Hãy nói Phong Can có chỗ gì hay?

Sư im lặng giây lâu nói: – Nhà không tớ nhỏ chẳng thành quân tử.

∗ THIỀN SƯ BẢO ẤN SỞ MINH ở Tịnh Từ phủ Lâm An

Sư họ Trương, quê ở Bách Việt.

*

thượng đườngTâm ấn Tổ sư chẳng dài chẳng ngắn chẳng vuông chẳng tròn chẳng trong chẳng ngoài cũng chẳng khoảng giữa. Xin hỏi đại chúng quyết định là hình mạo gì?

Sư cầm gậy nói: Cổ triện chẳng thành văn, truy bạch khó đồng thể, từ trước tự phân minh, đâu cần lại chuyên tạo.

Sư gõ giường thiền xuống tòa.

*

thượng đường: Ra cửa thấy sông núi, vào cửa thấy điện Phậtlinh quang chỗ chạm thông, các người sao chẳng tiến. Nếu chẳng tiến, Tịnh Từ ngày nay chẳng được tiện.

thượng đườngTổ sư nói: Ta xưa đến cõi này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành. Khi ấy Tịnh Từ nếu thấy nói như thế, dùng cây gậy thông đen đập một gậy chết tốt, chôn trên đất không âm dương, khiến Ngài nhả hơi chẳng được, cớ sao nỡ để Ngài gạt người cả nước Đại Đường. Trong chúng có người vì Tổ nhả hơi chăng? Ra đây một lúc chôn hết.

*

thượng đường: Nếu luận việc này như ném bảo bối, loạn gieo vàng ngọc, người quên mình tự cam nghèo cùng, người có mắt tin lấy đưa ra. Vì thế nói, Diêm-phù có báu lớn thấy ít được lại là hiếm, nếu người đem dâng ta, thành Phật chỉ trong bữa ăn.

Sư cầm cây gậy nói: – Như nay một lúc trình tương tợ, khắp mời đại chúng để mắt nhìn lên.

Sư ném cây gậy xuống tòa.

∗ THIỀN SƯ DIỆU TRẠM TƯ HUỆ ở Tuyết Phong

Sư con nhà họ Du, quê ở Tiền Đường.

*

Có vị Tăng hỏi: – Khi điện cổ không đèn thì thế nào?

Sư đáp: – Vách đông đánh vách tây.

Tăng thưa: – Thế ấy ắt chụp được cột cái.

Sư bảo: – Chưa dám nhận nhau.

thượng đường: Thả lưới đại giáo bắt cá trời người, Hộ Thánh chẳng giống Lão Hồ mắc bùn dính nước, chỉ là thấy thỏ thả chim ưng, gặp nai buông tên.

Sư bèn to tiếng gọi đại chúng nói: – Trúng.

*

thượng đườngNgày xưa Dược Sơn sớm chiều chẳng tham thiền trải qua cả tháng, một hôm đại chúng vừa họp, Dược Sơn bèn trở về phương trượng. Chư Thiền đức! Khi kia Phật pháp sớm tự đạm bạc, luận ra vẫn so sánh chút ít. Như nay mỗi ngày đánh trống đăng tòa lăng xăng lộn xộn, người hỏi vết xe, người đáp lưỡi như điển chớp, thảy tợ ngày nay huệ mạng ở Linh Sơn nguy như tơ mành, gia phong Thiếu Thất hiểm tợ trứng chồng. Lại đâu bằng Thiền tăng khái nhiên có chí đỡ đứng tông thừa bước ra hét tan đại chúng, chẳng những bên tai im cãi, sẽ khiến chánh pháp còn lâu, há chẳng phải to sao? Nếu như trên gậy chẳng thành rồng, Sơn tăng sẽ ngược hành lệnh này.

Sư cầm gậy đuổi tan.

*

thượng đường: Chân mày ngang khắp mười phương, lông mi trên thấu trời xanh dưới suốt huỳnh tuyền, hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào.

Sư im lặng giây lâu nói: – Chép.

thượng đường: Trên đảnh núi Diệu Cao biển mây mênh mông, trước núi Thiếu Thất tuyết sương mù mịt, đứng riêng đến gối luống tự khổ nhọc, bảy ngày chẳng gặp một trường bối rối, Biệt Phong thấy nhau rơi tại giữa đường, một chiếc giày về Tây xa lại càng xa.

Sư xoay cây gậy xuống tòa.

*

thượng đườngĐại đạo chỉ ở trước mắt, cốt là trước mắt khó thấy, muốn biết chân thể đại đạo, sáng nay ngày mười lăm tháng ba, chẳng nhọc đứng lâu.

thượng đường: Tất cả pháp chẳng sai, Vân Môn bánh hồ, Triệu Châu trà, trong lầu Hoàng Hạt thổi sáo ngọc, tháng năm Giang Thành hoa mai rụng, hổ thẹn Thượng tọa Thái Nguyên Phù canh năm nghe tiếng trống, trời sáng gảy tỳ bà.

Sư hét một hét.

*

thượng đường: Về nam thưa hỏi chư thiện hữu đi nát giầy cỏ, tuyệt học vô vi ngồi tiêu ngày tháng, phàm tình dễ thoát, thánh giải khó quên, chỉ có tơ tóc đều thành rỉ chảy, trong tốt vì nói như đất nâng núi, ứng vật hiện hình như lừa nhìn giếng, dù không so tính vết xe đã thành, nếu luận tương ưng càng không giao thiệp. Gắng, chư nhân giả! Chớ lầm dụng tâm, mỗi người tự về nhà lại cầu việc gì?

∗ THIỀN SƯ CHÍ TUYỀN TỔ ĐĂNG ở Vân Phong

Sư họ Trần, quê ở Việt Đông.

*

thượng đường: Thôi đi hết đi, một niệm muôn năm đi, cây khô tro tàn đi, lò hương miếu cổ đi, một mảnh lụa trắng đi. Đại chúng! Cổ nhân chỗ thấy như mặt trời soi trong không, chẳng mắc hai bên há rơi ấm giới. Than ôi! Cháu con sau này phần nhiều khởi hiểu một bên sắc. Sơn tăng tức chẳng thế, chẳng thôi đi chẳng hết đi, nghiệp thức mênh mông đi, bảy điên tám đảo đi, chữ thập (+) đầu đường ồn vang vang, trong thanh sắc nằm ngồi đi, ba nhà trong thôn bồi đường bít lộ, trong rừng gai góc dạo chơi đi, núi đao cây kiếm chĩa bụng đâm tim, vạc dầu lò lửa lủng da nát xương đi, cử xướng như thế dường như trẻ con ba tuổi đánh cầu thêu.

*

thượng đường: Trúc ốm tùng dài nhỏ giọt hương, gió trôi trăng mỏng độ viêm lương, chẳng biết Nguyên Tây chùa ai ở, hôm sớm chày kình đuổi tịch dương.

*

thượng đường: Chẳng phải gió động, chẳng phải phan động, Thiền tăng mất đi lỗ mũi, là gió động là phan động, rõ ràng là cái thùng sơn, hai đoạn chẳng đồng mắt mờ tai điếc. Nước khe như chàm biếc, hoa núi tợ lửa hồng.

*

Có vị Tăng hỏi: – Vào cửa Đức Sơn liền ăn gậy, ý chỉ thế nào?

Sư đáp: – Bó gậy trị dân.

Tăng hỏi: – Vào cửa Lâm Tế liền bị hét, ý chỉ thế nào?

Sư đáp: – Chẳng nói mà giáo hóa.

Tăng hỏi: – Chẳng biết Hòa thượng vì người thế nào?

Sư đáp: – Một đao hai khúc.

Tăng thưa: – Cửa sắt vô phùng mời Thầy mở?

Sư đáp: – Tiến ba bước.

Tăng thưa: – Hướng thượng không cổng thỉnh Thầy đóng?

Sư đáp: – Lui sau một tầm.

Tăng thưa: – Chẳng mở chẳng đóng lại làm sao?

Sư nói: – Hồng hồng – liền đánh.

Trang trước Mục lục Trang sau

Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.