Thông tin sách

Thanh Từ Toàn Tập

Thanh Từ Toàn Tập

 Tình trạng:

Đang tiến hành 1 Chương
Đánh giá: 10 /10 từ 1 lượt

LỜI DẪN

Thiền tông Việt Nam luôn là mạch sống tuôn chảy trong lòng Phật giáo và dân tộc suốt từ thế kỷ thứ VI đến nay. Có lúc mạnh mẽ tuôn tràn giữa ngàn hoa đô hội, có lúc len lỏi âm thầm trong núi sâu rừng thẳm, ung dung thoát tục, khuất tịch tiêu sái. Tuy nhiên, mạch sống thiền xưa nay vẫn như vậy, không đến không đi, là dòng sinh mệnh muôn thuở của những bậc thức tâm đạt bổn.

Hòa thượng tôn sư thượng Thanh hạ Từ khi mới vào đạo cho đến hôm nay đã lấy thiền làm mạng sống, nuôi dưỡng công phu qua những giai đoạn hành thiền nghiêm cẩn. Cuối cùng ngài thấu tỏ được lời Phật ý Tổ bằng chính sự nỗ lực không ngừng. Dòng thiền Việt Nam sau gần bảy trăm năm đi vào quên lãng, đã được Hòa thượng thắp sáng trở lại. Ngài nói:

“Thiền tông là cốt tủy của Phật giáo. Bởi vì muốn chỉ chân lý hiện hữu nơi con người, song ngại người ta khinh thường và dễ quên, nên kinh điển Đại thừa nói bằng cách diễn giảng những hình ảnh thâm sâu khó hiểu, còn thiền sư dùng thuật xuất quỷ nhập thần khiến người ta mở một không có lối vào. Nếu ai tháo gỡ được cây chốt bí mật ấy, tự nhiên thấy nó chân thật bình di vô cùng. Chừng đó mới thấy Kinh và Thiền không có hai lối. Tuy nhiên Thiền tông luôn luôn tuyên bố Giáo ngoại biệt truyền, cốt dẫn hành giả thấy đến nơi sống chân thật, không mắc kẹt trên văn tự ngữ ngôn, không chết chìm trong suy tư lý luận. Nếu Thiền tông khác với kinh Phật tức không phải đạo Phật nổi. Chính vì lẽ đó, Thiền và Kinh luôn song hành để đưa hành giả đến nơi rốt ráo chân thật.”

Những năm theo học tại Phật học dường Nam Việt chùa Ấn Quang, Hòa thương là người siêng năng cần mẫn toàn tâm duyệt tạng. Tuy nhiên chỉ thú kinh điển Đại thừa đối với ngài lúc bấy giờ thật xa xôi diệu vợi. Về sau, nhân duyên được một Phật tử cúng dường Đại tạng, Hòa thương xem đây là linh hồn của ngài trên khắp mọi nẻo đường tu học cũng như hành đạo. Khi về Phương Bối am, đây là thời gian tốt nhất để ngài vừa tu thiền vừa nghiên cứu kinh điển và dịch thuật. Giáo nghĩa Đại thừa và Thiền tông dần dần sáng tỏ. Các tác phẩm, dịch phẩm của Hòa thượng ra đời như: Tham Thiền Yếu Chỉ, Tọa Thiền Dụng Tâm Ký. Tọa Thiền Tam-muội v.v… đã mở dầu cho sự nghiệp văn học thiền của ngài.

Rời Phương Bối về Huệ Nghiêm, Hòa thượng tiếp tục con đường hoằng pháp lợi danh và luôn giữ hoài bão tu thiền mãnh liệt. Đến năm 1966, Hòa thượng về Núi Lớn – Vũng Tàu, dựng Pháp Lạc thất chuyên tâm tu thiền. Đại duyên đại chí khởi phát, cánh cửa Không mở toang, con đường thiền rực sáng, toàn bộ giáo nghĩa Thiền tông hoát nhiên thông thống. Hòa thượng thống khoái chống gây xuống núi, dựng pháp tràng lập tổng chi, tiếp tăng độ chúng.

Thiền viện Chơn Không ra đời. Con đường thiền giáo đồng hành được Hòa thượng mở ra hướng dẫn cho tăng ni Phật tử hữu duyên. Vừa hành thiền, vừa dịch thuật, vừa giảng dạy, ngài đã thật sự làm sống dậy dòng thiền Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm, dịch phẩm thiên tiếp tục xuất hiện như: Xuân Trong Cửa Thiền, Bát-nhã Tâm Kinh, Nguồn Thiền, Luận Tối Thượng Thừa, Thiền Căn Bản, Thiền Đốn Ngộ, Sử 33 Vị Tổ Ân Hoa, Thiền Sư Trung Hoa, Bích Nham Lục v.v… lần lượt ra đời, đáp ứng nhu cầu tu thiền của tăng ni Phật từ ngày càng đông.

Năm 1974, thiền viện Thường Chiếu ra đời. Thiền tông Việt Nam bước sang một bước ngoặt mới. Tu học và lao động trở thành phương châm sống của thiền sinh. Tuy khó khăn kham khổ mà thầy trò vẫn tươi vui, tin tưởng. Cuộc sống được khai hoang từ những mảnh đất khô cằn vụn vỡ. Đó chính là sức sống thiền, tuôn chảy từ trong nguồn tâm sâu thẳm của sự tỉnh thức an nhiên. Pháp hóa của Hòa thượng cứ thế lan tỏa vào đời,

Thường Chiếu trở thành tổ đình truyền bá Thiền tông Việt Nam. Cuối đông 1991 Hòa thương cho ra đời tác phẩm Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ XX, nói lên co đường tu tập của dòng thiền Chơn Không – Thường Chiếu Kinh sách của Hòa thượng đã trở thành cẩm nang cho hành giả tu thiền Việt Nam: Nguồn An Lạc, Hoa Và Lu Quy Sơn Cảnh Sách, Bát Đại Nhân Giác, Thập Nhị Môn Luân, Kim Cang, Viên Giác, Pháp Hoa, Pháp Bảo Đàn, Lăng già, Trung Quán, Thiền Sư Việt Nam v.v… đã được tăng ni Phật tử đọc tụng hành trì dưới sự giảng giải cặn kẽ của Hòa thượng.

Năm 1993, thiền viện Trúc Lâm ra đời, đây là đỉnh cao của hành trình khôi phục dòng thiên nước Việt. Thiền tông Việt Nam phát triển rực rỡ. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, tất cả các nghi thức tụng niệm và hành lễ đều được Việt hóa hoàn toàn tại thiền viện Trúc Lâm, cũng như các thiền viện trực thuộc dòng thiền của Hòa thượng. Những tác phẩm ra đời tại thiền viện Trúc Lâm như: Phụng Hoàng Cảnh Sách, Tiến Thắng Vào Thiên Tông, Khóa Hư Lục, Tham Đổ Hiển Quyết và Thi Tung Các Thiền Sư Đời Lý, Mười Bức Tranh Chăn Trâu, Thiền Tông Bản Hạnh, Kiến Tánh Thành Phật, Thánh Đăng Lục, Tam Tổ Trúc Lâm v.v… Có thể nói sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh và sự nghiệp văn học thiền của Hòa thượng đã cống hiến cho Phật giáo Việt Nam một kho tàng trí tuệ quý báu vô lượng.

Năm 1997, Ban Văn Hóa Thường Chiếu ra đời dưới sự chủ trì của ngài. Tăng ni hàng môn hạ vâng theo sự chỉ giáo của Hòa thượng ân sư, cùng nhau biên tập lại toàn bộ tác phẩm, dịch phẩm của ngài trong suốt những chặng đường hoàng truyền chánh pháp mà Hòa thượng đã tâm tâm niệm niệm vì đạo pháp vì chúng sanh. Sự nghiệp văn học của ngài được gây dựng từ khi còn là tăng sĩ trẻ cho đến những năm gần cuối đời thật không gì có thể sánh nổi. Bởi vì ở đó là kho tàng vô giá của trí tuệ và công phu, những kinh nghiệm tu tập quý báu của một bậc. thầy lớn, một thiền sư, một chân tăng thật tu thật ngộ. dinhn Không kể đến những công trình dịch thuật, sáng tác, thi kệ về thiền tông, không kể đến những tác phẩm giảng giải thăm thủy bình dị, không kể đến những năm tháng miệt mài bên những trang giáo án dành cho tăng ni tứ chúng… Sáng giá nhất là toàn bộ cuộc đời tu tập và hành đạo của ngài. Đây mới chính là tác phẩm vô giá trong sự nghiệp văn học thiền của Hòa thượng. Văn là người. Mượn đầu bút xoay chuyển dòng nghiệp thức muôn đời, giúp chúng sanh chuyển mê khai ngộ, mang hạnh nguyện tự lợi lợi tha đi vào đời, cho nên toàn bộ tác phẩm của Hòa thượng cũng chính là con người của ngài. Một ngôi sao sáng trong văn học thiền Việt Nam. cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Ở đó ánh lên những chất vị cao đẹp tinh khiết mà đậm đà dễ gắn dễ đến của một thiên sư Việt Nam: chân chất, bình dị, trí tuệ và tròn đầy bi mẫn.

Có thể nói sự nghiệp văn học thiền của Hòa thượng đã đóng góp cho nền văn học Phật giáo Việt Nam nói chung và nền văn học Thiên tông Việt Nam nói riêng, một kho báu trí tuệ và kinh nghiệm tu tập vô cùng quý già. Tăng ni Phật tử Việt Nam không thể nào nói hết và băng giảng của Hòa thượng, người sau có thể lần mò lòng cảm kích tri ân đối với ngài. Thông qua kinh sách theo dấu vết người trước, nhận được nguồn sống tâm linh của một bậc chân tăng, một thiền sư Việt Nam vào thế kỷ XXI. Từ đó noi theo tu tập ngõ hầu thành tựu sự nghiệp giác ngộ giải thoát cho chính mình.

Bên cạnh con đường thực chứng tâm linh, hoàng pháp và văn hóa là sự nghiệp độ sanh sáng chói nhất của Hòa thượng. Đây là niềm vinh hạnh và là tấm gương sáng cho tăng ni Phật tử Việt Nam. Muốn giữ gìn và rộng truyền công đức của ngài, quả là một việc làm quả sức đối với hàng đệ tử thô tâm thiền trí. Song không thể để cho pháp bảo vô giá và một đời giáo hóa của thầy tổ bị mai một, chúng tôi đã chẳng ngại tài hèn sức mạn công phu kém cỏi, cùng nhau tận tâm tận lực biên tập và hệ thống lại toàn bộ kinh sách của Hòa thương ăn sự Hy vọng bộ Thanh Từ Toàn Tập tái bản lần này sẽ đẩy đủ và hoàn chỉnh hơn bộ Thanh Từ Toàn Tập đầu tiên đã ra mắt độc giả vào năm 2002.

Việc làm này nếu không có sự gia trì của Tam bảo, sự chỉ đạo của Hòa thượng ân sư, sự nhất tâm hòa hợp của chư huynh đệ, sự phát tâm hỷ cúng tài lực của mười phương tín thí, có lẽ Phật sự này khó có thể thành tựu. Tất cả đều vì xiển dương chánh pháp, xiến dương Thiên tông Việt Nam, vì hết lòng tưởng nhớ công ơn giáo dưỡng của thầy tổ, mà hướng tâm về pháp bảo, mong phần nào đền đáp thâm ân rộng sâu của Ân sư, thực hiện hoài bão của thầy tổ, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.

Công đức có được chúng tôi xin dâng lên cúng dường Hòa thượng ân sư, nguyện ngài sống lâu nơi đời, là nơi nương tựa tâm linh cho tăng ni tứ chúng trên con đường tu học cho tới ngày viên mãn. Đồng nguyện hồi hướng về pháp giới chúng sanh chuyển mê khai ngộ. tịnh hóa thân tâm, mỗi mỗi đều được hàm triêm lợi lạc.

Chúng con xin thành tâm đê đầu đảnh lễ sám hối Thầy, vì những lỗi làm sai sót trong khi chấp bút biên tập lại kinh sách và băng giáng của Thầy, vì sự hạn chế về trí tuệ cũng như công phu tu tập của chúng đệ tử. Chúng con cùng nguyện theo chân Thầy học đạo cho tới ngày thành tựu giác ngộ viên mãn mới thôi.

Xin được cảm kích tri ân các pháp hữu hoan hỷ chỉ bảo cho những sai sót khó tránh khỏi của bộ sách. Sau cùng xin cảm niệm công đức tất cả quý Phật tử gần xa đã tùy tâm ủng hộ cho Phật sự in ấn bộ Thanh Từ Toàn Tập được thành tựu viên mãn.

Thiền viện Thường Chiếu, ngày 12-12-2012

TM. BAN VĂN HÓA THƯỜNG CHIẾU

THÍCH NHẬT QUANG


PHÀM LỆ

Những quy ước sau đây được sử dụng thống nhất trong bộ sách.

I/. Cách viết hoa, gạch nối từ:

1) Danh từ riêng (nhân, vật, địa danh)

a) Từ Hán Việt, từ thuần Việt: viết hoa toàn bộ.

Thí dụ: tổ sư Linh Hựu, vua Trần Nhân Tông, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thành Vương Xá, tỉnh Đồng Nai v.v…

* Trường hợp cụm danh từ dài thì viết hoa chữ đầu các nhóm nhỏ.

Thí dụ: – sách Vài nét chính trong Luân lý Phật giáo, Ban Từ thiện Xã hội v.v…

b) Từ phiên âm tiếng Phạn, Pāli: viết hoa chữ đầu và dùng gạch nối.

Thí dụ: Phật Thích-ca-mâu-ni (Sākyamuni), kinh Thủ-lăng-nghiêm (Sūrangama), thành Xá-vệ (Srāvāsti) v.v…

2) Quả vị, giai cấp

a) Từ Hán Việt: viết hoa chữ đầu.

Thí dụ: Duyên giác, Tăng lữ v.v…

b) Từ phiên âm tiếng Phan, Pali: viết hoa chữ đầu và dùng gạch nối.

Thí dụ: Tu-đà-hoàn (Sotapatti), Sát-đế-lợi (Sastriva) v.v…

3) Thuật ngữ Phật học

a) Các thuật ngữ Phật học thông thường

– Từ Hán Việt, thuần Việt: viết thường.

Thí dụ: tam độc, sáu trần, mười hai nhân duyên…

– Từ được phiên âm tiếng Phạn, Pali: viết thường và dùng gạch nối.

Thí dụ: ba-la-mật (panmita), già-lam (sanghardma)…

b) Thuật ngữ Phật học nhấn mạnh

– Từ Hán Việt, thuần Việt: viết hoa chữ đầu.

Thí dụ: Tam bảo, Năm thiền phái v.v…

– Từ được phiên âm tiếng Phạn, Pāli: viết hoa chữ đầu và dùng gạch nối.

Thí dụ: Bát-nhã (Prajñā), Niết-bàn (Nirvāna) v.v…

4) Các từ chỉ danh phẩm, chức vị v.v…viết thường.

Thí dụ: tổ sư, thiền sư, đại sư, hòa thượng, trưởng giả, bậc, đấng, đức v.v…

* Trường hợp làm đại danh từ thì viết hoa chữ đầu.

Thí dụ: Khi thiền sư Hy Thiên ở chỗ tổ Huệ Năng, nghe Lục Tổ sắp tịch, hỏi Tổ: Sau khi Hòa thương viên tịch, con phải nương ai?

5) Danh từ chỉ các loài, phương hướng v.v… viết thường.

Thí dụ: hương chiên đàn (candana), chư thiên, dạ-xoa (yakşa), phía bắc, hướng đông nam v.v…

* Trường hợp trở thành danh từ riêng thì viết hoa.

Thí dụ: chợ Đông, cửa Bắc, Tây đường v.v…

II/. Các từ có cách viết, âm đọc khác nhau được sử dụng như sau:

Sử dụng

Không sử dụng

Thanh văn, cứu cánh, chánh pháp, sanh diệt, kiến tánh, tánh tình, lãnh vực v.v… Thịnh văn, cứu kinh, chính pháp, sinh diệt, kiến tính, tính tình, lĩnh vực v.v…
Chính trị, hưng thịnh, sinh hoạt v.v… Chánh trị, hưng thạnh, sanh hoạt v.v…
Bản lai, chân không, chân thật, nhân gian v.v… Bổn lai, chơn không, chơn thật, nhơn gian v.v…
Gửi thư, cấp bậc, giật mình, thật tình, sai bảo, thật tướng v.v… Gởi thơ, cấp bực, giựt mình, thiệt tình, sai biểu, thực tướng v.v…
Nương tựa, làm giùm, giấu giếm, trí tuệ v.v… Nương dựa, làm dùm, dấu diếm, trí huệ v.v…
Hy sinh, kỷ yếu, chân lý, mỹ thuật, quy y v.v… Hi sinh, kỉ yếu, chân lí, mĩ thuật, qui y v.v…

* Ngoại lệ các từ đã thành tên riêng thì giữ nguyên.

Thí dụ: tổ sư Huệ Năng, thiền viện Chơn Không v.v…

Ban Văn Hóa Thường Chiếu


Sách mới nhất

Bình luận