Nhất nhật, đường tiền tọa thứ, hốt hữu Tăng vấn:
– Phật chi dữ Thánh, kỳ nghĩa vân hà?
Sư vân:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.
Tiến vân:
Tạ! Học nhân bất hội, thỉnh tái chỉ thị.
Sư vân:
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.
Tăng hựu vấn:
Dĩ hoạch sư chân chỉ
Huyền cơ thị như hà?
Sư vân:
Bất thận thủy bàn kình mãn khứ.
Nhất tao tha điệt hối hà chi!
Tiến vân:
Tạ!
Sư chỉ vân:
Mạc trạc giang ba nịch,
Thân lai khước tự trầm.
Tăng hựu vấn:
Thiếu thất, Ma-kiệt tối huyền, tự cổ vu kim thùy kế tương vi chủ?
Sư vân:
U minh càn tượng nhân ô thố,
Khuất khúc khôn duy vị Nhạc, Hoài.
Hựu vấn:
Như hà thị đại đạo,
Căn nguyên nhất lộ hành?
Sư vân:
Cao ngạn tật phong tri kính thảo,
Bang gia bản đãng thức trung lương.
Hựu vấn:
Nhất thiết chúng sanh tòng hà nhi lai,
Bách niên chi hậu tòng hà nhi khứ?
Sư vân:
Manh qui xuyên thạch bích,
Bả miết thướng cao sơn.
Hựu vấn:
“Thanh thanh thúy trúc tận chân như.”
Như hà thị chân như dụng?
Sư vân:
Tặng quân thiên lý viễn,
Tiếu bả nhất âu trà.
Tiến vân:
Nhậm ma tức “không lai hà ích”?
Sư vân:
Thùy thức Đông A khứ,
Đồ trung tái bạch đầu.
Hựu vấn:
Dã hiên nhất thâm hộ,
Thùy thức đẳng nhàn xao?
Sư vân:
Kim cốc tiêu sơ hoa thảo loạn,
Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương.
Tiến vân:
Vi thập ma như thử?
Sư vân:
Phú quí kiêm kiêu thái,
Phiên linh bại thị lâu.
Hựu vấn:
Long nữ hiến châu thành Phật quả,
Đàn-na xả thí phúc như hà?
Sư vân:
Vạn cổ nguyệt trung quế,
Phù sơ tại nhất luân.
Tiến vân:
Nhậm ma tức lao nhi vô công?
Sư vân:
Thiên thượng như huyền kính,
Nhân gian xứ xứ thông.
Hựu vấn:
“Độ hà tu dụng phiệt,
Đáo ngạn bất tu thuyền.”
Bất độ thời như hà?
Sư vân:
Hạc trì ngư tại lục,
Hoạch hoạt vạn niên xuân.
Tiến vân:
Nhậm ma tức “tùy lưu thủy hoạch diệu lý”?
Sư vân:
Kiến thuyết Kinh Kha lữ,
Nhất hành cánh bất hồi.
Hựu vấn:
Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất khí,
Thỉnh Sư phương tiện luyện tinh hình.
Sư vân:
Bất thị Tề quân khách,
Na tri hải đại ngư?
Tiến vân:
Quách quân nhược bất nạp
Gián ngữ diệc hề vi?
Sư vân:
Nhược dục tiên đề ẩm,
Hưu vi xảo họa xà.
Hựu vấn:
Xà tử ư lộ thỉnh Sư cứu hoạt.
Sư vân:
Nhữ thị hà phương nhân?
Tăng viết:
Bản lai sơn nhân.
Sư vân:
Tốc hồi cựu nham ẩn,
Mạc kiến Hứa Chân Quân.
Hựu vấn:
Hải tạng thao thao ưng bất vấn,
Tào Khê trích trích thị như hà?
Sư vân:
Phong tiền tùng hạ thê lương vận,
Vũ hậu đồ trung thiển trọc nê.
Tiến vân:
Nhậm ma tức bất dị kim thời dã?
Sư vân:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu noãn nhật oanh.
Hựu vấn:
Chiêu chiêu tâm mục chi gian,
Lãng lãng sắc thân chi nội.
Nhi lý bất khả phân, tướng bất khả đổ, vi thập ma bất đổ?
Sư vân:
Uyển trung hoa lạn mạn,
Ngạn thượng thảo ly phi.
Tiến vân:
Tuế hàn quần miêu lạc,
Hà dĩ khả tuyên dương.
Sư vân:
Hỉ quân lai tự đạt,
Bất diệc thả hoan ngu.
Tiến vân:
Hạnh văn kim nhật quyết
Tòng thử miễn hốt vô.
Sư vân:
Thiển nịch tài đề xuất,
Hồi đầu vạn trượng đàm.
Hựu vấn:
“Niết-bàn thành nội thượng do nguy.”
Như hà thị bất nguy chi xứ?
Sư vân:
Doanh sào liêm mạc thượng,
Mấn phát vi thiều hành.
Tiến vân:
Nhược tao thời bách cận,
Lưỡng xứ thị hà vi?
Sư vân:
Trượng phu tùy phóng đãng,
Phong nguyệt thả tiêu dao.
Hựu vấn:
“Nhất thiết chúng sanh
Giai ngôn thị Phật.”
Thử lý vị minh,
Thỉnh Sư thùy thị.
Sư vân:
Khuyến quân thả vụ nông tang khứ,
Mạc học tha nhân đãi thố lao.
Tiến vân:
Hạnh mông Sư hiển quyết,
Chung bất hướng tha cầu.
Sư vân:
Khả lân tao nhất yết,
Cơ tọa khước vong san.
Hựu vấn:
Kỷ niên đa tích nang trung bảo,
Kim nhật đương trường địch diện tiền.
Sư vân:
Chỉ đãi trung thu nguyệt,
Khước tao vân vũ xâm.
Tiến vân:
Tuy văn Sư ngữ thuyết,
Thử lý vị phân minh.
Sư vân:
Tiếu tha đồ bảo trụ,
Nịch tử hướng trung lưu.
Hựu vấn:
Như hà thị nhất pháp?
Sư vân:
Bất kiến xuân sanh kiêm hạ trưởng,
Hựu phùng thu thục cập đông tàng.
Tiến vân:
Nhậm ma tức thành Phật đa dã?
Sư vân:
Tổ Long khu tự chỉ,
Từ Phúc viễn đồ lao.
Hựu vấn:
“Kiến tánh thành Phật”, kỳ nghĩa như hà?
Sư vân:
Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát,
Phong xuy thiên lý phức thần hương.
Tiến vân:
Học nhân bất hội, nguyện Sư tái chỉ.
Sư vân:
Vạn niên gia tử thụ,
Thương thúy tủng vân đoan.
Hựu vấn:
Ma-ni dữ chúng sắc,
Bất hợp bất phân ly.
Sư vân:
Xuân hoa dữ hồ điệp,
Cơ luyến cơ tương vi.
Tiến vân:
Nhậm ma tức thùy tha hỗn tạp?
Sư vân:
Bất thị Hồ tăng nhãn,
Đồ lao sính biện châu.
Hựu vấn:
Như hà thị xúc mục bồ-đề?
Sư vân:
Kỷ kinh khúc mộc điểu,
Tần xuy lãnh tê nhân.
Tiến vân:
Học nhân bất hội, cánh thỉnh biệt dụ.
Sư vân:
Tủng nhân thính cầm hưởng,
Manh giả vọng thiềm thừ.
Hựu vấn:
Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh,
Hữu thời ảnh dã ly hình phủ?
Sư vân:
Chúng thủy triều Đông hề vạn phái tranh lưu,
Quần tinh củng Bắc hề thiên cổ qui tâm.
Hựu vấn:
Như hà thị “nhất cú liễu nhiên siêu bách ức”?
Sư vân:
Viễn hiệp Thái sơn siêu Bắc hải,
Ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm cung.
Hựu vấn:
“Duy thử nhất sự thật,
Dư nhị tắc phi chân.”
Như hà thị chân?
Sư vân:
Trượng đầu phong dị động,
Lộ thượng vũ thành nê.
Hựu vấn:
“Bất hướng Như Lai thi diệu tạng,
Bất cầu Tổ diệm tục đăng chi.”
Ý chỉ như hà?
Sư vân:
Thu thiên đoàn thử lệ,
Tuyết cảnh mẫu đơn khai.
Hựu vấn:
Như hà thị tối diệu chi cú?
Sư vân:
Nhất nhân hướng ngung lập,
Mãn tọa ẩm vô hoan?
Hựu vấn:
Cổ kim đại sự ưng vô vấn,
Đặc địa Tây lai ý nhược hà?
Sư vân:
Xảo ngôn lệnh sắc giả,
Toản qui đả ngõa nhân.
Hựu vấn:
“Tâm pháp song vong tính tức chân.”
Như hà thị “chân”?
Sư vân:
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.
Hựu vấn:
Như hà thị tối diệu chi cú?
Sư vân:
Hầu lý do tồn ngạnh,
Thường cư bất khoái nhiên.
Hựu vấn:
Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh,
Xuất đầu hà khả thoát trần lung.
Sư vân:
Sơn cao cánh đại dung trần trữ,
Hải khoát năng thâm nạp tế lưu.
Hựu vấn:
“Duy Phật dữ Phật nãi tri tư sự.”
Như hà thị “tư sự”?
Sư vân
Giáp kính sâm sâm trúc,
Phong xuy khúc tự thành.
Hựu vấn:
Bất dụng bình thường, bất dụng thiên nhiên, bất dụng tác dụng nhi kim tác thập ma?
Sư vân:
Bồng thảo thê đê yến,
Thương minh ẩn cự lân.
Hựu vấn:
Tứ đại đới lai do khoáng kiếp,
Thỉnh Sư phương tiện xuất luân hồi.
Sư vân:
Cử thế súc đồ tê thị bảo,
Thực ư kinh cức ngọa ư nê.
Hựu vấn:
“Chủng chủng thủ xả, giai thị luân hồi.”
Bất thủ bất xả thời như hà?
Sư vân:
Tòng lai hồng hiện thù thường sắc,
Hữu diệp sâm si bất hữu hoa.
Hựu vấn:
“Ngôn ngữ đạo đoạn” kỳ ý như hà?
Sư vân:
Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo,
Sơn nham đới nguyệt quá tường lai
Hựu vấn:
“Chư Phật thuyết pháp giai thị hóa vật.
Nhược ngộ bản ý, thị danh xuất thế.”
Như hà thị “bản ý”.
Sư vân:
Xuân chức hoa như cẩm,
Thu lai diệp tợ hoàng.
Hựu vấn:
Như hà thị “trực tiệt nhất lộ”?
Sư vân:
Đông tây xa mã tẩu,
Trần thổ hiểu hôn phi.
Hựu vấn:
Hữu pháp hữu tâm khai vọng thức,
Như hà tâm pháp đãng câu tiêu?
Sư vân:
Khả đoạt tùng sao trường uất uất,
Khởi ưu sương tuyết lạc phân phân.
Hựu vấn:
Tổ ý dữ giáo ý như hà?
Sư vân:
Hứng lai huề trượng du vân kính,
Khốn tức thùy liêm ngọa trúc sàng.
Hựu vấn:
Tổ tổ tương truyền, hợp truyền hà sự?
Sư vân:
Cơ lai tu tầm thực,
Hàn tức hướng cầu y.
Hựu vấn:
Thế nhân giai nhẫm ốc,
Lậu nhân hà sở tại?
Sư vân:
Kim ô kiêm ngọc thố,
Doanh trắc mạn lao phân.
Hựu vấn:
Như hà thị Tào Khê nhất lộ?
Sư vân:
Khả lân khắc chu khách,
Đáo xứ ý thông thông.
Dịch nghĩa:
BÀY RÕ BÍ QUYẾT CHO NGƯỜI THAM VẤN
Một hôm ngồi trước Tăng đường, có vị Tăng hỏi:
– Phật và Thánh khác nhau thế nào?
Sư đáp:
Trùng dương cúc nở dưới rào,
Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.
Tăng thưa:
Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra.
Sư đáp:
Ngày thì vầng nhật chiếu,
Đêm đến ánh trăng soi.
Tăng lại hỏi:
Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?
Sư đáp:
Bưng thau nước đầy không chú ý
Một lúc sẩy chân hối ích gì?
Tăng thưa:
Đa tạ!
Sư bảo:
Chớ rửa sông to sóng,
Chính mình đến chết chìm.
Tăng hỏi:
Thiếu Thất, Ma-kiệt rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kế thừa làm chủ?
Sư đáp:
Trời tối, sáng soi nhờ nhật nguyệt,
Đất hiểm, phân ranh có núi sông.
Tăng hỏi:
Thế nào là đại đạo,
Cội nguồn một lối đi?
Sư đáp:
Gió mạnh bờ cao biết cỏ cứng,
Nước nhà lận đận thấy tôi trung.
Hỏi:
Tất cả chúng sanh từ đâu tới,
Sau khi trăm tuổi sẽ về đâu?
Đáp:
Rùa mù dùi vách đá,
Trạnh què trèo núi cao.
Hỏi:
“Trúc biếc xanh xanh trọn là chân như”, thế nào là “dụng” của chân như?
Đáp:
Tặng anh đi ngàn dặm,
Cười trao một ấm trà.
Lại thưa:
Thế là uổng công đến mà vô ích?
Đáp:
Ai biết được người chủ (Đông A),
Trên đường lại bạc đầu.
Hỏi:
Dã Hiên một nhà kín,
Ai biết gõ dễ dàng.
Đáp:
Kim Cốc tiêu điều hoa cỏ loạn,
Mà nay sớm tối mặc ngựa dê.
Hỏi:
Tại sao như thế?
Đáp:
Giàu sang vẫn kiêu sa,
Khiến thành lầu chợ hoại.
Hỏi:
Long nữ dâng châu thành Phật quả,
Đàn-na bố thí phước thế nào?
Đáp:
Quế trong trăng muôn thuở,
Héo tươi tại một vầng.
Lại thưa:
Thế là nhọc mà không công?
Đáp:
Trên trời như treo gương,
Nhân gian nơi nơi tỏ.
Hỏi:
Qua sông cần dùng bè,
Đến bờ thuyền bỏ lại.
Khi không qua thì thế nào?
Đáp:
Hồ khô cá mắc cạn,
Sống được muôn năm xuân.
Lại thưa:
Thế là theo dòng mới được diệu lý
Đáp:
Thấy nói bạn Kinh Kha,
Một đi không trở lại.
Hỏi:
Quặng, vàng lẫn lộn nguyên một loại,
Thỉnh Thầy phương tiện luyện cho tinh.
Đáp:
Chẳng phải khách nước Tề,
Đâu biết cá to biển.
Lại thưa:
Ông Quách chẳng chịu nhận,
Can gián cũng làm gì?
Đáp:
Nếu muốn trước uống rượu,
Khéo vẽ rắn làm gì?
Hỏi:
Rắn chết trên đường xin Thầy cứu sống?
Sư bảo:
Ông là người phương nào?
Tăng thưa:
Vốn là người ở núi.
Sư bảo:
Núi xưa về ẩn gấp,
Chớ thấy Hứa Chân Quân.
Hỏi:
Biển cả mênh mông trọn chẳng hỏi,
Tào Khê giọt giọt là thế nào?
Đáp:
Trước gió thông reo tiếng buồn bã,
Mưa tạnh trên đường ít bùn lầy.
Lại thưa:
Thế là chẳng khác thời nay?
Đáp:
Dưới giậu trùng dương cúc,
Đầu cành xuân ấm oanh.
Hỏi:
Rõ ràng trong khoảng tâm mắt,
Sáng chói ở trong sắc thân
Mà lý không thể phân, tướng không thể thấy, tại sao không thấy?
Đáp:
Trong vườn hoa khoe sắc,
Trên bờ cỏ xanh rì.
Hỏi:
Năm lạnh các mầm thối,
Lấy gì để khoe xinh.
Đáp:
Mừng ông đã thấu suốt,
Cũng chẳng vui hay sao.
Tăng nói:
Hân hạnh nghe Thầy giải,
Từ đây khỏi chợt không.
Sư đáp:
Chìm cạn vừa ra khỏi,
Quay đầu muôn trượng đầm.
Hỏi:
“Trong thành Niết-bàn vẫn còn nguy”, thế nào là chỗ chẳng nguy?
Đáp:
Xây tổ trên rèm cháy,
Râu tóc cọng hoa lau.
Hỏi:
Nếu gặp khi bức bách,
Hai chỗ là làm gì?
Đáp:
Trượng phu tùy thong thả,
Gió trăng mặc tiêu dao.
Hỏi:
“Tất cả chúng sanh đều nói là Phật”, lý này chưa rõ xin Thầy chỉ dạy?
Đáp:
Khuyên ông hãy gắng việc nông tang,
Chớ học theo người đợi thỏ nhọc.
Tăng nói:
Được nhờ Thầy chỉ rõ,
Trọn chẳng đến ai cầu.
Sư nói:
Đáng thương người mắc nghẹn,
Ngồi đói lại quên ăn.
Tăng nói:
Nhiều năm cất giấu báu trong đãy,
Ngày nay trước mắt thấy rõ ràng.
Sư nói:
Chỉ đợi trăng thu sáng,
Đâu ngờ mây mưa che.
Tăng nói:
Tuy nghe Thầy thuyết giảng,
Lý nầy vẫn chưa rành.
Sư đáp:
Cười kẻ luống ôm cột,
Chết đuối nằm giữa dòng.
Hỏi:
Thế nào là một pháp?
Đáp:
Chẳng thấy xuân sanh cùng hạ trưởng,
Lại gặp thu chín và đông thâu.
Lại thưa:
Thế là nhiều người thành Phật?
Đáp:
Tổ Long chợt tự dừng,
Từ Phúc xa luống nhọc.
Hỏi:
“Kiến tánh thành Phật”, nghĩa này thế nào?
Đáp:
Cây khô gặp xuân hoa đua nở,
Gió thổi hương thần thơm rất xa.
Tăng nói:
Đệ tử chưa hiểu, xin Thầy chỉ lại.
Sư đáp:
Muôn năm cây cà ấy,
Xanh tươi thấu từng mây.
Hỏi:
Ma-ni cùng các sắc,
Chẳng hợp cũng chẳng lìa?
Đáp:
Hoa xuân cùng bươm bướm,
Lúc mến lúc chia lìa.
Hỏi:
Thế là theo kia hỗn tạp?
Đáp:
Chẳng phải mắt tăng Ấn,
Luống nhọc trình biện châu.
Hỏi:
Thế nào là chạm mắt bồ-đề?
Đáp:
Chim từng sợ cây cong,
Người thổi mãi rau nguội.
Hỏi:
Đệ tử chẳng hiểu, xin Thầy cho dụ khác.
Đáp:
Kẻ điếc nghe đàn sáo,
Người mù ngắm trăng lên.
Hỏi:
Vốn tự có hình cùng có bóng,
Có khi bóng cũng lìa hình chăng?
Đáp:
Các sông về Đông chừ muôn dòng tranh chảy.
Chúng sao chầu Bắc chừ ngàn xưa về tâm
Hỏi:
Thế nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức?
Đáp:
Xa ném Thái Sơn qua biển Bắc,
Ngước tung cây gậy đến cung trăng.
Hỏi:
“Chỉ một việc này là thật, còn hai ắt chẳng chân”, thế nào là chân
Đáp:
Đầu gậy gió dễ động,
Trên đường mưa thành lầy.
Hỏi:
“Chẳng hướng Như Lai cầu diệu tạng,
Không mong đuốc Tổ nối ngọn đèn.”
Ý chỉ câu này thế nào?
Đáp:
Trời thu hoàng oanh hót,
Trong tuyết mẫu đơn xinh.
Hỏi:
Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
Một người xây vách đứng,
Cả nhà uống chẳng vui.
Hỏi:
Cổ kim việc lớn thôi không hỏi,
Chỉ chuyện Tây lai ý thế nào?
Đáp:
Người nói khéo mặt lành,
Kẻ dùi rùa đập ngói.
Hỏi
“Tâm pháp đều quên, tánh tức chân”, thế nào là chân?
Đáp:
Hoa núi mưa sa, Thần nữ khóc,
Tre sân gió thổi, Bá Nha đàn.
Hỏi:
Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
Trong cổ vẫn còn nghẹn,
Thường ở chỗ bất an.
Hỏi:
Còn tu còn chứng sanh bốn bệnh,
Xuất đầu sao được thoát lồng trần?
Đáp:
Núi cao lại lớn dung chứa bụi,
Bể cả càng sâu nhận các dòng.
Hỏi:
“Chỉ Phật với Phật mới biết việc này”, thế nào là việc này?
Đáp:
Đường hẹp trúc um tùm,
Gió thổi thành khúc nhạc.
Hỏi:
Chẳng dùng bình thường, chẳng dùng thiên nhiên, chẳng dùng tác dụng, thì nay phải làm sao?
Đáp:
Cỏ bồng chim én đậu,
Biển cả náu cá kình.
Hỏi:
Tứ đại đeo mang đã nhiều kiếp,
Thỉnh Thầy phương tiện thoát luân hồi?
Đáp:
Tất cả súc sanh tê giác quí,
Ăn toàn gai góc, ngủ trong bùn.
Hỏi:
“Các thứ thủ xả đều là luân hồi”, khi không thủ không xả thì sao?
Đáp:
Xưa nay sam tía sắc thường khác,
So le cành lá chẳng có hoa.
Hỏi:
“Đường ngôn ngữ dứt” là ý thế nào?
Đáp:
Gió thổi tiếng còi xuyên trúc đến,
Đầu non mang nguyệt vượt tường sang.
Hỏi:
“Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi người, nếu ngộ bản ý gọi là xuất thế”, sao gọi là bản ý?
Đáp:
Xuân dệt hoa như gấm,
Thu sang lá tợ vàng.
Hỏi:
Thế nào là một đường thẳng đứt
Đáp:
Đông Tây xe ngựa chạy,
Sớm tối bụi mù bay.
Hỏi:
Có pháp, có tâm mở vọng thức,
Làm sao tâm pháp thảy tiêu vong?
Đáp:
Vượt được tùng cao che rợp rợp,
Đâu lo sương tuyết rớt bời bời.
Hỏi:
Ý Tổ cùng ý kinh thế nào?
Đáp:
Hứng lên xách gậy chơi đường núi,
Nhọc tức xổ rèm nằm chõng tre.
Hỏi:
Tổ Tổ truyền nhau là truyền việc gì?
Đáp:
Đói đến cần tìm ăn,
Lạnh về phải mặc áo.
Hỏi:
Người đời đều thuê nhà,
Nhà dột ở chỗ nào?
Đáp:
Quạ vàng cùng thỏ bạc,
Đầy vơi chớ bận lòng.
Hỏi:
Thế nào là một con đường Tào Khê?
Đáp:
Đáng thương kẻ khắc thuyền.
Đến chốn ý lăng xăng.