(Kinh Ma ha Bát nhã ghi: Phẩm Bách Ba la mật Biến Thán)
(Kinh Đại Bát nhã ghi: Phần 2, Phẩm Bất Khả Đắc thứ 42).
KINH: Bấy giờ, Tuệ mạng Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật vô biên là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Ví như hư không vô biên.
Bạch đức Thế Tôn, bình đẳng Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì các pháp bình đẳng.
Bạch đức Thế Tôn, lìa Ba la mật là Bát nhã ba la mật. (Kinh Đại Bát nhã ghi: Bát nhã ba la mật đa như vậy là vô biên Ba la mật đa; Phật dạy: Như vậy! Thí như hư không, không biên tế. Bát nhã ba la mật đa như vậy là bình đẳng Ba la mật đa; Phật dạy: Như vậy, vì hết thảy pháp tánh bình đẳng. Bát nhã ba la mật đa như vậy là viễn ly Ba la mạt đa; Phật dạy như vậy, vì rốt ráo không v.v…N. D). Phật dạy: Vì rốt ráo không.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng hoại Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, không bờ kia Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì không có danh không có thân.
Bạch đức Thế Tôn, không chủng Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hơi thở ra vào chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, bất khả thuyết Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì giác quán chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô danh Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, không đi Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp không đến.
Bạch đức Thế Tôn, không di chuyển Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp không nép dấu.
Bạch đức Thế Tôn, tận Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp rốt ráo tận hết.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng sanh Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng diệt.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng diệt ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng sanh.
Bạch đức Thế Tôn, không tạo tác Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì tác giả chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô tri Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì tri giả chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng đến Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì sanh tử chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng mất Ba la mật là Bát nhã ba la mật.
Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng mất.
LUẬN: Ba la mật vô biên là Tu bồ đề nghe Phật nói nghĩa Ba la mật đại trân bảo, nhân đó mà tự tán thán Bát nhã là đại Ba la mật. Lại lấy trí tuệ vào sâu mỗi mỗi pháp môn, quán Bát nhã ba la mật như nước biển lớn vô lượng vô biên, biết sâu công đức Bát nhã ba la mật, nhân đó phát tâm đại hoan hỷ. Muốn lấy mỗi mỗi nhân duyên tán thán Bát nhã; cho nên bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! vô biên Ba la mật là Bát nhã ba la mật. Nghĩa vô biên thì từ đầu phẩm cho đến hết đều là nghĩa vô biên, vì trở ngại nói việc khác nên lược nói. Nếu nói rộng thời vô lượng.
* Lại nữa, thường là một bên, vô thường là một bên, ngã vô ngã, có, không, thế gian có biên giới không biên giới, chúng sanh có biên giới không biên giới, các pháp như vậy gọi là tà kiến biên; được Bát nhã ba la mật thời không có các biên ấy, nên gọi là vô biên.
* Lại nữa, thí như chỗ vật cùng tận gọi là biên, hư không, không có sắc không có hình, cho nên vô biên; Bát nhã ba la mật rốt ráo thanh tịnh không có biên, không có tận, không có chỗ thủ, không có chỗ thọ nhân, không có chỗ chắp đắm, thế nên Phật đáp: “Như hư không vô biên nên Bát nhã ba la mật cũng vô biên”.
Bồ tát được pháp nhẫn, quán hết thảy pháp đều bình đẳng, thế nên nói vì hết thảy pháp bình đẳng nên nói Bát nhã ba la mật bình đẳng.
Bồ tát dùng tâm rốt ráo không, lìa các phiền não, cũng lìa các pháp, thế nên gọi là lìa Ba la mật. Bồ tát dùng Bát nhã ba la mật ấy tìm tướng chung tướng riêng các pháp, không thấy được có tướng nhất định bằng lông tóc, vì chẳng thể có được, nên đối với hết thảy pháp tâm không chấp trước. Nếu người có tà kiến hý luận, dùng tâm tà kiến chấp trước, muốn phá hoại Bồ tát, vì Bồ tát ấy tâm không chấp trước, nên không phá hoại được; ấy gọi là chẳng hoại Ba la mật.
Bờ này gọi là sanh tử, bờ kia là Niết bàn, ở giữa có sông lớn các phiền não, hết thảy người xuất gia, muốn bỏ bờ này tham đắm bờ kia, mà Bát nhã ba la mật không có bờ kia. Bờ kia là Niết bàn, không có sắc không có danh, nên nói vì không có sắc không có danh, ấy gọi là không bờ kia Ba la mật.
Có hư không thời có hơi thở ra vào, hơi thở ra vào đều từ nghiệp nhân duyên hư dối sanh; thở ra chẳng phải thở vào, thở vào chẳng phải thở ra, niệm niệm sanh diệt, không có thật tướng khả đắc. Vì hơi thở không thể có được, nên hết thảy pháp cũng không thể có được. Không thể có được nên gọi là không chủng (không giới) Ba la mật. ]
Hết thảy pháp tướng không tịch, nên chẳng cần giác quán. Vì không có giác quán thời không có ngôn thuyết, vì không có ngôn thuyết nên nói Bát nhã ba la mật dứt đường nói năng, ấy gọi là bất khả thuyết Ba la mật.
Hau pháp thu nhiếp hết mọi pháp đó là danh và sắc. Bốn đại và bốn đại tạo tác, thu nhiếp về sắc; bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức thu nhiếp về danh. Phân biệt các pháp là nói Bát nhã ba la mật là tướng trí tuệ nên nhiếp về danh. Song nay không lìa sắc là danh, không lìa danh là sắc, vì Bát nhã ba la mật không có tướng biết, nên nói thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể có được, ấy gọi là vô danh ba la mật.
Hết thảy pháp không đi không lại, nên gọi là không đi Ba la mật.
Bát nhã ba la mật là pháp tạng của ba đời mười phương chư Phật, ấn bằng ba pháp ấn, không có trời người phá được, nên gọi là không di chuyển Ba la mật.
Các pháp hữu vi, niệm niệm tận diệt, không có lúc ngưng trụ, nếu như vậy, pháp quá khứ chẳng cùng tận, pháp vị lai cũng chẳng cùng tận, pháp hiện tại cũng chẳng ngưng trụ nên chẳng cùng tận. Tướng ba đời cùng tận chẳng thể có được, nên gọi là rốt ráo cùng tận, vì rốt ráo cùng tận nên gọi là tận Ba la mật.
Hết thảy pháp sanh trong ba đời chẳng thể có được, cho nên không có sanh, vì không có sanh nên gọi là vô sanh Ba la mật, không diệt Ba la mật cũng như vậy.
Tạo tác có hai:1. Chúng sanh tạo tác. 2. Pháp tạo tác. Chúng sanh tạo tác là bố thí, trì giới v.v…Pháp tạo tác là lửa cháy, nước làm rã nát, tâm thức hay biết. Vì chúng sanh “không” nên không có tác giả. Vì hết thảy pháp độn, tướng không khởi không tác, nên pháp cũng không tạo tác. Vì hai không tạo tác ấy nên gọi là vô tác Ba la mật.
Vô tri Ba la mật cũng như vậy, vì hết thảy pháp độn nên không biết.
Thiên nhãn thấy có sanh tử, dùng tuệ nhãn không tướng thấy sanh tử chẳng thể có được. Vì sanh tử chẳng thể có được, nên chúng sanh chết đời nay không có đi đến đời sau; chỉ có năm uẩn do nhân duyên của nghiệp đời trước tương tục sanh ra, nên gọi là chẳng đến Ba la mật. Bát nhã ba la mật chẳng làm mất thật tướng các pháp, cũng làm cho hết thảy pháp chẳng mất thật tướng, còn lìa Bát nhã ba la mật, hết thảy pháp đều mất. Quán thật tướng hết thảy pháp, được Bát nhã ba la mật, nên gọi là chẳng mất Ba la mật.
KINH: Bạch đức Thế Tôn, mộng Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Cho đến việc thấy trong mộng chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, tiếng vang Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì kẻ nghe tiếng chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, bóng Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì mặt trong gương chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, sóng nắng Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Dòng nước chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, huyễn Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì huyễn thuật chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng nhơ Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì các phiền não chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng sạch Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì phiền não hư dối.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng ô cấu Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì nơi chỗ chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, không hý luận Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy hý luận bị phá hoại.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng niệm Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy niệm bị phá.
Bạch đức Thế Tôn, bất động Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì pháp tánh thường trú.
Bạch đức Thế Tôn, không nhiễm Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì biết hết thảy pháp vọng giải (Kinh Đại Bát Nhã ghi: Vì biết hết thảy pháp hư vọng – N. D).
Bạch đức Thế Tôn, chẳng khởi Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp không phân biệt.
Bạch đức Thế Tôn, tịch diệt Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp tướng chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô dục Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì dục chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô sân Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì sân hận không thật.
Bạch đức Thế Tôn, vô si Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì vô minh tối tăm dứt.
Bạch đức Thế Tôn, không phiền não Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì phân biệt ức tưởng hư vọng.
Bạch đức Thế Tôn, không có chúng sanh Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì chúng sanh không có.
Bạch đức Thế Tôn, đoạn dứt Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì các pháp không khởi.
Bạch đức Thế Tôn, không có nhị biên Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì lìa nhị biên.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng phá hoại Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng lìa nhau.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng thủ Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì quá địa vị Thanh văn, Bích chi Phật.
Bạch đức Thế Tôn, chẳng phân biệt Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì các vọng tưởng chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô lượng Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì các pháp lượng chẳng thể có được.
Bạch đức Thế` Tôn, hư không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp không có.
LUẬN: Tu bồ đề tán thán Bát nhã ba la mật, khai thị chúng sanh thế gian không, như mộng. Phật dạy: Mộng cũng chẳng thể có được, nên gọi là mộng Ba la mật. Tiếng vang, bóng, sóng nắng, huyễn cũng như vậy. Tâm người cho tiếng là thật, vang là hư giả, bóng thì lấy mặt gương làm thật, tưởng là hư giả; sóng nắng thì lấy gió, bụi, ánh sáng mặt trời làm thật, nước là hư giả; huyễn thì lấy chú thuật làm thật, vật do chú thuật làm ra hư giả.
Tu bồ đề tán thán Bát nhã lấy không làm ví dụ, Phật dạy: Dụ và việc chính đều không, vì việc chính đều không nên dụ cũng không.
Bát nhã ba la mật ấy không nhơ, đoạn diệt được hết thảy nhơ. Phật dạy: Các phiền não từ xưa lại đây thường không có, nay đoạn cái gì? thế nên gọi là không nhơ Ba la mật.
Ba la mật không sạch cũng như vậy.
Không có phiền não tức là sạch, các phiền não dâm dục, sân nhuế v.v…gọi là ô cấu. Bát nhã ba la mật ấy, tất cả pháp ô cấu không thể làm ô cấu được. Sáu căn là trú xứ của các phiền não, sáu căn và hết thảy pháp là chỗ các phiền não duyên. Vì trú xứ đều chẳng thể có được nên gọi là chẳng ô cấu Ba la mật.
Được Bát nhã ba la mật ấy, hết thảy ức tưởng phân biệt hý luận đều dứt, nên gọi là chẳng hý luận Ba la mật.
Vì hết thảy pháp rốt ráo không, không ức, không niệm tưởng; không ức, không niệm tưởng nên gọi là vô niệm Ba la mật.
Bồ tát an trú pháp tánh, tất cả các luận nghị đều không thắng được. Tất cả kiết sử tà kiến không che lấp được, tất cả pháp vô thường phá hoại, tâm không sanh lo; do các nhân duyên như vậy nên gọi là bất động Ba la mật.
Hết thảy pháp đều hư vọng, chẳng phải chỉ ái nhiễm, nên gọi là vô nhiễm Ba la mật.
Ức tưởng phân biệt là căn bản của tất cả kiết sử. Kiết sử hay tạo nghiệp đưa đến thân sau, biết được ức tưởng phân biệt là hư vọng, thời tất cả nghiệp đưa đến sanh ra thân sau không còn khởi lên nữa, nên gọi là chẳng khởi Ba la mật.
Trong Bát nhã ba la mật không thủ tướng ba độc tịch diệt, mà hết thảy pháp tướng đều chẳng thể có được. Bát nhã ba la mật ấy, cho đến đối với thiện pháp còn không tham, huống gì các tham dục khác.
Phật dạy: Vì dục từ xưa lại đây chẳng thể có được, tham dục hư dối, tự tánh chẳng thể có được, nên gọi là vô dục Ba la mật, chứ chẳng phải vì lìa dục nên gọi là vô dục.
Tánh sân nhuế rốt ráo không có nên gọi là vô sân Ba la mật, chứ chẳng phải lìa sân nên gọi là vô sân.
Đối với hết thảy pháp, vô minh tối tăm bị phá trừ, nên gọi là vô si Ba la mật, chứ chẳng phải diệt si nên gọi là vô si.
Ba la mật không có phiền não là vì Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn, nên tất cả phiền não dứt.
Phật dạy: Ức tưởng phân biệt là căn bản của phiền não, ức tưởng phân biệt không có, huống gì phiền não, nên gọi là không phiền não Ba la mật.
Bát nhã hay phá cái điên đảo chấp có chúng sanh đối với không có chúng sanh, nên gọi là không có chúng sanh Ba la mật.
Phật dạy: Chúng sanh từ xưa lại đây chẳng sanh, vì không có gì của chính nó, nên gọi là không có chúng sanh.
Ý Tu bồ đề cho Bát nhã dứt được hết thảy pháp hữu lậu, nên gọi là đoạn dứt Ba la mật.
Phật dạy: Các pháp chẳng khởi chẳng sanh, không tạo tác, tướng các pháp tự nhiên đoạn, nên gọi là đoạn.
Nhị biên là ngã và vô ngã, đoạn và vô đoạn, pháp khả đoạn và pháp không khả đoạn, thường và đoạn, có và không, vô lượng nhị biên như vậy. Trong Bát nhã ba la mật không có các biên ấy nên gọi là không có nhị biên Ba la mật.
Phật dạy: Các biên ấy từ xưa lại đây không có, chỉ do điên đảo hư vọng chấp trước. Bồ tát cầu sự thật, cho nên lìa các bên điên đảo. Bát nhã ba la mật ấy vì nhất tướng không, nên không thể phá.
Phật dạy: không chỉ Bát nhã ba la mật mà tất cả pháp đều không có tướng sai khác nhất định, như quả chẳng lìa nhân, nhân chẳng lìa quả; pháp hữu vi chẳng lìa pháp vô vi, Bát nhã ba la mật chẳng lìa hết thảy pháp, hết thảy pháp chẳng lìa Bát nhã ba la mật; thật tướng hết thảy pháp tức là Bát nhã ba la mật, nên gọi là chẳng phá Ba la mật. Phá là các pháp mỗi mỗi lìa tán. Hết thảy pháp có các lỗi thường vô thường v.v…thế nên Bát nhã ba la mật chẳng thủ hết thảy pháp.
Phật dạy: hết thảy pháp cho đến pháp xuất thế gian thanh tịnh của Nhị thừa, cũng chẳng thủ, nên gọi là Ba la mật chẳng thủ. Phân biệt là tâm sanh ra chấp thủ tướng, vọng tưởng phân biệt, Bát nhã là thật tướng nên không có vọng tưởng phân biệt ấy.
Phật dạy: Nhân ức tưởng phân biệt mà phân biệt có không, nay chính ức tưởng phân biệt, từ xưa lại đây không có, nên gọi là không có phân biệt Ba la mật.
Bát nhã ba la mật xuất sanh bổn vô lượng, nên gọi là Ba la mật vô lượng.
* Lại nữa, rốt ráo không, là được Niết bàn vô lượng, nên gọi là vô lượng.
* Lại nữa, trí tuệ không thể đạt đến bờ mé, nên gọi là vô lượng.
Lượng gọi là sáu thức trù lượng. Pháp ấy “không”, không có tướng, không có sanh diệt, vì sao? Vì vật nhiều mà đồ đo lường nhỏ.
Phật dạy: Chẳng phải chỉ Bát nhã ba la mật ấy vô lượng mà hết thảy pháp sắc v.v…chẳng thể có được, nên đều vô lượng. Nhu hư không, không có sắc không có hình, không có làm và việc làm; Bát nhã ba la mật cũng như vậy. Phật dạy: Chẳng phải chỉ hư không, không có gì của chính nó mà các pháp sắc v.v…cũng đều không có gì của chính nó, nên gọi là hư không Ba la mật.
KINH: Bạch đức Thế Tôn, vô thường Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp bị phá hoại.
Bạch đức Thế Tôn, khổ Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp có tướng bức não.
Bạch đức Thế Tôn, vô ngã Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp không chấp trước.
Bạch đức Thế Tôn, “Không” Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô tướng Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng sanh.
Bạch đức Thế Tôn, nội không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì nội không chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, nội ngoại không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì nội ngoại pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, không không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì pháp không không chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, đại không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, đệ nhất nghĩa không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì Niết bàn chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, hữu vi không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì pháp hữu vi chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô vi không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì pháp vô vi chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, rốt ráo không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì các pháp rốt ráo chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô thỉ không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì các pháp vô thỉ chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, tán không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì pháp phân tán chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, tánh không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì pháp hữu vi vô vi chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, các pháp không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, tự tướng không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì tự tướng xa lìa.
Bạch đức Thế Tôn, vô pháp không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì vô pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, hữu pháp không Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hữu pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô pháp hữu pháp không Ba la mật, là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì vô pháp hữu pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, niệm xứ Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì thân, thọ, tâm, pháp chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, Như ý túc Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì bốn Như ý túc chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, căn Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì năm căn chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, lực Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì năm lực chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, giác Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì bảy giác phần chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, đạo Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì tám Thánh đạo phần chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô tác Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì vô tác chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, “Không” Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì không tướng chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, vô tướng Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì tướng tịch diệt chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, bội xả Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì tám bội xã chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, định Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì chín thứ đệ định chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, Thí Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì xan than chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, giới Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy; Vì phá giới chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, nhẫn Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì nhẫn không nhẫn nhục chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, tấn Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì giải đãi tinh tấn chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, thiền Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì định và loạn chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, Bát nhã ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì si và tuệ chẳng thể có được.
Bạch đức Thế Tôn, mười lực Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì đạt hết thảy pháp không thể khuất phục.
Bạch đức Thế Tôn, bốn Điều không sợ Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì hết thảy pháp không có chướng ngại.
Bạch đức Thế Tôn, Phật pháp Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì vượt qua hết thảy pháp Thanh văn, Duyên giác.
Bạch đức Thế Tôn, nói như thật Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì tất cả ngữ ngôn đều như thật.
Bạch đức Thế Tôn, tự nhiên Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì đối hết thảy pháp tự tại.
Bạch đức Thế Tôn, Phật Ba la mật là Bát nhã ba la mật? – Phật dạy: Vì biết hết thảy pháp, hết thảy chủng (trong Kinh văn, cuối mỗi lời Phật dạy đều có ghi số thứ tự chữ nhỏ, từ 1 đến 90 câu. 90 câu này theo văn trong Đại Bát Nhã đều ghi ngược lại như: Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật như vậy là tự nhiên Ba la mật. Phật dạy: Vì đối hết thảy pháp tự nhiên chuyển nói. Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật như vậy là Chánh đẳng giác Ba la mật. Phật dạy: Vì đối với hết thảy pháp hiện chứng được vậy. – N. D).
LUẬN: Trong Bát nhã ba la mật có thánh hạnh quán vô thường nên gọi là vô thường Ba la mật. Phật dạy: Chẳng phải chỉ trong Bát nhã có vô thường, mà vì quán hết thảy pháp vô thường, nên gọi là vô thường Ba la mật.
Hỏi: Từ trước lại đây nói Bát nhã ba la mật pháp tánh thường trú sao nay nói vô thường?
Đáp: Bát nhã ba la mật là trí tuệ, quán pháp do nhân duyên hòa hợp sanh, là pháp hữu vi nên vô thường, còn chỗ sở duyên của Bát nhã ba la mật là Như, pháp tánh, thật tế, là pháp vô vi nên thường. Tu bồ đề nói hữu vi Bát nhã nên nói Bát nhã vô thường.
Hỏi: Nếu như vậy cớ sao Phật nói hết thảy pháp tận là phá hoại vô thường; pháp vô vi không có tướng phá hoại?
Đáp: hết thảy pháp gọi là sáu căn sáu trần, trong ngoài, đều là pháp tạo tác. Pháp tạo tác nên chắc chắn quy về tướng phá hoại; lìa pháp hữu vi không có pháp vô vi, cũng lại không có tướng pháp, chỉ nhân nơi tướng pháp hữu vi nên nói pháp vô vi chẳng sanh chẳng diệt.
* Lại nữa, tất cả pháp hữu vi có hai loại: 1. Danh tự tất cả. 2. Thật tất cả. Tất cả pháp hữu vi phá hoại nên gọi là tất cả vô thường, khổ v.v…cho đến vô pháp hữu pháp không cũng như vậy.
Tu bồ đề nói: Tất cả pháp tướng để tán thán Bát nhã, Phật nêu tất cả pháp ra đáp. Chánh quán bốn thứ thân, thọ, thân, pháp từ bốn niệm xứ phát sanh. Bốn niệm xứ là cửa ban đầu của bốn đế; bốn đế là cửa ban đầu của bốn quả Sa môn. Phân biệt quả A la hán, tức là ba thừa. Bốn niệm xứ ở trong Bát nhã ba la mật mỗi mỗi nói rộng. Phật dạy: Chỗ bốn pháp duyên ấy từ xưa lại đây đều chẳng thể có được, nên gọi là niệm xứ Ba la mật. Từ bốn Chánh cần cho đến Bát nhã ba la mật cũng như vậy.
Hỏi: Có thể lấy các pháp khác tán thán Bát nhã, cớ sao lại lấy Bát nhã tán thán Bát nhã?
Đáp: Có hai thứ Bát nhã: 1. Bát nhã thường trú riêng biệt. 2. Đi chung với năm Ba la mật kia có dùng Bát nhã ba la mật. Tu bồ đề tán thán Bát nhã ba la mật hữu dụng, có thể phá vô minh tối tăm, có thể cho trí tuệ chân thật, thế nên Phật nói trong thường trú Bát nhã ba la mật, si và tuệ chẳng thể có được. Bồ tát tu Bát nhã ba la mật ấy, ban đầu được Bồ tát mười lực, sau được Phật mười lực. Thế nên nói là mười lực Ba la mật. Phật dạy: Chẳng phải chỉ mười lực là không thể phá hoại, không thể khuất phục, mà thật tướng tất cả pháp, cũng không thể phá hoại, không thể khuất phục. Ý Phật vì chúng sanh nên nói mười lực, chứ Phật lực vô lượng vô biên. Giống như Phật lực, thật tướng tất cả pháp cũng như vậy, không thể khuất phục, nên gọi là mười lực Ba la mật. Bồ tát được lực Bát nhã ba la mật ấy, có thể ở trước Phật nói pháp luận nghị, huống gì ở chỗ khác; còn chẳng sợ Ma vương, huống gì ngoại đạo, nên gọi là Ba la mật không sợ.
Phật dạy: Đạo chủng trí không thối mất; đạo chủng trí gọi là pháp nhãn, biết tất cả chúng sanh dùng đạo gì mà được niết bàn. Bát nhã ba la mật tướng thường tịch diệt không thể nói, Bồ tát ấy dùng đạo chủng trí, để dẫn đạo chúng sanh, nên ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử. Đạo chủng trí được tăng ích nên không thối mất, không sợ, không tự kiêu mạn cho ta có pháp ấy, nên gọi là Ba la mật không sợ.
Tu bồ đề theo Phật nghe pháp, tính không sợ càng sâu, nên tán thán Bát nhã ba la mật là vô ngại Ba la mật. Phật dạy: Chẳng phải chỉ có bốn vô ngại, mà tất cả pháp vào như như, pháp tánh, thật tế, đều là tướng vô ngại. Bồ tát nhân nơi Bát nhã ba la mật hay chứa nhóm mười lực, bốn điều không sợ, bốn trí vô ngại, đại từ đại bi các Phật pháp, nên gọi là Phật pháp Ba la mật.
Phật dạy: Pháp Thanh văn hơn pháp phàm phu, pháp Bích chi Phật hơn pháp Thanh văn, Phật pháp tối thắng hơn hết thảy pháp. Như trong tất cả sắc, hư không là rộng lớn. Phật pháp tối thắng không chi sánh kịp, không thể ví dụ, vượt quá tất cả pháp, nên gọi là Phật pháp Ba la mật. Như quá khứ Phật tu sáu Ba la mật được tướng Như của các pháp, Phật nay cũng như vậy, tu sáu Ba la mật được Phật đạo, nên gọi là Đa đà a già độ (Tathagatatha) Đa đà a già độ là Như Lai; hoặc gọi là Nói như thật, hoặc gọi là Biết như thật.
Trong đây Phật dạy chẳng phải chỉ Phật nói, gọi là nói như thật, mà tất cả ngôn ngữ đều là như thật, nên gọi là nói như thật Ba la mật.
Bát nhã ba la mật ấy đầy đủ, thân sau tự nhiên làm Phật, nên gọi là Ba la mật tự nhiên. Tự nhiên gọi là Phật, vì Phật nói nên gọi là tự nhiên Ba la mật.
* Lại nữa, Bát nhã ba la mật thật tướng tự nhiên, chẳng do cái khác làm ra, nên gọi là tự nhiên.
Phật dạy: Phật được lực tự tại đối với các pháp nên gọi là tự nhiên Ba la mật.
Đầy đủ mười địa, được mười lực, bốn điều không sợ, chuyển xe pháp, đánh trống pháp, giác tĩnh chúng sanh đang ngủ trong vô minh, nên gọi là Phật Ba la mật.
Phật, Trung Hoa dịch là người giác ngộ, người biết, sao vậy? Là chánh tri hết thảy pháp, hết thảy chủng (hành tướng) nên gọi là giác. Tất cả pháp là năm uẩn, mười hai nhập, mười tám giới.
* lại nữa, tất cả pháp là kinh sách ngoại đạo, kỹ thuật, thiền định v.v…lược nói có 5 thứ: 1. Pháp phàm phu, 2. Pháp Thanh văn, 3. Pháp Bích chi Phật, 4. Pháp Bồ tát, 5. Pháp Phật.
Phật, lược biết có 2 tướng: là tổng tướng và biệt tướng. Lại lấy tướng phân biệt, tướng rốt ráo không mà biết rộng tất cả chủng, tất cả chủng là vô lượng vô biên pháp môn. Vì việc ấy nên gọi là Phật Ba la mật, chứ không vì lấy Phật thân gọi là Phật Ba la mật, mà chỉ lấy trí nhất thiết chủng.
***
Trang trước | Mục lục | Trang sau |