Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa

20. Tổ Xà-dạ-đa (Giữa thế kỷ thứ VIII sau Phật Niết-bàn)



Ngài người Bắc Ấn, trước đã sẵn lòng mến đạo, thông hiểu đạo lý. Nhân du lịch miền Trung Ấn gặp Tổ Cưu-ma-la-đa, Ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia. Sau được truyền tâm ấn.

Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa các nước, lần lượt đến thành La-duyệt. Trong thành này hiện có số đông chúng Tăng học đạo. Nghe tin Ngài đến, họ đua nhau đến yết kiến. Trước nhất, người lãnh đạo là Bà-tu-bàn-đầu. Ông này tu hành tinh tấn, ngày đêm không nằm, sáu thời lễ bái, mặc y vá, ăn một bữa, lòng đạm bạc không mong cầu. Đồ chúng nhân đó rất kính trọng ông.

Ngài gọi đồ chúng bảo:

– Người khổ hạnh tu hành thanh tịnh này (Bà-tu-bàn-đầu) có thể được Phật đạo chăng?

Chúng đáp:

– Thượng nhân này tu hành tinh tấn như thế, đâu không được đạo.

Ngài bảo:

– Người này cùng đạo xa vậy. Dù khổ hạnh trải qua nhiều kiếp, chỉ giúp cho gốc vọng, đâu thể chứng đạo?

Chúng hỏi:

– Nhân giả chứa đựng được pháp gì mà chê thầy tôi?

Ngài đáp:

– Ta chẳng cầu đạo cũng chẳng điên đảo, ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn, ta chẳng ngồi mãi cũng chẳng lười biếng, ta chẳng biết đủ cũng chẳng tham cầu.

Bà-tu-bàn-đầu nghe lời này vui vẻ, nói bài kệ tán thán:

Khể thủ Tam muội tôn,

Bất cầu ư Phật đạo.

Bất lễ diệc bất mạn,

Tâm bất sanh điên đảo.

Bất tọa bất giải đãi,

Đản thực vô sở hảo.

Tuy hoãn nhi bất trì,

Tuy cấp nhi bất tháo.

Ngã kim ngộ chí tôn,

Hòa-nam y Phật giáo.

Dịch:

Đảnh lễ đấng Tam muội,

Chẳng cầu được Phật đạo.

Chẳng lễ cũng chẳng khinh,

Tâm chẳng sanh điên đảo.

Chẳng ngồi chẳng lười biếng,

Chỉ ăn không cần ngon.

Tuy hoãn mà không chậm,

Tuy gấp mà chẳng thô.

Nay con gặp chí tôn,

Cúi đầu vâng Phật dạy.

Ngài bảo chúng:

– Người tu hạnh đầu đà này, bọn ngươi không thể bì kịp. Vì ông ấy kiếp trước tu hạnh bất khinh nên mới được như vậy. Vừa rồi, ta chê ông, bởi thấy ông đạo tâm tha thiết, sợ e như sợi dây đàn thẳng quá phải đứt, nên ta không khen ông, muốn ông tiến đến chỗ vô sở đắc và dừng trụ nơi đất an lạc.

Ngài lại gọi Bà-tu-bàn-đầu hỏi:

– Ta nói trái ý ông, tâm ông được chẳng động chăng?

Bà-tu-bàn-đầu thưa:

– Đâu dám động tâm. Tôi nhớ 7 đời về trước sanh cõi An Lạc, vì mộ đạo nên thờ trí giả Nguyệt Tịnh làm thầy. Thầy Nguyệt Tịnh dạy tôi: “Không bao lâu nữa ngươi sẽ chứng quả Tư-đà-hàm, nên siêng năng tinh tấn. Phàm tu hành như trèo lên cao, phải cố gắng tiến lần lên, không cho sụt xuống. Nếu lỡ có sụt, muốn trèo lên lại càng khó.” Lúc đó, tôi đã 80 tuổi, nương gậy mới có thể đi được. Khi ấy, gặp Bồ-tát Đại Quang Minh ra đời, tôi muốn đến lễ Ngài, bèn đi đến tinh xá, lễ bái xong trở về. Chợt gặp thầy Nguyệt Tịnh quở trách tôi: “Dốt quá, tại sao ông lại khinh cha trọng con? Hôm trước, ta thấy ông sắp được chứng quả, hôm nay đã mất.” Khi ấy, tôi tự cho là không có lỗi, nên không phục những lời quở ấy. Tôi cầu xin thầy Nguyệt Tịnh chỉ lỗi cho tôi. Thầy Nguyệt Tịnh dạy: “Vừa rồi, ngươi đến đảnh lễ Bồ-tát Đại Quang Minh, tại sao lại dựng cây gậy vào mặt Phật vẽ trên vách, ngươi do lỗi này nên sụt quả vị.” Tôi nhớ kỹ lại, thật đúng như lời thầy Nguyệt Tịnh quở. Từ đó về sau, phàm có nghe lời nào, chẳng dám không tin. Dù bị những lời chửi mắng vẫn coi như gió thổi ngoài tai. Huống là, nay Tôn giả dùng chánh pháp chỉ dạy thì đâu dám phiền buồn. Cúi xin đấng đại từ thương xót đem đạo mầu chỉ dạy cho con.

Ngài liền dạy:

– Đại pháp nhãn tạng của Như Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi nên truyền bá, chớ để dứt mất. Nghe ta nói kệ:

Ngôn hạ hiệp vô sanh,

Đồng ư pháp giới tánh.

Nhược năng như thị giải,

Thông đạt sự lý cánh.

Dịch:

Nói ra hợp vô sanh,

Đồng cùng tánh pháp giới.

Nếu hay hiểu như thế,

Suốt thông sự lý tột.

Bà-tu-bàn-đầu lễ bái vâng lệnh. Ngài ngồi ngay trên tòa lặng lẽ quy tịch. Chúng hỏa táng, thu xá-lợi xây tháp thờ.

Trang trước Mục lục Trang sau


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.