Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

Hội thứ nhất 51. Phẩm Hạnh Nguyện



Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị đói khát bức bách, y phục rách rưới, đồ nằm thiếu thốn. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình ấy, khiến họ lìa xan tham, không còn thiếu thốn. Đã nghĩ như vậy rồi phát nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc đến thân mạng, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, sẽ không có các loại hữu tình thiếu thốn các đồ dùng như thế. Như chúng trời Tứ-thiên-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại thọ dụng các loại nhạc cụ thượng diệu, trong cõi Phật của ta, chúng sanh cũng được thọ dụng các thứ nhạc cụ thượng diệu như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do bố thí Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị phiền não thiêu đốt, sát hại nhau, trộm cắp, dâm dục, tà hạnh, nói lời dối trá, nói lời thô ác, nói lời chia rẽ, nói lời hỗn tạp, phát khởi các thứ tham lam, sân giận, tà kiến. Do nhân duyên này, chết yểu, nhiều bệnh, nhan sắc tiều tụy, không có oai đức, của cải thiếu thốn, sanh vào nhà hạ tiện, thân thể xấu xí tật nguyền, hôi hám, nói ra điều gì không ai tin theo, nói năng thô tục, thân hữu trái ý, chia lìa; phàm trình bày điều gì thảy đều quê tục; xan tham, tật đố, ác kiến thiêu đốt, phỉ báng chánh pháp, chê bai Thánh Hiền.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa các quả ác nghiệp, đã suy nghĩ rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hạnh tịnh giới Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, sẽ không có các loại hữu tình có các quả ác nghiệp như thế. Tất cả hữu tình đều hành thập thiện, được sống lâu, hưởng quả báo thắng diệu.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do tịnh giới Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình giận dữ, mắng nhiếc, lăng nhục lẫn nhau, dùng dao gậy, ngói đá, côn quyền, đất cục v.v… tàn hại lẫn nhau cho đến mất mạng, nhất quyết không bỏ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình ấy, khiến họ xa lìa các việc ác như thế. Đã suy nghĩ rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có ác nghiệp phiền não như thế. Tất cả hữu tình lần lần gần gũi nhau như cha mẹ, như anh em, như chị em, như nam nữ, như bạn bè thương yêu nhau, làm lợi ích cho nhau.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do an nhẫn Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thấy các loài hữu tình, lười biếng, uể oải, chẳng siêng tinh tấn, xả bỏ ba thừa, cũng chẳng thường tu thiện nghiệp trời, người.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa biếng lười uể oải. Đã nghĩ như thế rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình biếng lười uể oải như thế, tất cả hữu tình đều tinh tấn dõng mãnh, siêng tu đường thiện và nhân Ba thừa, sanh vào cõi trời người, mau chứng giải thoát.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do tinh tấn Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình tham dục, sân giận, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái che lấp; thất niệm, phóng dật, đối với bốn tịnh lự và bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn chẳng năng tu, huống là năng tu định để được xuất thế gian.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa các thứ che lấp, tán loạn, lay động. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình đủ các thứ che lấp, tán loạn, lay động như thế. Tất cả hữu tình tự tại du hý trong các loại định tịnh lự, vô lượng, vô sắcv.v…

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do tịnh lự Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ngu si, ác tuệ; đối với chánh kiến thế và xuất thế đều mất, bát cho là không có nghiệp và nghiệp quả thiện ác, chấp đoạn, chấp thường, chấp một, chấp khác, câu, chẳng câu v.v… đủ các loại tà pháp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát, thấy việc này rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm gì để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến xa lìa ác kiến, tà chấp. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có ác tuệ, tà chấp như thế; tất cả hữu tình thành tựu chánh kiến, đủ các loại diệu tuệ, đầy đủ ba minh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có ba nhóm sai biệt: Một là nhóm tà định, hai là nhóm chánh định, ba là nhóm bất định.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến xa lìa nhóm tà định và bất định. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có nhóm tà định và bất định. Các loại hữu tình cũng không có đủ cả ba nhóm tên gọi như thế, tất cả hữu tình đều chỉ có nhóm chánh định thôi.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà chóng được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình đọa trong ba đường ác: Một là địa ngục, hai là bàng sanh, ba là quỷ giới.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ vĩnh viễn xa lìa cái khổ của ba đường ác. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng không có tên của ba đường ác như thế. Tất cả hữu tình đều gồm thâu trong đường thiện.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình, do nghiệp chướng ác, chỗ ở trên quả đất cao thấp chẳng bằng, gò, đồi, khe, hầm, cỏ dại, cây trụi, gai gốc nhọn độc, dẫy đầy đồ bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ vĩnh viễn diệt các nghiệp chướng ác, chỗ ở đất bằng như bàn tay, không có các loại cỏ dại, cây trụi v.v… Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các đại địa do nghiệp cảm uế tạp như thế. Nơi ở của hữu tình đất đai bằng phẳng, vườn rừng ao suối, các hương hoa vi diệu, xen lẫn trang nghiêm, rất dễ ưa thích.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình, vì phước đức cạn mỏng nên chỗ ở trên địa cầu, không có các trân bảo, chỉ có các loại đất, đá, ngói gạch.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào cứu giúp các loại hữu tình nhiều tội, ít phước như thế, khiến chỗ ở của họ có nhiều châu báu. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi nước của ta không có các loài hữu tình nhiều tội ít phước như thế, mà có cát vàng rải đất, khắp nơi đều có ngọc phệ lưu ly v.v… các loại ngọc kỳ lạ, vi diệu các hữu tình thọ dụng mà không nhiễm trước.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình khi thâu nhận cái gì đều sanh luyến trước, khởi các việc ác.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình thâu nhận điều ác như vậy, khiến họ vĩnh viễn xa lìa ác nghiệp luyến trước. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta không có các loại hữu tình thâu nhận các điều ác như thế; tất cả hữu tình đối với các cảnh sắc v.v… hoàn toàn không thâu nhận, chẳng sanh luyến trước.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn dòng dõi quý tiện sai biệt: Một là Sát-đế-lợi, hai là Bà-la-môn, ba là Phệ-xá, bốn là Thú-đạt-la.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải dùng phương tiện thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có bốn dòng dõi quý tiện sai biệt như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta không có bốn dòng dõi quý tiện sai biệt như thế; tất cả hữu tình đồng một dòng dõi, thảy đều tôn quý, thuộc về loài người.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có gia tộc thượng, trung, hạ sai biệt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có gia tộc bậc thượng, trung, hạ sai biệt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có gia tộc bậc thượng, trung, hạ sai biệt, tất cả hữu tình đều đồng bậc thượng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình đẹp đẽ, xấu xí, hình sắc sai biệt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có hình sắc sai biệt như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có hình sắc sai biệt như vậy. Tất cả các hữu tình đều là sắc vàng ròng, đẹp đẽ tuyệt vời, ai cũng ưa nhìn, thành tựu sắc thân viên mãn thanh tịnh đệ nhất.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị hệ thuộc người làm chủ, có làm việc gì chẳng được tự do.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến họ được tự do. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có ai làm chủ, ai muốn làm việc gì đều được tự do, cho đến chẳng thấy hình tượng chủ tể, cũng chẳng nghe danh tự chủ tể, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp thống nhiếp gọi là Pháp Vương.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có các đường sai biệt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến không có các đường thiện ác sai biệt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các đường thiện ác sai biệt, cho đến không có danh tự địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc, nhơn, thiên. Tất cả hữu tình đều cùng một loài, cùng tu một pháp đó là cùng hòa hợp tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông; tu hành pháp môn Tam-ma-địa, tu hành pháp môn Đà-la-ni; tu hành mười lực Phật, tu hành bốn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tu hành hạnh đại Bồ-tát; tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn loài sai biệt: Một là noãn sanh, hai là thai sanh, ba là thấp sanh, bốn là hóa sanh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có bốn loài sai biệt như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có bốn loài hữu tình sai biệt như thế. Các loài hữu tình đều cùng hóa sanh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có năm loại thần thông, đối với việc làm không được tự tại.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loài hữu tình đều khiến đạt được năm tuệ thần thông. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình có năm tuệ thần thông đều được tự tại.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thọ dụng đoàn thực, thân có các thứ đại tiểu tiện, máu mủ hôi thối, thật đáng chán bỏ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình thọ dụng đoàn thực như thế, khiến trong thân họ không có các loại dơ uế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các hữu tình đều cùng thọ dụng món an diệu pháp hỷ, thân thể thơm sạch, không có các việc đại tiểu tiện dơ uế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân không ánh sáng, có làm việc gì phải nhờ đến ánh sáng bên ngoài.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến rời bỏ thân không ánh sáng như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, thân các loài hữu tình đầy đủ ánh sáng, chẳng nhờ ánh sáng bên ngoài.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy nơi cư ngụ của các hữu tình có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết số năm, chuyển biến chẳng thường.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến chỗ ở của họ không có ngày đêm và các việc thay đổi. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có ngày đêm, và tháng nửa tháng, thời tiết năm số cho đến không có từ ngày, đêm v.v…

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngủi.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến xa lìa tuổi thọ ngắn ngủi như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, tuổi thọ của các loài hữu tình dài lâu, khó biết kiếp số.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có các tướng tốt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến được tướng tốt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn trang nghiêm, hữu tình trông thấy sanh niềm vui thanh thoát.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy loài hữu tình xa lìa các căn lành.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình như thế khiến đủ căn lành. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, tất cả đều thành tựu căn lành vi diệu thù thắng. Do căn lành này, thường sắm sửa các món cúng dường thượng diệu để cúng dường chư Phật, nương vào phước lực này, tùy theo chỗ thọ sanh, lại thường cúng dường chư Phật Thế Tôn.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có đủ các bệnh về thân tâm; thân bệnh có bốn: Một là bệnh phong, hai là bệnh nhiệt, ba là bệnh đàm, bốn là đủ các loại bệnh phức tạp về phong. Tâm bệnh cũng có bốn: Một là bệnh tham, hai là bệnh sân, ba là bệnh si, bốn là bệnh mạn v.v… các thứ bệnh phiền não.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình có bệnh khổ thân, tâm như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, thân tâm thanh tịnh, không có nỗi khổ về bệnh, cho đến không nghe tên của các bệnh phong, nhiệt, đàm, và các bệnh phong phức tạp khác; cũng chẳng nghe các bệnh phiền não như tham, sân, si, mạn v.v…

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy có hữu tình có đủ các ý thích: Hoặc có người thích hướng đến Thanh-văn thừa, hoặc có người thích hướng đến Độc-giác thừa, hoặc có người thích hướng đến Vô thượng thừa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến từ bỏ ý thích hướng đến Thanh-văn, Độc-giác thừa, chỉ khiến thích hướng đến Vô thượng Đại-thừa. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột, chẳng ưa quả Thanh-văn, Độc-giác thừa cho đến không có tên Nhị thừa, chỉ nghe các thứ công đức của Đại-thừa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình khởi tăng thượng mạn; chưa có thể thật sự xa lìa sự giết hại sanh mạng mà cho là ta thật sự xa lìa sự giết hại sanh mạng; chưa có thể thật sự xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục tà hạnh mà cho là ta thật sự xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục tà hạnh; chưa có thể thật sự xa lìa lời nói hư dối mà cho là ta thật sự xa lìa lời nói hư dối; chưa có thể thật sự xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói chia rẽ, xa lìa lời nói hỗn tạp mà cho là ta thật sự xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói chia rẽ, xa lìa lời nói hỗn tạp; chưa có thể thật sự xa lìa tham dục mà cho là ta thật sự xa lìa tham dục; chưa có thể thật sự xa lìa sân giận và xa lìa tà kiến mà cho là ta thật sự xa lìa sân giận và xa lìa tà kiến; chưa đắc sơ thiền mà cho là đắc sơ thiền; chưa đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền mà cho là đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền; chưa đắc định Không-vô-biên xứ mà cho là đắc định Không-vô-biên xứ; chưa đắc định Thức-vô-biên xứ, Vô-sở-hữu xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ mà cho là đắc định Thức-vô-biên xứ, Vô-sở-hữu xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ; chưa đắc từ vô lượng mà cho là đắc từ vô lượng; chưa đắc bi, hỷ, xả vô lượng mà cho là đắc bi, hỷ, xả vô lượng; chưa đắc thần cảnh trí chứng thông mà cho là đắc thần cảnh trí chứng thông; chưa đắc thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chứng thông mà cho là đắc thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chứng thông; chưa đắc quán bất tịnh mà cho là đắc quán bất tịnh; chưa đắc quán lĩnh vực sai biệt của từ bi niệm tức duyên khởi mà cho là đắc quán lĩnh vực sai biệt của từ bi niệm tức duyên khởi; chưa đắc bậc chỉ quán mà cho là đắc bậc chỉ quán; chưa đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện mà cho là đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện; chưa đắc quả vị Độc-giác mà cho là đắc quả vị Độc-giác; chưa đắc bố thí Ba-la-mật-đa mà cho là đắc bố thí Ba-la-mật-đa, chưa đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cho là đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chưa chứng pháp không nội mà cho là chứng pháp không nội, chưa chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà cho là chứng pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; chưa chứng chơn như mà cho là chứng chơn như, chưa chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà cho là chứng pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chưa chứng Thánh đế khổ mà cho là chứng Thánh đế khổ, chưa chứng Thánh đế tập, diệt, đạo mà cho là chứng Thánh đế tập, diệt, đạo; chưa đắc bốn niệm trụ mà cho là đắc bốn niệm trụ, chưa đắc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà cho là đắc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chưa đắc bốn tịnh lự mà cho là đắc bốn tịnh lự, chưa đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cho là đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chưa đắc tám giải thoát mà cho là đắc tám giải thoát, chưa đắc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà cho là đắc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chưa đắc pháp môn giải thoát không mà cho là đắc pháp môn giải thoát không, chưa đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cho là đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chưa đắc bậc Cực hỷ mà cho là đắc bậc Cực hỷ, chưa đắc bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân mà cho là đắc bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; chưa đắc năm loại mắt mà cho là đắc năm loại mắt, chưa đắc sáu phép thần thông mà cho là đắc sáu phép thần thông; chưa đắc pháp môn Tam-ma-địa mà cho là đắc pháp môn Tam-ma-địa, chưa đắc pháp môn Đà-la-ni mà cho là đắc pháp môn Đà-la-ni; chưa đắc mười lực Phật mà cho là đắc mười lực Phật, chưa đắc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà cho là đắc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chưa đắc pháp không quên mất mà cho là đắc pháp không quên mất, chưa đắc tánh luôn luôn xả mà cho là đắc tánh luôn luôn xả; chưa đắc trí nhất thiết mà cho là đắc trí nhất thiết, chưa đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cho là đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chưa nghiêm tịnh cõi Phật mà cho là nghiêm tịnh cõi Phật, chưa thành thục hữu tình mà cho là thành thục hữu tình; chưa hiểu kỹ nghệ khéo léo của thế gian mà cho là hiểu kỹ nghệ khéo léo của thế gian; chưa tu hạnh đại Bồ-tát mà cho là tu hạnh đại Bồ-tát; chưa đắc quả vị giác ngộ cao tột mà cho là đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa sự kết buộc của tăng thượng mạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có hạng tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình lìa tăng thượng mạn.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình chấp trước các pháp, đó là chấp trước sắc, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chấp trước nhãn xứ, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chấp trước sắc xứ, chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chấp trước nhãn giới, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chấp trước sắc giới, chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chấp trước nhãn thức giới, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chấp trước nhãn xúc, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chấp trước địa giới, chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chấp trước tánh nhân duyên, chấp trước tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chấp trước vô minh, chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; chấp trước ngã, chấp trước hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy; chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chấp trước pháp không nội, chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chấp trước chơn như, chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chấp trước Thánh đế khổ, chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chấp trước bốn niệm trụ, chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chấp trước bốn tịnh lự, chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chấp trước tám giải thoát, chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chấp trước pháp môn giải thoát không, chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chấp trước bậc Cực hỷ, chấp trước bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chấp trước năm loại mắt, chấp trước sáu phép thần thông; chấp trước pháp môn Tam-ma-địa, chấp trước pháp môn Đà-la-ni; chấp trước mười lực Phật, chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chấp trước pháp không quên mất, chấp trước tánh luôn luôn xả; chấp trước trí nhất thiết, chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chấp trước quả Dự-lưu, chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chấp trước quả vị Độc-giác; chấp trước hạnh đại Bồ-tát; chấp trước quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến xa lìa chấp trước. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình không có các loại chấp trước như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hào quang giới hạn, tuổi thọ giới hạn, các chúng đệ tử số lượng giới hạn.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta làm thế nào để được hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, và các chúng đệ tử số lượng không giới hạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Bấy giờ, thân ta hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, các chúng đệ tử số đông vô lượng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà cõi Phật chu vi giới hạn.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta làm thế nào để được cõi Phật vô lượng. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột, như hằng hà sa số đại thiên thế giới ở mười phương hiệp lại thành một cõi, Ta trụ trong đó thuyết pháp giáo hóa vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình, sanh tử dài lâu, các thế giới hữu tình, số lượng vô biên.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Giới hạn của sanh tử giống như hư không, thế giới hữu tình cũng giống như thế. Tuy không chơn thật, nhưng các loại hữu tình lưu chuyển sanh tử, hoặc đắc Niết-bàn, nên các hữu tình vọng chấp là có luân hồi sanh tử, thọ khổ vô biên. Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp họ. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình nói pháp Vô thượng, đều khiến giải thoát khổ lớn sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát hoàn toàn không sở hữu, đều rốt ráo không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.