Đức Phật và Phật Pháp

Phần 2: Phật Pháp Chương 39 Phẩm Hạnh A La Hán



“Dù ít tụng nhưng hành đúng giáo lý,

Diệt tham, sân, si,

Tri kiến chân chánh, tâm siêu thoát,

Không luyến ái, tại đây và về sau.

Người ấy sẽ chứng nghiệm thành quả

Của đời sống phạm hạnh thiêng liêng.”

Kinh Pháp Cú


Trong Tam Tạng kinh điển có rất nhiều Phật ngôn mô tả trạng thái vắng lặng và hạnh phúc của một vị A La Hán, còn tạm trú trên thế gian cho đến khi ngũ uẩn chấm dứt, để phục vụ những ai muốn tìm Chân Lý, bằng lời giáo huấn và gương lành trong sạch.

Kinh Pháp Cú ghi lại những Phật ngôn sau đây:

Đối với người đã trải qua suốt cuộc hành trình, chấm dứt mọi ưu phiền, hoàn toàn siêu thoát, cắt đứt mọi trói buộc, nhiệt độ (tham ái) không còn nữa. — (câu 90)

Người tự lực cố gắng giữ tâm niệm, không luyến ái, không đeo níu theo nơi trú ẩn nào; cũng tựa hồ như những con thiên nga đã lìa ao hồ, người ấy rời bỏ nhà này đến nhà khác, và ra đi. — (câu 91)

Những ai không tích trữ, giữ chánh niệm khi dùng vật thực, những vị đã nhắm sự Giải Thoát, vốn hư không và vô hình tướng, như đối tượng của mình. Lộ trình của những vị ấy không khác nào lộ trình của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ lại được. — (câu 92)

Người tận diệt ô nhiễm, không luyến ái vật thực, nhắm đến Giải Thoát, vốn hư không và vô tướng, như đối tượng của mình. Con đường của Ngài không khác nào con đường của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ lại. — (câu 93)

Chư vị A La Hán chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn bằng cách chứng đắc Đạo Quả A La Hán trong kiếp sống hiện tiền. Đã chế ngự lục căn như tuấn mã được huấn luyện thuần thục, đã tiêu trừ ngã mạn và không còn ô nhiễm, người vững chắc như thế, chí đến chư Thiên cũng quý mộ. — (câu 94)

Như đất, người giữ tâm quân bình và có nếp sống kỷ cương không còn xúc động. Người ấy như trụ đồng Indakhila, như ao hồ phẳng lặng, không bị bùn đất làm nhơ bẩn. Với người có tâm quân bình như thế, cuộc đi lang thang bất định của đời sống không còn lặp lại nữa. — (câu 95)

Tâm trầm tĩnh, ngôn ngữ trầm tĩnh, hành động trầm tĩnh, người ấy, hiểu biết chân chánh, trọn vẹn siêu thoát, hoàn toàn tịnh lạc và quân bình. — (câu 96)

Người không nhẹ dạ, thấu triệt trạng thái Vô Sanh (Niết Bàn), cắt đứt mọi hệ lụy, chấm dứt mọi cơ hội (cho điều thiện và điều ác phát sanh), tận diệt mọi tham ái, người ấy quả thật là tối thượng. — (câu 97)

Dù ở làng mạc hay trong rừng sâu, ở non cao hay trũng thấp, bất luận nơi nào mà vị A La Hán trú ngụ, nơi ấy quả thật là tịnh lạc. — (câu 98)

Quả thật tịnh lạc, chốn rừng sâu mà người trần tục không thích ở. Người hết dục vọng sẽ hoan hỷ an trú (ở nơi ấy) vì các Ngài không tìm dục lạc. — (câu 99)

Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người thù hận. Giữa những người thù hận, ta sống không thù hận. — (câu 197)

Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe giữa những người ươn yếu. Giữa đám người bệnh hoạn ta được sống mạnh khoẻ. — (câu 198)

Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa những người khao khát. Trong đám người tham ái ta sống không dục vọng. — (câu 199)

Hạnh phúc thay, ta sống không bị chướng ngại. Dưỡng nuôi phỉ lạc, ta sẽ như các vị Trời trong cảnh Quang Âm Thiên. — (câu 200)

Người không còn bờ bên này hay bên kia, cũng không còn cả hai bên, bên này và bên kia, người thoát ly phiền não và không còn bị ràng buộc – Như Lai gọi ngườiay là Bà La Môn (Brahmana). — (câu 385)

Người có hành thiền, sống trong sạch và ẩn dật, hoàn thành nhiệm vụ và thoát ra khỏi mọi hoặc lậu, người đã thành tựu Mục Tiêu Tối Thượng – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 391)

Người đã cắt đứt mọi thằng thúc, người không còn run sợ, đã vượt hẳn ra khỏi mọi ràng buộc, không dính mắc – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 397)

Người ấy đã cắt đứt dây cương (sân hận), dây thừng (luyến ái), và dây nọng (tà kiến), cùng các món đồ bắt kế (những khuynh hướng còn ngủ ngầm), vứt bỏ cây trục (vô minh), người đã giác ngộ (Phật) – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 398)

Người không tức giận, chịu đựng lời khiển trách, roi vọt, và hình phạt. Người lấy hạnh nhẫn nhục làm quân lực (để tự bảo vệ) – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 399)

Người không nóng giận, làm tròn bổn phận, giới hạnh trang nghiêm, thoát khỏi ái dục, thu thúc lục căn và mang xác thân ngũ uẩn này lần cuối cùng – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 400)

Như nước trên lá sen, như hột cải đặt trên đầu mũi kim, người không luyến ái dục lạc – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 401)

Tại đây, trên thế gian này, người chứng ngộ sự tận diệt phiền não của chính mình, người bỏ gánh nặng xong bên đàng và siêu thoát – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 402)

Người có tri kiến thâm diệu, người trí tuệ, thấu hiểu đường chánh nẻo tà, người đã thành đạt mục tiêu tối thượng – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 403)

Người không trìu mến hàng cư sĩ cũng như hàng xuất gia, người du phương đó đây, không có một nơi ở nhất định, người không còn tham ái – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 404)

Người đã rời bỏ gậy gộc trong khi tiếp xúc với chúng sanh, mạnh hay yếu, không sát sanh hoặc làm tổn thương bất luận ai – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 405)

Thân hữu giữa những người thù nghịch, ôn hoà trong đám đông hung hăng, hỷ xả giữa người cố chấp – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 406)

Nơi con người mà tham lam, sân hận, ngã mạn và phỉ báng (không còn bám vào được) lả tả rơi như hột cải để đầu mũi kim (phải rơi) – Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. — (câu 407)

Người nói lời êm dịu, hiền hoà, xây dựng, chân thật và không xúc phạm đến ai – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 408)

Người không tham ái điều gì trong thế gian này hay thế gian kế, người dập tắt dục vọng và siêu thoát – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 410)

Người đã vượt khỏi điều thiện, điều ác, và mọi ràng buộc, người không ưu phiền, không ô nhiễm và tinh khiết – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 412)

Ngh không bợn nhơ, người trong sáng như mặt trăng, thanh tịnh, vắng lặng và không chao động, người đã tuyệt trừ tham ái thủ hữu – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 413)

Người đã tự tách rời ra những ràng buộc trong cảnh người và vượt qua những thằng thúc của cảnh Trời, thoát ly mọi hệ lụy – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 417)

Người đã dứt bỏ ưa và ghét, thản nhiên, không bị ô nhiễm làm hoen ố, người đã khắc phục thế gian và kiên trì cố gắng – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 418)

Người không bám vào ngũ uẩn trong quá khứ, vị lai hay hiện tại, không luyến ái (ái) và không bám chặt vào (thủ) – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 412)

Vô quý, cao thượng, anh dũng, đại hiện thánh, người đã khắc phục, không còn dục vọng, người ấy rửa sạch (mọi ô nhiễm), đã giác ngộ – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 422)

Bậc hiền thánh đã thấu hiểu tiền kiếp, đã thấy những cảnh hạnh phúc và đau khổ, đã đến mức tận cùng của mọi kiếp sống, người đã, với trí tuệ cao siêu, tự mình cải tiến, hoàn tất (đời sống phạm hạnh thiêng liêng) và chấm dứt mọi dục vọng – người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. — (câu 423).


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.