Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo

Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm



Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trên đỉnh núi Lăng-già tại bờ biển Nam, nơi có đủ các thứ hoa báu trang nghiêm, cùng với các đại Tỳ-kheo Tăng và chúng Đại Bồ-tát từ các cõi Phật đến, các Đại Bồ-tát ấy đều đủ sức tự tại, vô lượng chánh định, thần thông diệu dụng. Đại Bồ-tát Đại Tuệ làm thượng thủ, được tất cả chư Phật đích thân làm pháp quán đảnh, cảnh giới của tâm tự hiện bày, khéo lãnh hội ý nghĩa về mọi chúng sinh, mọi tâm sắc, vô lượng pháp môn, cho đến năm pháp của tự tánh và hai thứ vô ngã đều được từng loại phổ hiện, đều thông đạt trọn vẹn.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ cùng Bồ-tát Ma-đế đã từng dạọ khắp tất cả cõi Phật, thừa oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, chắp tay quỳ gối, cung kính dùng kệ tán thán:

Thế gian sinh diệt lìa
Như hoa đốm trên không
Trí chẳng trụ hữu, vô
Mà khởi tâm đại Bi.
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng trụ hữu, vô
Mà khởi tâm đại Bi.
Xa lìa chấp đoạn, thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu, vô
Mà khởi tâm đại Bi.
Biết nhân, pháp vô ngã
Phiền não và Nhĩ diệm
Thường trong sạch, vô tướng
Mà khởi tâm đại Bi.
Niết-bàn chẳng thể lập
Chẳng có Niết-bàn Phật
Chẳng có Phật Niết-bàn
Lìa năng giác, sở giác.
Hoặc có hoặc không có
Cả hai thảy đều lìa
Pháp thiền quán tịch tĩnh
Vốn lìa sự sinh khởi.
Chẳng đời này đời sau
Gọi là chẳng thủ, xả.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ tán thán Phật xong, tự xưng tên họ:

Con tên là Đại Tuệ.
Thông đạt pháp Đại thừa
Một trăm lẻ tám câu
Dùng kệ hỏi Thế Tôn.
Chính bậc Thế Gian Giải
Nghe Bồ-tát nói kệ
Quan sát tất cả chúng
Bảo các Phật tử rằng:
Chư vị! Các Phật tử
Nay cho mặc tình hỏi
Ta sẽ vì các ông
Thuyết cảnh giới tự giác.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ kính vâng lời Phật, đảnh lễ nơi chân Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi:

Thế nào niệm trong sạch
Thế nào niệm tăng trưởng
Tại sao thấy si hoặc
Si hoặc sao tăng trưởng?
Cách giáo hóa cõi Phật
Chúng sinh và ngoại đạo
Thế nào thọ, vô thọ
Tại sao gọi vô thọ.
Phật tử là nghĩa gì
Giải thoát đến nơi nào
Ai trói, ai giải thoát
Cảnh giới thiền ra sao.
Tại sao có ba thừa
Mong Phật giải thích cho
Duyên khởi từ đâu sinh
Sao nói tác, sở tác.
Sao có pháp đồng dị
Giảm bớt và tăng trưởng
Sao gọi định vô sắc
Và gọi chánh định diệt.
Thế nào là tưởng diệt
Vì sao có xuất định
Tại sao sinh sở tác
Tinh tấn và trì thân.
Thế nào hiện phân biệt
Các địa từ đâu sinh
Vượt ba cõi là ai
Thân này là thân gì.
Vãng sinh đến nơi nào
Bồ-tát Tối Thắng Tử
Nhân gì đắc thần thông
Và Tam-muội tự tại.
Sao gọi tâm Tam-muội
Cúi xin vì con nói
Chữ “Tạng” là nghĩa gì
Sao gọi ý và thức.
Sinh diệt là thế nào
Sở kiến trả về được
Năng kiến trả về đâu
Thế nào là tâm lượng
Chủng tánh phi chủng tánh
Làm sao kiến lập tưởng
Nghĩa ngã và phi ngã
Sao nói chẳng chúng sinh.
Sao gọi thuyết thế tục
Cách nào chẳng sinh khởi
Đoạn kiến và thường kiến
Chư Phật và ngoại đạo.
Tại sao chẳng trái nhau
Phật tánh vốn bất nhị
Tại sao đời vị lai
Nhiều bộ phái khác nhau.
Nhân gì lập nghĩa không
Sao nói sát-na hoại
“Thai tạng sinh” là gì
Thế pháp sao chẳng động.
Nhân gì như mộng huyễn
Như thành Càn-thát-bà
Như bóng trăng trong nước
Thế gian như dương diệm
Sao lại nói Giác chi
Và bảy Bồ-đề phần
Quốc độ sao hỗn loạn
Tại sao chấp hữu kiến.
Thế nào chẳng sinh diệt
Thế pháp như hoa đốm
Cách nào giác thế gian
Thuyết pháp lìa văn tự.
Lìa vọng tưởng là ai
Sao dụ như hư không
Những thứ pháp như thật
Và tâm Ba-la-mật.
Nhân gì độ các Địa
Đến nơi vô sở thọ
Và hai thứ vô ngã
Làm sao cảnh trí sạch.
Trí tuệ có những gì
Giới tánh có bao nhiêu
Hạt trân châu ma-ni
Thật tánh từ đâu sinh.
Ai lập ra ngữ ngôn
Và chủng tánh chúng sinh
Nơi sáng và kỹ thuật
Do đâu mà hiển bày.
Kệ tụng có mấy thứ
Tụng dài và tụng ngắn
Tất cả có mấy thứ
Thế nào gọi là luận.
Sao có sự ăn uống
Và sinh những ái dục
Tại sao gọi là vua
Chuyển luân và Tiểu vương.
Cõi trời có bao nhiêu
Hộ vệ quốc độ nào
Thế nào gọi là địa
Tinh tú và nhật nguyệt.
Người tu hành giải thoát
Mỗi môn có mấy thứ
Đệ tử có mấy loại
Sao gọi A-xà-lê.
Phật có bao nhiêu hạng
Sự sinh có mấy loại
Ma và các ngoại đạo
Mỗi mỗi có mấy thứ.
Tự tánh và bản tâm
Có mấy thứ riêng biệt
Những số lượng nêu bày
Niệm thông minh là gì.
Cúi xin Phật khai thị
Hư không và gió mây
Cây cỏ và rừng rậm
Tất cả là thế nào
Tại sao lại bắt lấy
Những loài voi, ngựa, nai
Thế nào là thấp hèn
Nhân gì mà thấp hèn
Làm sao thâu sáu thứ
Sao gọi Nhất-xiển-đề
Nam nữ, phi nam nữ
Từ đâu mà sinh khởi
Thế nào phát tâm tu
Sao lại tu lui sụt
Thiền sư dùng pháp gì
Dạy cho những người nào
Chúng sinh vào các cõi
Tướng nào thuộc loại nào
Thế nào là giàu sang
Nhân gì được giàu sang
Thế nào là Thích chủng
Nhân gì được Thích chủng
Thế nào dòng Cam Giá
Xin Thế Tôn giải thuyết.
Những tiên nhân khổ hạnh
Truyền thọ như thế nào
Sao thân Phật hiển hiện
Khắp thời gian, không gian
Có đủ loại chúng sinh
Và Bồ-tát nhiễu quanh
Tại sao chẳng ăn thịt
Tại sao cấm ăn thịt
Những loại nào ăn thịt
Nhân gì phải ăn thịt
Sao hình thành nhật nguyệt
Tu-di và Liên hoa.
Cây đàn dáng trống cơm
Và đủ loại hương hoa.
Cõi nước rất thù thắng
Trùm khắp cả thế giới
Như lưới báu Đế Thích
Tất cả những châu báu.
Cây đàn dáng trống cơm
Và đủ loại hương hoa
Sáng chói lìa nhật nguyệt
Mỗi mỗi đều vô lượng
Thế nào là hóa Phật
Thế nào Báo thân Phật
Thế nào Như như Phật
Thế nào Trí tuệ Phật
Tại sao nơi Dục giới
Chẳng thành Đẳng chánh giác
Sao cõi Sắc cứu cánh
Lìa dục, đắc Bồ-đề
Chư Phật nhập Niết-bàn
Ai duy trì chánh pháp
Như Lai và chánh pháp
Được trụ thế bao lâu
Thành tựu và kiến chấp
Mỗi loại bao nhiêu thứ
Từ giới luật Tỳ-kheo
Thanh văn và Duyên giác
Cho đến bậc Bồ-tát
Nhân duyên gì kiến lập
Nhân gì nhiều biến đổi
Tại sao Vô sở thọ
Thế tục thông là gì
Tại sao xuất thế gian
Thế nào là bảy địa
Cúi xin Phật diễn thuyết.
Tăng-già có mấy loại
Thế nào phá hoại Tăng
Y Phương luận là gì
Do từ nhân duyên gì
Sao lại Phật Thế Tôn
Thuyết những lời như thế:
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta
Cớ sao nói đoạn, thường
Có ngã và vô ngã
Sao không tất cả thời
Đều diễn nghĩa chân thật
Mà lại vì chúng sinh
Phân biệt thuyết tâm lượng
Tại sao cõi Ta-bà
Núi Kim cang, Thiết vi
Tất cả đều sung mãn
Như trái Yêm-ma-la
Phật nghe bài kệ hỏi
Về môn độ Đại thừa.
Và diệu tâm chư Phật;
Lành thay những câu hỏi.
Đại Tuệ hãy lắng nghe
Nay ta vì các ông
Theo thứ lớp giải đáp:
Pháp sinh và bất sinh
Các loại đến Niết-bàn
Sát-na chẳng tự tánh.
Từ Phật tử, ngoại đạo
Thanh văn và Duyên giác
Bồ-tát ba-la-mật
Và hạnh cõi Vô sắc.
Mỗi mỗi việc như thế
Núi Tu-di, biển cả
Các bộ châu, quốc độ
Tinh tú và nhật nguyệt
Cõi trời A-tu-la
Sức thiền Tam-ma-đề
Giải thoát được tự tại.
Giác chi, Như ý túc
Và các phẩm trợ đạo;
Từ những thân năm ấm
Cho đến định diệt tận
Gồm vô lượng thiền định.
Phật từ Tam-muội khởi
Thuyết pháp độ chúng sinh.
Tâm là thức thứ tám,
Ý là thức thứ bảy,
Và ý là thứ sáu
Năm pháp và vô ngã
Năng tưởng và sở tưởng
Tự tánh hiện nhị kiến.
Các thừa và chủng tánh
Vàng, bạc, châu Ma-ni
Cho đến Nhất-xiển-đề
Nhiều loại với nhất Phật
Trí Nhĩ diệm chứng đắc.
Chúng sinh hữu hay vô
Những cầm thú voi, ngựa
Tại sao bị bắt lấy
Do nhân duyên thành tựu.
Năng tác và sở tác
Tòng lâm cùng mê hoặc
Tâm lượng chẳng hiện hữu
Chư địa chẳng đến nhau.
Biến hiện thọ, vô thọ
Y phương và công xảo
Nội ngoại trong năm minh
Đại địa, núi Tu-di
Biển cả, nhật nguyệt tinh
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Quốc độ và sắc thân
Mỗi mỗi bao vi trần.
Thước tấc và số dặm
Số ngắn đến số dài.
Nói chung những câu hỏi
Danh từ các số lượng
Diễn tả sự hiện hữu
Không gian và thời gian
Nên hỏi những việc này
Đâu cần hỏi việc khác.
Thanh văn và Duyên giác
Bồ-tát cho đến Phật
Mỗi thân bao nhiêu trần
Số lượng của bốn đại
Thân năm uẩn con người
Vua chúa trên thế gian
Cho đến Chuyển luân vương
Đều ham giữ tài sản
Làm sao được giải thoát
Nghĩa hẹp và nghĩa rộng
Như chỗ hỏi của ông
Việc Phật tử nên hỏi.
Muốn mỗi mỗi tương ưng
Phải xa lìa kiến chấp.
Thành tựu lìa ngôn thuyết.
Nay ta sẽ khai thị
Kỹ càng từng lớp một
Phật tử hãy lắng nghe.
Trăm lẻ tám câu này
Như chỗ chư Phật thuyết.

Cú sinh, cú bất sinh, cú thường, cú vô thường, cú trụ dị phi trụ dị, cú sát-na cú phi sát-na, cú tự tánh cú phi tự tánh, cú không cú bất không, cú đoạn cú bất đoạn, cú biên cú phi biên, cú trung cú phi trung, cú duyên cú phi duyên, cú nhân cú phi nhân, cú phiền não cú phi phiền não, cú ái cú phi ái, cú phương tiện cú phi phương tiện, cú xảo cú phi xảo, cú tịnh cú phi tịnh, cú thành cú phi thành, cú ví dụ cú phi ví dụ, cú đệ tử cú phi đệ tử, cú sư cú phi sư, cú chủng tánh cú phi chủng tánh, cú tam thừa cú phi tam thừa, cú sở hữu cú phi sở hữu, cú nguyện cú phi nguyện, cú tam luân cú phi tam luân, cú hữu phẩm cú phi hữu phẩm, cú câu cú phi câu, cú duyên tự thánh trí hiện pháp lạc cú phi hiện pháp lạc, cú sát độ cú phi sát độ, cú thủy cú phi thủy, cú cung cú phi cung, cú thật cú phi thật, cú số cú phi số, cú minh cú phi minh, cú hư không cú phi hư không, cú vân cú phi vân, cú công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phi công xảo kỹ thuật minh xứ, cú phong cú phi phong, cú địa cú phi địa, cú tâm cú phi tâm, cú thi thiết cú phi thi thiết, cú ấm cú phi ấm, cú chúng sinh cú phi chúng sinh, cú tuệ cú phi tuệ, cú Niết-bàn cú phi Niết-bàn, cú Nhĩ diệm (đối tượng của trí) cú phi Nhĩ diệm, cú ngoại đạo cú phi ngoại đạo, cú hoang loạn cú phi hoang loạn, cú huyễn cú phi huyễn, cú mộng cú phi mộng, cú diệm cú phi diệm, cú tượng cú phi tượng, cú luân cú phi luân, cú Càn-thát-bà cú phi Càn-thát-bà, cú thiên cú phi thiên, cú ẩm thực cú phi ẩm thực, cú dâm dục cú phi dâm dục, cú kiến cú phi kiến, cú ba-la-mật cú phi ba-la-mật, cú giới cú phi giới, cú nhật nguyệt tinh tú cú phi nhật nguyệt tinh tú, cú đế cú phi đế, cú quả cú phi quả, cú khởi diệt cú phi khởi diệt, cú trị cú phi trị, cú chi cú phi chi, cú thiền cú phi thiền, cú mê cú phi mê, cú hiện cú phi hiện, cú hộ cú phi hộ, cú tục cú phi tục, cú tiên cú phi tiên, cú vương cú phi vương, cú thâu nhận cú phi thâu nhận, cú bảo cú phi bảo, cú ký cú phi ký, cú Nhất-xiển-đề cú phi Nhất-xiển-đề, cú nữ nam bất nam cú phi nữ nam bất nam, cú vị cú phi vị, cú sự cú phi sự, cú thân cú phi thân, cú giác cú phi giác, cú động cú phi động, cú căn cú phi căn, cú hữu vi cú phi hữu vi, cú vô vi cú phi vô vi, cú nhân quả cú phi nhân quả, cú sắc cứu cánh cú phi sắc cứu cánh, cú thiết cú phi thiết, cú tòng thọ cát đằng cú phi tòng thọ cát đằng, cú tạp cú phi tạp, cú thuyết cú phi thuyết, cú Tỳ-ni cú phi Tỳ-ni, cú Tỳ-kheo cú phi Tỳ-kheo, cú xứ cú phi xứ, cú tự cú phi tự.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đó là một trăm lẻ tám câu mà Phật xưa đã từng nói, ông và các Đại Bồ-tát cần nên tu học.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sinh, trụ, diệt?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Các thức có hai thứ sinh, trụ, diệt, chẳng phải suy nghĩ biết được. Hai thứ sinh gọi là lưu chú sinh và tướng sinh; hai thứ trụ gọi là lưu chú trụ và tướng trụ; hai thứ diệt gọi là lưu chú diệt và tướng diệt.

Này Đại Tuệ! Các thức có ba thứ tướng, gọi là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng. Nói tóm tắt có ba thứ thức, nói rộng có tám thứ tướng. Ba thứ thức ấy là: Chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Đại Tuệ! Ví như gương sáng hiện những sắc tướng, chỗ hiện của hiện thức cũng như thế.

Này Đại Tuệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại làm nhân với nhau. Sự huân tập chẳng thể nghĩ bàn và sự chuyển biến chẳng thể nghĩ bàn là cái nhân của hiện thức. Nhận lấy các cảnh trần và huân tập vọng tưởng từ vô thủy là cái nhân của Phân biệt sự thức.

Này Đại Tuệ! Nếu mỗi mỗi sự hư vọng chẳng thật che khuất chân thức đều tiêu diệt thì tất cả căn thức đều diệt, ấy gọi là tướng diệt.

Này Đại Tuệ! Sao nói là tương tục diệt? Do cái nhân của tương tục đã diệt thì tương tục phải diệt. Đối tượng được nhân diệt thì đối tượng được duyên cũng diệt. Đối tượng được nhân và đối tượng được duyên đều diệt thì tương tục phải diệt. Vì sao? Vì có chỗ nương tựa. Nói nương tựa, là vọng tưởng huân tập từ vô thủy; nói duyên, là tự tâm hiện những cảnh vọng tưởng của thức.

Này Đại Tuệ! Ví như cục đất với vi trần có khác, cũng không có khác. Dùng vàng ròng làm ra những đồ trang sức cũng vậy. Đại Tuệ! Nếu cục đất với vi trần có khác thì cục đất chẳng do vi trần hợp thành, mà thật thì do vi trần hợp thành, nên nói chẳng khác. Nếu chẳng khác thì cục đất với vi trần chẳng có phân biệt.

Như thế, Đại Tuệ! Chân tướng của chuyển thức với tạng thức nếu là khác thì tạng thức chẳng phải cái nhân của chuyển thức; nếu là chẳng khác thì chuyển thức diệt, tạng thức cũng phải diệt, mà chân tướng của nó thật sự là chẳng diệt. Cho nên Đại Tuệ! Chẳng phải tự thức của chân tướng diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt. Nếu tự thức của chân tướng diệt thì tạng thức cũng phải diệt. Đại Tuệ! Nếu tạng thức diệt thì chẳng khác gì đoạn kiến của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Các phái ngoại đạo lập luận như thế này: “Cảnh giới thâu nhận diệt thì sự lưu chú của thức cũng diệt.” Nếu sự lưu chuyển của thức diệt thì sự lưu chú từ vô thủy phải đoạn dứt. Đại Tuệ! Ngoại đạo nói cái nhân sinh khởi của lưu chuyển, chẳng do nhãn thức, sắc không và sáng tối hòa hợp mà sinh, ngoài ra còn có các nhân khác.

Đại Tuệ! Cái nhân của họ nói như thắng diệu, như sĩ phu, như tự tại, như thời gian, như vi trần…

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy thứ tánh tự tánh, gọi là tập tánh tự tánh, tánh tự tánh, tướng tánh tự tánh, đại chủng tánh tự tánh, nhân tánh tự tánh, duyên tánh tự tánh và thành tánh tự tánh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy thứ Đệ nhất nghĩa, đó là cảnh giới tâm, cảnh giới tuệ, cảnh giới trí, cảnh giới kiến, cảnh giới siêu nhị kiến, cảnh giới siêu tử địa (siêu việt phiền não) và cảnh giới Như Lai tự tại. Đại Tuệ! Đây là Đệ nhất nghĩa tâm nơi tự tánh của tánh cũng là chư Phật Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác (quá khứ, hiện tại, vị lai) thành tựu pháp thế gian và xuất thế gian, cho đến pháp xuất thế gian tối thượng, do Tuệ nhãn của bậc Thánh soi vào tự cộng tướng mà kiến lập, kiến lập này chẳng đồng với lập luận theo ác kiến của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Thế nào là lập luận theo ác kiến của ngoại đạo? Ấy là cảnh giới vọng tưởng của tự kiến chấp, chẳng biết do chấp nơi chỗ hiện bày của tự tâm, vì chẳng thông đạt về biên vực (tự tánh cùng khắp không gian thời gian, vốn chẳng có biên vực, vì khởi tâm chấp thật thành có biên vực). Đại Tuệ! Vì hàng phàm phu ngu si, ở nơi bất nhị của tự tánh tánh vô tánh (Đệ nhất nghĩa) lập ra nhị kiến luận.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Cái nhân vọng tưởng của ba cõi diệt thì các duyên của vô minh, ái nghiệp liền diệt. Nay ta sẽ thuyết giảng những cảnh huyễn hóa tùy theo kiến chấp nơi đối tượng được hiện bày của tự tâm.

Này Đại Tuệ! Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn muốn khiến nhân quả của hữu chủng, vô chủng cùng sự vật, thời gian có chỗ trụ… và những cái do chấp nơi ấm, giới, nhập nơi sinh và trụ biến hiện hoặc nói sinh rồi thì diệt, như sự vật hoặc tương tục hoặc sinh, hoặc hữu, hoặc Niết-bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc chân lý, hoặc thường trụ, đều là đoạn diệt luận. Vì sao? Vì những sự việc kể trên vốn là vô thủy (chẳng có sự bắt đầu), nên hiện tiền đều không thể nắm bắt.

Này Đại Tuệ! Ví như cái bình bể chẳng dùng được, như hạt giống cháy chẳng thể nẩy mầm. Như thế, Đại Tuệ! Nếu tánh của ấm, giới, nhập đã diệt, nay diệt, sẽ diệt, đều do kiến chấp vọng tưởng của tự tâm vô nhân mà có, thì sự sinh khởi chẳng có thứ lớp.

Này Đại Tuệ! Nếu lại nói cái thức vô chủng, hữu chủng do ba duyên kiến, tướng, thức hòa hợp sinh khởi, thì con rùa nên mọc lông, ép cát phải ra dầu, tông họ ắt phải tự hoại, vì trái với nghĩa quyết định. Cái thuyết hữu chủng, vô chủng có lỗi như thế, nếu theo đó kiến lập sự nghiệp đều là hư dối vô nghĩa.

Này Đại Tuệ! Cái thuyết ba duyên hợp sinh của ngoại đạo, lập ra phương tiện nhân quả tự tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, tưởng hữu chủng, vô chủng từ xưa đến nay đã thành sự thật, giác tưởng xoay chuyển, thừa kế với nhau, là do lỗi nơi tập khí tự sinh kiến chấp mà thuyết như thế.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si, say mê tà tưởng, trí tuệ bị ác kiến nuốt mất, đem cái thuyết vô trí lại vọng xưng là Nhất thiết trí.

Này Đại Tuệ! Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn lìa kiến chấp về tự tánh, biết trong ngoài tâm hiện như mây nổi, như vòng lửa, như thành Càn-thát-bà, như dợn nắng, như bóng trăng trong nước, như mộng huyễn, những vọng tưởng hư dối từ vô thủy chẳng lìa tự tâm. Nếu nhân duyên vọng tưởng diệt hết, lìa chủ thể thuyết đối tượng thuyết, chủ thể quán đối tượng được quán của vọng tưởng, kiến lập thân của tạng thức, nơi cảnh giới thức có thọ dụng, thâu nhận và kẻ thâu nhận… Đối với những việc kể trên đều chẳng tương ưng, chẳng có tất cả cảnh giới ấy, lìa sinh trụ diệt, lìa tự tâm khởi, lìa tùy chỗ nhập mà phân biệt, Bồ-tát này được như thế thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc sinh tử và Niết-bàn bình đẳng, được đại Bi làm phương tiện khéo léo mà chẳng thấy có sự mở mang phương tiện.

Này Đại Tuệ! Nơi tất cả chúng sinh đều như huyễn, chẳng do nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm chẳng thấy pháp khác, lần lượt nhập chỗ vô tưởng, từ cảnh giới Tam-muội của địa này đến địa kia, phân biệt quán xét, thấu rõ ba cõi như huyễn, sẽ chứng đắc Tam-muội như huyễn, siêu việt tự tâm hiện, trụ nơi Bát-nhã bala-mật, lìa bỏ phương tiện, lìa Kim cang dụ và Tam-ma-đề, liền vào thân Như Lai, liền vào thần thông biến hóa tự tại, từ bi làm phương tiện, đầy đủ trang nghiêm; vào tất cả cõi Phật và chỗ ngoại đạo, bình đẳng như như, lìa tâm, ý, ý thức, ấy là sự lần lượt chuyển thân của Bồ-tát, cho đến chứng đắc Pháp thân Như Lai, cuối cùng quy về vô sở đắc.

Cho nên, muốn hội nhập nơi Pháp thân Như Lai, phải xa lìa ấm, giới, nhập và nhân duyên làm phương tiện của tâm, chỉ với tâm thẳng quán xét lỗi nơi vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thủy, sinh, trụ, diệt là vọng tưởng hư dối, Phật địa vô sinh, tư duy về ba cõi chẳng thật có, đến Thánh trí tự giác, tự tâm tự tại, tới chỗ hành vô sở hành, như hạt châu ma-ni tùy sắc (hạt châu tự chẳng có màu sắc, mà tùy màu sắc của người xem hiện ra màu sắc), nghĩa là tùy tâm lượng vi tế của chúng sinh mà biến hóa thân hình, nên các Địa lần lượt được tương tục kiến lập. Cho nên, này Đại Tuệ! Việc tự thành tựu pháp thiện phải siêng tu học.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nói tâm, ý, ý thức, tướng tự tánh của năm pháp là nẻo hành hóa của tất cả chư Phật, Bồ-tát, cảnh giới của đối tượng được duyên chẳng hòa hợp, hiển bày tất cả pháp do tự tâm hiện, thành tướng chân thật. Nhất thiết Phật ngữ tâm là Phật thuyết về cảnh giới tạng thức nơi Pháp thân, ở trụ xứ của chư Đại Bồ-tát tại núi Mala-da trong biển thuộc nước Lăng-già.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Do bốn nhân duyên mà nhãn thức chuyển. Thế nào là bốn?

  1. Tự tâm bất giác hiện ra thâu nhận.
  2. Lỗi nơi tập khí hư dối từ vô thủy.
  3. Chấp trước tự tánh của tánh thức.
  4. Muốn thấy đủ thứ sắc tướng.

Ấy gọi là bốn thứ nhân duyên từ dòng suối chảy của tạng thức, sinh ra làn sóng của chuyển thức.

Như nhãn thức chuyển thì tất cả vi trần, lỗ chân lông nơi tất cả các căn đều sinh, các cảnh giới khác theo đó sinh khởi cũng như thế. Ví như gương sáng hiện các sắc tướng, ví như gió lớn thổi nước biển thì gió của cảnh giới bên ngoài thổi biển của tâm, nổi làn sóng thức cũng vậy. Bởi vì tướng đối tượng được tạo tác khác hay chẳng khác, do nghiệp duyên hòa hợp sinh tướng, lại chấp trước sâu vào, chẳng thể thấu tỏ tự tánh của các sắc, nên cái thân năm thức theo đó mà chuyển.

Này Đại Tuệ! Cái thân năm thứ thức kia đều do cái biết của tướng phần đoạn sai biệt mà có, nên biết đó là cái thân của ý thức. Cái thân chuyển kia chẳng tự cho là tướng của ngã chuyển, vì tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước mà chuyển, nên mỗi mỗi tướng hư vọng cùng chuyển; do phần đoạn sai biệt, phân biệt cảnh giới gọi là chuyển. Như người tu hành vào thiền chánh định, chuyển tập khí vi tế mà chẳng tự biết, lại cho là thức diệt rồi mới nhập thiền định, thật thì thức chẳng diệt mà nhập chánh định. Vì chủng tử tập khí chẳng diệt nên cảnh giới chuyển mà thức chẳng diệt, chẳng vì không thâu nhận mà diệt.

Này Đại Tuệ! Bờ bến cứu cánh của tạng thức vi tế như thế, ngoài chư Phật và Bồ-tát trụ Địa ra, chỗ tu tập đạt được các Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo dù có sức trí tuệ của Tam-muội, tất cả chẳng thể suy lường thấu đạt được.

Ngoài tướng trí tuệ khéo léo phân biệt, phán đoán nghĩa cú, thắng tiến vô biên, thiện căn thuần thục, lìa vọng tưởng hư dối của tự tâm hiện, tĩnh tọa trong núi rừng, tu hành trải qua các bậc thượng, trung, hạ, được thấy vọng tưởng lưu chú của tự tâm, được pháp quán đảnh nơi vô lượng quốc độ của chư Phật, được sức tự tại thần thông Tam-muội, được biết các tri thức thiện, quyến thuộc Phật tử, những tâm, ý, ý thức kia, chúng sinh theo nghiệp ái vô tri vào biển sinh tử, cảnh giới tư tưởng hư vọng ấy… đều do tự tâm hiện bày. Đến đây, các thứ nhân duyên kể trên thảy đều đã siêu thoát. Cho nên này Đại Tuệ! Những người tu hành nên gần gũi bậc Tri thức tối thắng.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà nói kệ:

Ví như sóng biển cả
Là do gió thổi mạnh
Sóng to vỗ biển rộng
Chẳng có lúc ngừng nghỉ.
Biển tạng thức thường trụ
Gió cảnh giới lay động
Mỗi mỗi sóng của thức
Ào ạt mà nổi dậy.
Các thứ màu sắc đẹp
Các thứ đồ ăn ngon
Các thứ hoa quả tốt
Ánh sáng của nhật nguyệt.
Hoặc khác hoặc chẳng khác
Như biển nổi làn sóng
Bảy thức cũng như thế
Tâm cảnh hòa hợp sinh.
Như nước biển biến chuyển
Nổi đủ thứ làn sóng.
Bảy thức cũng như thế
Tâm cảnh hòa hợp sinh
Nói chỗ tạng thức ấy
Mỗi mỗi các thức chuyển.
Là do ý thức kia
Suy nghĩ nghĩa các tướng
Có tám tướng chẳng hoại
Vô tướng vốn vô tướng.
Ví như làn sóng biển
Nước biển chẳng sai biệt
Thức tâm cũng như thế
Chẳng thể có khác biệt.
Tâm gọi tích tập nghiệp
Ý gọi rộng tích tập
Thức do thức nhận biết
Hiện cảnh nói có năm.

Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật:

Những sắc tướng xanh, đỏ
Do các thức sinh khởi
Nổi pháp như làn sóng
Nghĩa ấy xin Phật giảng.
Thế Tôn dùng kệ đáp:
Những sắc tướng xanh, đỏ
Làn sóng vốn chẳng có
Đều do tâm tích tập
Phàm phu nếu khai ngộ.
Nghiệp kia vốn chẳng có
Do tự tâm thâu nhiếp
Lìa năng nhiếp, sở nhiếp
Đồng như làn sóng kia.
Kiến lập thân thọ dụng
Là hiện thức chúng sinh
Nơi các nghiệp hiện kia
Đều như làn sóng nước.

Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng kệ hỏi:

Tánh làn sóng biển cả
Ào ạt vẫn biết được
Tạng cùng nghiệp cũng vậy
Tại sao chẳng hiểu biết.

Thế Tôn dùng kệ đáp:

Phàm phu chẳng trí tuệ
Tạng thức như biển cả
Nghiệp tướng như làn sóng
Theo đó dụ cho hiểu.
Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng kệ hỏi:
Mặt trời sáng soi khắp
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Như Lai soi thế gian
Khai thị lời chân thật.
Tại sao chia nhiều thừa
Thuyết pháp nói chẳng thật?

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Nếu nói với chân thật
Tâm họ chẳng chân thật
Ví như làn sóng biển
Như bóng gương, mộng, huyễn.
Tất cả cùng lúc hiện
Cảnh giới tâm cũng thế
Nay cảnh giới chẳng đủ
Là do nghiệp chuyển sinh.
Thức do thức nhận biết
Ý do ý cho vậy
Năm thức tùy cảnh hiện
Chẳng thứ lớp nhất định.
Ví như thợ khéo vẽ
Và học trò thợ vẽ
Bút màu vẽ hình tướng
Ta nêu cũng như thế.
Màu sắc vốn vô nghĩa
Chẳng phải bút hay lụa
Vì thỏa lòng chúng sinh
Vẽ đủ thứ hình tướng.
Dùng lời nói khai thị
Thật nghĩa lìa văn tự
Phân biệt nghĩa ban đầu
Tu hành đến chân thật.
Chỗ chân thật tự ngộ
Lìa năng giác, sở giác
Đây vì Phật tử nói
Kẻ ngu vọng phân biệt.
Thế gian đều như huyễn
Dù hiện chẳng chân thật
Thuyết pháp cũng như thế
Tùy sự lập phương tiện.
Lương y trị bệnh nhân
Tùy bệnh mà cho thuốc
Thuyết pháp chẳng ứng cơ
Nơi họ thành phi thuyết.
Tùy tâm lượng chúng sinh
Như Lai ứng cơ thuyết
Phi cảnh giới vọng tưởng
Thanh văn chẳng có phần.
Vì thương xót kẻ mê
Thuyết cảnh giới tự giác.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hiện lượng của tự tâm, thâu nhận và kẻ thâu nhận đối với cảnh giới vọng tưởng, phải lìa phong tục tập quán thế gian. Ngày đêm sáu thời thường tự cảnh tỉnh, phương tiện tu hành, phải lìa ngôn luận của người ác kiến và các tướng thừa Thanh văn, Duyên giác, thông đạt tướng vọng tưởng của tự tâm hiện.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát kiến lập trí tuệ, nơi ba tướng của Thánh trí nên siêng tu học.

Thế nào là ba tướng của Thánh trí? Đó là tướng vô sở hữu, tướng Nhất thiết chư Phật tự nguyện xứ, tướng cứu cánh của Thánh trí tự giác. Tu hành được đến đây rồi, phải xả bỏ tướng bệnh của trí tuệ tâm, được lên Bồ-tát trụ Địa thứ tám, ấy là do quá trình tu tập ba tướng kể trên mà sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Nói tướng vô sở hữu, là theo cách tu tập những tướng Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo mà sinh khởi. Nói tướng tự nguyện xứ, là nói chỗ chư Phật xưa tự nguyện tu mà sinh khởi. Nói tướng cứu cánh của Thánh trí tự giác, là đối với tất cả pháp tướng chẳng chấp trước, được tiến hành đến chứng đắc Tam-muội thân như huyễn của chư Phật mà sinh khởi. Đây gọi là ba tướng của Thánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng của Thánh trí này, thì được đến cảnh giới cứu cánh của Thánh trí tự giác. Cho nên Đại Tuệ! Ba tướng của Thánh trí nên siêng tu học.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ biết tâm niệm của chúng Đại Bồ-tát đang nghĩ về kinh gọi là: Thánh Trí Sự Phân Biệt Tự Tánh, nên nương theo diệu lực từ oai thần của tất cả Phật, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết kinh Thánh Trí Sự Phân Biệt Tự Tánh, y theo trí tuệ của Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, phân biệt nghĩa nơi một trăm lẻ tám câu, theo đó thuyết giảng về chỗ Đại Bồ-tát vào tự tướng và cộng tướng của tự tánh vọng tưởng. Vì phân biệt thuyết giảng về tự tánh vọng tưởng thì khéo quan sát được nhân, pháp vô ngã, tẩy sạch vọng tưởng, soi sáng các Địa, siêu việt tất cả Thanh văn, Duyên giác và thiền định của ngoại đạo, biết khắp cảnh giới thuộc nơi chốn hành hóa không thể nghĩ bàn của Như Lai, lìa bỏ năm pháp tự tánh. Dùng Pháp thân trí tuệ của chư Phật Như Lai khéo tự trang nghiêm, khởi cảnh giới huyễn, lên Thiên cung Đâu-suất, trời Sắc cứu cánh, trong tất cả cõi Phật, cho đến được Pháp thân thường trụ của Như Lai (như Phật Thích-ca từ Thiên cung Đâu-suất giáng sinh thành Phật).

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có một thứ ngoại đạo, khởi vọng tưởng chấp trước đoạn diệt, xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả là hư vô, như thỏ không sừng, cho tất cả pháp cũng như thế. Ngoài ra còn có ngoại đạo căn cứ theo chỗ vi tế của Đà-la-phiếu (chân lý), vọng chấp các pháp mỗi mỗi sai biệt, sinh kiến chấp ấy, cho là không có sừng thỏ, thì lại nghĩ tưởng phải có sừng trâu. Đại Tuệ! Họ rơi vào nhị kiến hữu và vô, chẳng rõ cảnh giới tâm lượng của tự tâm, vọng tự thêm bớt, kiến lập thân thọ dụng, vọng tưởng có căn cứ số lượng. Đại Tuệ! Tất cả pháp tánh cũng như thế, lìa hữu, lìa vô, chẳng nên suy tưởng cho là thật có hay thật không.

Này Đại Tuệ! Nếu lìa hữu, vô mà cho thỏ không sừng là tưởng thật không, cho trâu có sừng là tưởng thật có, đều gọi là tà tưởng. Đại Tuệ! Theo cảnh giới Thánh trí, nên lìa nhị kiến đối đãi.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Người chẳng vọng tưởng thấy tướng vô sinh rồi, theo đó suy nghĩ quán xét, chẳng sinh vọng tưởng, nói là vô chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải quán xét chẳng sinh vọng tưởng mà nói vô. Vì sao? Vì vọng tưởng do chấp thật mà sinh; như theo chấp thật có và không về sừng mà sinh ra vọng tưởng. Nếu chẳng chấp thật thì lìa hai tướng tương đối. Do quán Hữu nên nói thỏ không sừng, do quán Vô nên nói trâu có sừng. Đại Tuệ! Vì pháp tương đối chẳng phải chánh nhân, nên nói hữu nói vô, cả hai đều chẳng thành. Nói thành là do chấp pháp tương đối mà thành.

Này Đại Tuệ! Lại còn có ngoại đạo chấp trước việc sắc không sinh khởi kiến chấp, chẳng biết thực tế của hư không, nói lìa sắc lìa hư không, sinh khởi kiến chấp về biên vực của vọng tưởng.

Này Đại Tuệ! Hư không là sắc, thuộc về sắc chủng. Sắc là hư không, do chủ thể nhận thức, đối tượng được nhận thức mà kiến lập, phân biệt tánh sắc tánh không. Đại Tuệ! Phải biết lúc bốn đại chủng sinh khởi, tự tướng riêng biệt, chẳng trụ hư không, nhưng không phải chẳng có hư không.

Như thế, Đại Tuệ! Vì chấp pháp tương đối, quán trâu có sừng nên nói thỏ không sừng. Nếu đem sừng trâu phân tích thành vi trần, lại phân tích vi trần cho đến cực vi thì sát-na chẳng có chỗ trụ. Họ quán theo như thế nào mà nói là vô? Nếu quán các vật khác thì pháp cũng như vậy.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nên lìa sừng thỏ, sừng trâu, sắc tướng hư không, kiến chấp vọng tưởng. Các Đại Bồ-tát nên suy xét vọng tưởng do tự tâm hiện, Bồ-tát vào tất cả cõi nước, dùng phương tiện của tự tâm giáo hóa chúng sinh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Sắc cùng với tâm không
Sắc cùng nuôi dưỡng tâm
Thân thọ dụng kiến lập
Tạng thức hiện chúng sinh.
Tâm, ý và ý thức
Pháp tự tánh có năm
Vô ngã có hai thứ
Do Như Lai rộng thuyết.
Dài, ngắn và có, không
Lần lượt sinh lẫn nhau
Vì không lập nghĩa có
Vì có lập nghĩa không
Nếu phân biệt vi trần
Vọng sắc chẳng thể sinh.
Chỗ an lập tâm lượng
Không nên có ác kiến
Phi cảnh giới giác tưởng
Tưởng Thanh văn cũng thế
Cảnh giới của tự giác
Cứu thế phương tiện thuyết.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ vì trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện, lại hỏi Như Lai:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sinh? Ấy là pháp đốn hay tiệm?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Phi tiệm phi đốn, cũng tiệm cũng đốn. Nói tiệm, ví như trái Yêm-ma-la tiệm chín mùi; như đại địa tiệm dần dần sinh vạn vật, Như Lai trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sinh cũng như thế. Nói đốn, ví như gương sáng đốn liền hiện tất cả sắc tướng vô tướng; như ánh sáng mặt trời đốn liền soi tất cả sắc tướng, Như Lai trừ sạch dòng suối ý thức do tự tâm hiện của tất cả chúng sinh cũng như thế.

Này Đại Tuệ! Pháp Y Phật thuyết tất cả các pháp hiện bày nơi tự tướng và cộng tướng là tập khí do tự tâm hiện, vọng tưởng tương tục do tự tâm so sánh chấp trước, mỗi mỗi không thật như huyễn. Thật ra, mỗi mỗi so sánh chấp trước đều không thủ đắc.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Vì so sánh chấp trước duyên khởi tự tánh, sinh ra tướng vọng tưởng của tự tánh. Đại Tuệ! Như nhà ảo thuật, nương cỏ cây, ngói đá làm ra đủ thứ cảnh vật huyễn hóa, do đó sinh khởi bao nhiêu hình sắc, sinh khởi đủ thứ vọng tưởng, những vọng tưởng kia vốn chẳng chân thật.

Như thế, Đại Tuệ! Y theo tánh duyên khởi sinh khởi vọng tưởng, y mỗi mỗi vọng tưởng hình thành mỗi mỗi sự vật hiện thành, ấy gọi là Y Phật thuyết pháp.

Này Đại Tuệ! Nói hóa Phật là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ, lìa ấm, giới, nhập, giải thoát mọi thức tướng phân biệt, là do quán xét kiến lập, siêu việt kiến chấp về ngoại đạo và kiến chấp về cõi Vô sắc.

Này Đại Tuệ! Nói Pháp Phật, là lìa duyên dựa, lìa tất cả mọi đối tượng được tạo tác, tướng căn và số lượng đều diệt, chẳng phải tướng ngã chấp và cảnh giới nơi đối tượng bị chấp của phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Ấy là do tướng cứu cánh sai biệt của Thánh trí tự giác kiến lập. Cho nên, Đại Tuệ! Tướng cứu cánh sai biệt của Thánh trí tự giác nên siêng tu học và kiến chấp do tự tâm hiện cần phải diệt trừ.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có hai thứ tướng phân biệt thông với thừa Thanh văn, ấy là: Chấp tướng đắc Thánh tự giác sai biệt và tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng nơi tự tánh.

Thế nào là tánh đắc Thánh tự giác sai biệt của Thanh văn? Ấy là cảnh giới chân đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự, cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, biết như thật về tâm được tĩnh lặng. Tâm tĩnh lặng xong, được đạo quả thiền định giải thoát Tam-muội. Nhưng chánh thọ giải thoát ấy chẳng lìa tập khí biến dịch sinh tử chẳng thể nghĩ bàn, đắc Thánh tự giác, ham trụ nơi thừa Thanh văn, ấy gọi là tướng đắc Thánh tự giác sai biệt của Thanh văn.

Này Đại Tuệ! Ham trụ đắc Thánh tự giác sai biệt của Đại Bồtát, chẳng phải là ham pháp môn diệt và ham chánh định, chỉ vì thương xót chúng sinh và theo đúng bản nguyện mà không thủ chứng. Đại Bồ-tát đối với tướng đắc Thánh tự giác sai biệt của thừa Thanh văn ham thích, chẳng nên tu học.

Này Đại Tuệ! Thế nào là so sánh chấp trước tánh vọng tưởng nơi tự tánh của thừa Thanh văn? Ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sinh tự tướng, cộng tướng, chỉ là cái phương tiện của Phật thuyết. Người Thanh văn do đó khởi tự tánh vọng tưởng, Đại Bồ-tát đối với pháp ấy nên biết nên xả, liền nhập tướng vô ngã nơi pháp và diệt trừ kiến chấp nơi tướng vô ngã của nhân, lần lượt tiến đến các Địa, ấy gọi là tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng nơi tự tánh của thừa Thanh văn.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thuyết giảng về cảnh giới thường và chẳng thể nghĩ bàn của Đệ nhất thánh trí và cảnh giới của Đệ nhất nghĩa, chẳng phải là chỗ nêu giảng của những ngoại đạo về nhân duyên thường chẳng thể nghĩ bàn chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải là nhân duyên đạt được thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo. Vì sao? Thường chẳng thể nghĩ bàn của những ngoại đạo, chẳng do tự tướng thành. Nếu thường chẳng thể nghĩ bàn chẳng do tự tướng thành thì cớ sao được hiển hiện thường chẳng thể nghĩ bàn? Lại nữa, này Đại Tuệ! Chẳng thể nghĩ bàn nếu do tự tướng thành thì ắt phải là pháp thường, nếu do người làm ra thì chẳng thể thành thường chẳng thể nghĩ bàn, vì do làm mới có, chẳng phải thường có.

Này Đại Tuệ! Ta nói Đệ nhất nghĩa thường chẳng thể nghĩ bàn, tướng nhân thành Đệ nhất nghĩa là lìa tánh, phi tánh, nên đạt được tướng tự giác mà vô tướng. Cái nhân của Đệ nhất nghĩa trí, vì có cái nhân lìa tánh, phi tánh, ví như hư không không tạo tác, Niết-bàn tận diệt, nên chánh pháp ấy tự thường, chẳng do tạo tác thành thường. Như thế, chẳng đồng với định luận thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Thường chẳng thể nghĩ bàn này do Thánh trí tự giác của Như Lai chứng đắc, nên thường chẳng thể nghĩ bàn của Thánh trí tự giác, cần phải tu học.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo chẳng có tánh thường, vì có cái nhân của tướng khác, chẳng phải cái nhân của sức tướng tự thành. Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo có chỗ tạo tác, tánh phi tánh, vô thường, theo kiến chấp suy tư tự cho là thường.

Này Đại Tuệ! Pháp ta cũng dùng nhân duyên như thế, vì tánh phi tánh, chẳng lập chỗ tạo tác, chẳng có thường kiến, nơi cảnh giới của Thánh trí tự giác, nói cái thường ấy tự vô nhân (chẳng có sự bắt đầu).

Này Đại Tuệ! Nếu các ngoại đạo lập cái nhân tướng thành thường chẳng thể nghĩ bàn, lập cái nhân của tự tướng, nói tánh phi tánh, thì đồng như sừng thỏ, vì pháp thường chẳng thể nghĩ bàn của họ chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng. Các ngoại đạo có cái lỗi như thế. Vì sao? Vì chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng, cũng như sừng thỏ, chẳng phải do tự tướng vốn sẵn đầy đủ.

Này Đại Tuệ! Pháp thường chẳng thể nghĩ bàn của ta do tướng tự giác chứng đắc, lìa đối tượng được tạo tác, tánh phi tánh, nên tự vốn là thường, chẳng phải ngoài tánh phi tánh, suy nghĩ pháp vô thường cho là thường. Nếu ngoài tánh phi tánh, pháp vô thường suy nghĩ cho là thường, là cái thuyết thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo, vì họ chẳng biết cái tướng của tự nhân thường chẳng thể nghĩ bàn vốn sẵn đầy đủ, nên xa cách với tướng cảnh giới chứng đắc nơi Thánh trí tự giác, họ chẳng nên thuyết.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Chúng Thanh văn sợ cái khổ của vọng

tưởng sinh tử mà cầu Niết-bàn, chẳng biết tất cả tánh sai biệt của sinh tử Niết-bàn là vọng tưởng, phi tánh, do cảnh giới của các căn thôi nghĩ, cho là Niết-bàn, chẳng phải chuyển tạng thức thành Thánh trí tự giác.

Thế nên, Phật đối với phàm phu nói có ba thừa, nói những tâm lượng vốn chẳng thật có, họ chẳng biết cảnh giới của tự tâm hiện của Như Lai nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, mà so sánh chấp trước cảnh giới ngoài tâm hiện, nên thường lưu chuyển trong vòng sinh tử.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả pháp vốn vô sinh, ấy là quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật thuyết giảng. Vì sao? Nói tự tâm hiện, là tánh phi tánh, lìa phi hữu mà sinh. Đại Tuệ! Tất cả tánh vô sinh thì tất cả pháp như sừng thỏ, mà phàm phu ngu si, vì tự tánh vọng tưởng chấp cho là thật.

Này Đại Tuệ! Tất cả pháp vô sinh, là cảnh giới của Thánh trí tự giác, tất cả tướng tự tánh của tất cả tánh vốn vô sinh, chẳng phải hai thứ cảnh giới vọng tưởng nhị kiến của phàm phu, kiến lập tướng tự tánh của sắc thân và tài (sở hữu của thân). Đại Tuệ! Chuyển cái tướng chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp của tạng thức mà phàm phu đọa vào nhị kiến của sinh, trụ, diệt, hy vọng tất cả tánh có sinh, sinh những vọng tưởng hữu và phi hữu, chẳng phải là Thánh hiền.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có năm thứ chủng tánh vô gián. Những gì là năm? Ấy là Thanh văn thừa vô gián chủng tánh, Duyên giác thừa vô gián chủng tánh, Như Lai thừa vô gián chủng tánh, Bất định chủng tánh và Các biệt chủng tánh (ngoại đạo chủng tánh).

Thế nào là Chủng tánh vô gián của Thanh văn thừa? Nếu có người nghe nói đến ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, lúc ấy lỗ chân lông toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng yên vui và ham tu trí tướng, chẳng tu tướng duyên khởi phát ngộ, khởi tâm đoạn dứt tập khí phiền não, nhưng chẳng đoạn, chẳng độ biến dịch sinh tử chẳng thể nghĩ bàn, chỉ độ phần đoạn sinh tử, cho là sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, sau này chẳng thọ sinh nữa, như thật biết tu tập nhân vô ngã, cho đến chứng đắc Niết-bàn của Thanh văn, ấy gọi là Chủng tánh vô gián của Thanh văn thừa.

Này Đại Tuệ! Thế nào là Chủng tánh vô gián của Duyên giác thừa? Nếu có người nghe nói những khác biệt của nhân duyên vô gián, toàn thân lông dựng lên, rơi lệ dầm dề, đối với những tướng chẳng phải mười hai nhân duyên thì cảm thấy không thích, mỗi mỗi tự thân, mỗi mỗi thần thông, hoặc lìa hoặc hợp, đủ thứ biến hóa, lúc nghe thuyết này, tâm liền ngộ nhập. Nếu biết họ thuộc về Chủng tánh vô gián của Duyên giác thừa rồi, tùy thuận căn tánh của họ mà thuyết giảng pháp Duyên giác thừa, ấy gọi là tướng Chủng tánh vô gián của Duyên giác thừa.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh vô gián của Như Lai thừa có bốn thứ:

  1. Tự tánh pháp vô gián chủng tánh.
  2. Lìa tự tánh pháp vô gián chủng tánh.
  3. Đắc tự giác thánh vô gián chủng tánh.
  4. Ngoài sát thù thắng (ngoài cõi nước thù thắng, có nghĩa là vô sở trụ) vô gián chủng tánh.

Nếu người nghe thuyết bốn việc này và lúc nghe thuyết về cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thân, tài (ngã và ngã sở) kiến lập do tự tâm hiện, tâm chẳng kinh sợ, ấy gọi là tướng Chủng tánh vô gián của Như Lai thừa.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh bất định là khi người nghe thuyết ba thứ chủng tánh kể trên, tùy theo lúc nghe chủng tánh nào thì ngộ nhập chủng tánh ấy, theo đó tu tập mà thành tựu. Như nghe thuyết thừa Thanh văn thì thành chủng tánh Thanh văn, nghe thuyết thừa Duyên giác thì thành chủng tánh Duyên giác, nghe thuyết thừa Như Lai thì thành chủng tánh Như Lai, ấy gọi là Chủng tánh bất định.

Này Đại Tuệ! Các biệt vô gián là những chúng sinh còn chấp thật về kiến giác như ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tăng trưởng thiện căn, sĩ phu… mà cầu chứng Niết-bàn. Lại nghe lời thuyết pháp của ngoại đạo, cho tất cả tánh đều có kẻ tạo ác, nói đó là Niết-bàn, cho như thế là giác ngộ, đối với pháp vô ngã chẳng có phần, nên họ không thể giải thoát. Ấy là những người tu Thanh văn thừa mà thuộc về ngoại đạo chủng tánh vô gián, chẳng xuất luân hồi mà cho là xuất, ấy gọi là Chủng tánh vô gián các biệt.

Này Đại Tuệ! Người sơ trị địa nói kiến lập chủng tánh là vì muốn siêu nhập địa vô sở hữu, nên có sự kiến lập này. Người tự tu tự giác, phải dứt sạch tập khí phiền não, thấy pháp vô ngã, từ đắc Tam-muội của Thanh văn, cho đến năm thứ chủng tánh kia, cuối cùng đều sẽ chứng đắc Pháp thân tối thắng của Như Lai.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ:

Tu-đà-hoàn nhập lưu
Tư-đà-hàm vãng lai
A-na-hàm bất hoàn
Đến quả A-la-hán.
Gọi là thừa Thanh văn
Tam thừa và Nhất thừa
Phi thừa đúng ta thuyết
Phàm phu kém trí tuệ.
Chư Thánh xa lìa tịch
Pháp môn Đệ nhất nghĩa
Xa lìa giáo Nhị thừa
Trụ nơi vô sở hữu.
Sao lại lập tam thừa
Chư thiền pháp vô lượng
Vô sắc Tam-ma-đề
Thọ tưởng này tịch diệt
Cũng chẳng có tâm lượng.

Này Đại Tuệ! Nói Nhất-xiển-đề thật chẳng phải Nhất-xiển-đề. Nếu Nhất-xiển-đề là thật, thì ai chuyển được ai? Vậy thế gian làm sao giải thoát? Này Đại Tuệ! Có hai thứ Nhất-xiển-đề:

1. Xả bỏ tất cả thiện căn và xả bỏ phát nguyện của chúng sinh từ vô thủy. Sao nói xả bỏ tất cả thiện căn? Ấy là vì phỉ báng Bồ-tát tạng và nói lời ác: “Chẳng phải tùy thuận kinh luật mà được giải thoát.” Vì xả bỏ tất cả thiện căn nên chẳng thể chứng nhập Niết-bàn.

2. Bồ-tát vì độ tất cả chúng sinh được chứng Niết-bàn mà có bản nguyện phương tiện tự chẳng thủ chứng Niết-bàn. Đại Tuệ! Pháp Niết-bàn kia, gọi là pháp tướng chẳng Niết-bàn. Đây cũng thuộc về loại Nhất-xiển-đề.

Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao nhất định chẳng thủ chứng Niết-bàn? Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Bồ-tát Nhất-xiển-đề! Biết tất cả pháp vốn đã là Niết-bàn, chẳng cầu thủ chứng Niết-bàn nữa, chẳng phải là xả bỏ tất cả thiện căn, thành Nhất-xiển-đề kia.

Này Đại Tuệ! Người Nhất-xiển-đề xả bỏ tất cả thiện căn, lại nhờ thần lực của Như Lai, cũng có thể tái phát thiện căn. Vì sao? Vì Như Lai chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh. Do đó, nên nói Bồ-tát Nhấtxiển-đề chẳng thủ chứng Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải thấu hiểu ba thứ tự tánh. Thế nào là ba thứ tự tánh? Ấy là vọng tưởng tự tánh (Biến kế sở chấp), nhân duyên tự tánh (Y tha khởi) và thành tựu tự tánh (Viên thành thật). Đại Tuệ! Vọng tưởng tự tánh do chấp trước tướng sinh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao nói vọng tưởng tự tánh từ tướng sinh?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Sự tướng của duyên khởi tự tánh, do tướng hành hiển bày tướng sự, đối với tướng so đo chấp trước, thành có hai tướng vọng tưởng tự tánh, do Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phương tiện kiến lập, gọi là danh tướng chấp trước tướng và sự tướng chấp trước tướng. Nói danh tướng chấp trước tướng là chấp trước các pháp trong ngoài; sự tướng chấp trước tướng là theo việc trong ngoài của tự tướng cộng tướng sinh khởi chấp trước như thế. Ấy gọi là tướng của hai thứ vọng tưởng tự tánh, vì nương theo nhân duyên mà sinh nên gọi là duyên khởi tự tánh.

Thế nào là thành tựu tự tánh? Ấy là lìa vọng tưởng của hai thứ danh tướng và sự tướng, tức là cảnh giới thuộc đối tượng được hành hóa của Thánh trí tự giác do Thánh trí chứng đắc, ấy gọi là Thành tựu tự tánh, cũng gọi là tâm Như Lai tạng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, nên nói kệ:

Danh, tướng và phân biệt
Với hai thứ tự tánh
Chánh trí và như như
Thành tựu năm pháp tướng.

Này Đại Tuệ! Ấy gọi là quan sát năm pháp tự tánh tướng kinh. Cảnh giới của đối tượng hành hóa nơi kinh này là ý nghĩa sâu xa nơi Thánh trí tự giác, chúng Đại Bồ-tát cần phải tu học.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khéo quán hai thứ tướng vô ngã. Thế nào là hai thứ tướng vô ngã? Ấy là nhân vô ngã và pháp vô ngã.

Thế nào là Nhân vô ngã trí? Là lìa ngã và ngã sở, lìa tụ duyên của ấm, giới, nhập, lìa sự sinh khởi của vô minh nghiệp ái, sáu căn thâu nhận sáu trần sinh ra sáu thức, những chấp trước ấy đều phải lìa. Vì tất cả căn, thân (chánh báo), khí giới (y báo) đều do tự tâm hiện, là tướng của tự vọng tưởng, như dòng nước, như chủng tử, như đèn, như gió, như mây, sát-na lượt hoại. Thô đông như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như con ruồi, không biết đủ như gió thổi lửa, nhân tập khí hư giả từ vô thủy như bánh xe đạp nước, đủ thứ thân sắc, sinh tử luân hồi trong sáu đường như huyễn thuật và thần chú mà tùy cơ phát khởi trí tuệ, khéo biết tất cả tướng kia đều chẳng thật thì phá được nhân ngã chấp, ấy gọi là Nhân vô ngã trí.

Thế nào là Pháp vô ngã trí? Biết ấm, giới, nhập là vọng tưởng, tướng tự tánh, lìa ngã, ngã sở, những ấm, giới, nhập tích tụ, do dây trói của nghiệp ái lần lượt duyên nhau sinh khởi, nhưng thật tướng vốn chẳng lay động, các pháp cũng thế. Lìa tướng vọng tưởng nơi tự cộng tướng chẳng thật, do sức vọng tưởng của phàm phu sinh ra, chẳng phải Thánh hiền, vì tự tánh lìa tâm, ý, ý thức và năm pháp. Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khéo quán tất cả pháp vô ngã, khéo tu pháp vô ngã, thì Đại Bồ-tát chẳng bao lâu sẽ chứng đắc Sơ địa, quán tướng của địa là vô sở hữu, quan sát mở mang giác tuệ, đến địa Hoan hỷ, lần lượt tiến lên, siêu việt tướng Cửu địa, chứng địa Pháp vân, ngay đó kiến lập vô lượng bảo trang nghiêm, ngồi Đại bảo liên hoa trong Đại bảo cung điện, đồng một loại như tượng vua, có các quyến thuộc Bồ-tát từ tất cả cõi Phật đến vây quanh, được tay Phật thực hành pháp quán đảnh, giống như sự quán đảnh của thái tử Chuyển luân thánh vương. Từ phàm phu tu tập, sinh khởi cảnh giới huyễn của tự tánh, tới quả vị siêu địa Phật tử, cho đến pháp Thánh trí tự giác, sẽ được Pháp thân tự tận của Như Lai, hiện pháp vô ngã, ấy gọi là tướng pháp vô ngã. Chúng Đại Bồ-tát cần nên tu học.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết pháp kiến lập và phủ định, khiến con và chư Đại Bồ-tát lìa kiến lập và phủ định của ác kiến nhị biên, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thế Tôn chấp thuận sự thỉnh cầu của Bồ-tát Đại Tuệ nên nói kệ:

Kiến lập và phủ định
Vốn chẳng có tâm lượng
Thân thọ dụng kiến lập
Tâm phàm chẳng thể biết
Ngu si chẳng trí tuệ
Chấp kiến lập phủ định.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn hiển bày đại nghĩa này nên bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có bốn thứ phi hữu mà lại có kiến lập. Thế nào là bốn?

Tướng phi hữu kiến lập.
Kiến phi hữu kiến lập.
Nhân phi hữu kiến lập.
Tánh phi hữu kiến lập.

Ấy gọi là bốn thứ kiến lập. Còn nói phủ định nghĩa là nơi đối tượng được lập kia vốn là vô sở đắc, vì quan sát sai lầm mà khới tâm phủ định, ấy gọi là tướng kiến lập phủ định.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thế nào là Tướng phi hữu kiến lập tướng? Ấy là: Tự, cộng tướng của ấm, giới, nhập vốn phi hữu mà khởi tâm chấp trước, cho là thế này thế kia, gọi là Tướng phi hữu kiến lập tướng. Tướng phi hữu kiến lập tướng này, là lỗi của vọng tưởng hư dối từ vô thủy, do đủ thứ tập khí kiến chấp mà sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Kiến phi hữu kiến lập tướng là kiến chấp về ấm, giới, nhập, ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, nuôi dưỡng thiện căn (kẻ làm), sĩ phu (kẻ thọ nhận)… như thế gọi là Kiến phi hữu kiến lập tướng.

Nhân phi hữu kiến lập tướng là khi ý thức sơ khởi chẳng từ nhân duyên, lúc trước vốn chẳng sinh, lúc sau mới như huyễn mà sinh, vốn chẳng có vật làm nhân. Như nhãn thức do vọng tưởng về sắc, không, sáng tối mà sinh thức, thức sinh rồi liền diệt, ấy gọi là Nhân phi hữu kiến lập tướng.

Này Đại Tuệ! Tánh phi hữu kiến lập tướng là tự tánh của ba pháp vô vi hư không, Niết-bàn và trạch diệt (do sức trí tuệ mà chứng đắc pháp diệt) vốn chẳng có tự tánh, như lông rùa sừng thỏ, lìa có và không mà hiện, ấy gọi là Tánh phi hữu kiến lập tướng.

Kiến lập và phủ định là do vọng tưởng của phàm phu chẳng khéo quan sát về tự tâm hiện lượng, chẳng thấy chỗ thấy của Thánh hiền. Bậc Đại Bồ-tát nên siêng tu học, lìa hai thứ ác kiến kiến lập và phủ định.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết tâm, ý, ý thức, năm pháp của tự tánh và hai thứ tướng vô ngã; vì sự yên ổn của chúng sinh, nên tiến đến cứu cánh. Như hạt châu như ý hiện ra đủ thứ sắc tướng, là do nhân duyên vọng tưởng phân biệt mà sinh khởi, đại chúng nơi tất cả pháp hội của Như Lai, nghe Phật thuyết giảng pháp như mộng huyễn, như ánh sáng, như bóng trăng trong nước, pháp ấy lìa sinh diệt đoạn thường và lìa Thanh văn, Duyên giác, được trăm ngàn Tam-muội, cho đến trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội. Đắc Tam-muội xong, dạo khắp các cõi Phật, cúng dường chư Phật, lên các Thiên cung hoằng dương Tam bảo, thị hiện thân Phật, có chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh. Dùng tự tâm hiện lượng để độ thoát chúng sinh, phân biệt diễn thuyết ngoài tánh vô tánh, khiến thảy đều xa lìa kiến chấp có và không…

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Phật tử khéo quan sát
Thế pháp do tâm tạo
Thị hiện đủ thứ thân
Sức thần thông tự tại
Tất cả đều thành tựu
Sở tác vô chướng ngại.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết giảng về tất cả pháp tánh không, lìa tướng tự tánh vốn vô sinh, bất nhị, khiến chúng con và chư Bồ-tát giác ngộ, lìa hai thứ vọng tưởng có và không, vô sinh, bất nhị và lìa tướng tự tánh.

Này Đại Tuệ! Nói sơ lược có bảy thứ không là: Tướng không, tự tánh không, hành không, vô hành không, tất cả pháp lìa ngôn thuyết không, Đệ nhất nghĩa thánh trí đại không và Bỉ bỉ không.

Thế nào là Tướng không? Ấy là tự tướng cộng tướng của tất cả pháp là không, vì tướng tự, tha và cộng đều chẳng thể sinh, do vọng tưởng phân biệt đối đãi với nhau tích tụ mới có. Nếu quan sát phân tích thì cứu cánh là vô tánh. Vì vô tánh nên tướng chẳng trụ, nên nói tất cả tánh tướng là không, gọi là Tướng không.

Thế nào là Tự tánh không? Ấy là tự tánh của chính mình vốn vô sinh, tức tự tánh của tất cả pháp là không, nên nói tánh của Tự tánh là không.

Thế nào là Hành không? Ấy là hành ấm lìa ngã, ngã sở, do tác nghiệp tạo thành, nghĩa là từ nhân duyên hòa hợp mà sinh, ấy gọi là Hành không.

Thế nào là Vô hành không? Duyên nhau sinh khởi theo hành không như thế này, vì tự tánh vốn vô tánh, ấy gọi là Vô hành không.

Thế nào là tất cả pháp lìa ngôn thuyết không? Vì vọng tưởng tự tánh chẳng có ngôn thuyết, nên tất cả pháp lìa ngôn thuyết, ấy gọi là Tất cả pháp lìa ngôn thuyết không.

Thế nào là tất cả pháp Đệ nhất nghĩa thánh trí đại không? Vì người đắc Thánh trí tự giác thì tất cả kiến chấp tập khí đều không, ấy gọi là Tất cả pháp Đệ nhất nghĩa nơi Thánh trí đại không.

Thế nào là Bỉ bỉ không? Nghĩa là ở nơi kia chẳng có cái không kia, gọi là Bỉ bỉ không. Đại Tuệ! Ví như người mẹ của Lộc Tử là nữ cư sĩ Tỳ-xá, vì xây dựng tinh xá cho Tỳ-kheo ở, chẳng nuôi voi, ngựa, trâu, dê… Nay nói bỉ không, chẳng phải nơi kia không có chúng Tỳkheo, cũng chẳng phải tinh xá không, cũng chẳng phải Tỳ-kheo tánh không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi, ngựa, nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, cái kia, ở nơi kia chẳng có cái kia, ấy gọi là Bỉ bỉ không. Nói chung, trong bảy thứ không, Bỉ bỉ không là cái không rất thô, ông nên xa lìa.

Này Đại Tuệ! Nói chẳng tự sinh chẳng phải vô sinh, ngoài trụ chánh định ra, gọi là vô sinh, nghĩa là lìa tự tánh tức là vô sinh. Sự lưu chuyển tương tục từng sát-na vốn lìa tự tánh và tánh dị thục hiện ra tất cả tánh đều lìa tự tánh, cho nên nói tất cả tánh lìa tự tánh.

Sao nói là Bất nhị? Tất cả pháp như âm, dương, dài, ngắn, trắng, đen… đều lìa tự tánh, vì các tướng làm nhân với nhau mới có, nên gọi là bất nhị, tất cả pháp cũng như thế. Cho nên pháp không, pháp vô sinh, pháp bất nhị, pháp lìa tướng tự tánh cần nên tu học. Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ta thường nói pháp không
Xa lìa nơi đoạn, thường
Sinh tử như mộng huyễn
Mà tánh nghiệp chẳng hoại.
Hư không và Niết-bàn
Tịch diệt cũng như thế
Phàm phu chấp vọng tưởng
Bậc Thánh lìa hữu, vô.

Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Pháp không, pháp Vô sinh, pháp Bất nhị, pháp lìa tự tánh… đều có ghi vào kinh giáo của Phật, tất cả kinh điển đều thuyết giảng về nghĩa này. Vì tùy thuận tâm hy vọng của chúng sinh mà phương tiện phân biệt thuyết giảng để hiển bày nghĩa lý chẳng phải ở nơi ngôn thuyết có sự chân thật. Như bầy nai khát nước, mê hoặc đuổi theo dương diệm cho là nước, nhưng dương diệm chẳng phải là nước thật. Các pháp của Phật thuyết giảng ghi trong kinh điển cũng như thế. Vì muốn khiến phàm phu phát tâm hoan hỷ, tinh tấn tu hành, chẳng phải có Thánh trí thật ở nơi ngôn thuyết. Cho nên phải nương theo nghĩa, chớ chấp vào ngôn thuyết.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Pháp thuyết giảng ghi trong kinh Phật nói tự tánh của Như Lai tạng vốn trong sạch thường trụ chẳng đoạn, chẳng có biến đổi, đầy đủ ba mươi hai tướng nơi thân của tất cả chúng sinh, vì áo bẩn là ấm, giới, nhập che khuất, nên bị cáu bẩn vọng phân biệt tham, sân, si bị ô nhiễm, giống như vật báu vô giá ẩn trong áo bẩn. Mà ngoại đạo có thuyết “Chân ngã là tác giả thường trụ, lìa nơi nương dựa, tự tại chẳng diệt.” Vậy, cái nghĩa Như Lai tạng của Phật đã thuyết giảng lẽ nào chẳng đồng như cái thuyết Chân ngã của ngoại đạo chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta nói Như Lai tạng, chẳng đồng với cái thuyết Chân ngã của ngoại đạo. Đại Tuệ! Ta có lúc nói Không, Vô tướng, Vô nguyện, như thật tế, pháp tánh, Pháp thân, Niết-bàn, lìa tự tánh, bất sinh bất diệt, bản lai tịch tĩnh, tự tánh Niết-bàn… dùng những danh từ này để thuyết Như Lai tạng xong, ấy là vì Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác muốn đoạn dứt sự e sợ danh từ vô ngã của phàm phu, nên nói cảnh giới lìa vọng tưởng, vô sở hữu là Như Lai tạng.

Này Đại Tuệ! Bậc Bồ-tát vị lai, hiện tại, chẳng nên sinh ngã kiến chấp trước. Ví như thợ gốm nơi một đống đất, dùng phương tiện nhân công, nước, cây, bánh xe quay để làm ra các món đồ gốm, thì Như Lai cũng như thế; ở nơi pháp vô ngã lìa tất cả tướng của vọng tưởng, dùng đủ thứ trí tuệ, phương tiện khéo léo, hoặc thuyết Như Lai tạng, hoặc thuyết vô ngã. Do nhân duyên này, nên thuyết Như Lai tạng của ta chẳng đồng với thuyết chân ngã của ngoại đạo. Vì khai mở chỗ trói buộc chấp ngã của các ngoại đạo, nên có thuyết Như Lai tạng, khiến họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng thật, ngộ nhập cảnh giới ba cửa giải thoát, mong họ mau chứng được Vô thượng Bồ-đề. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải thuyết Như Lai tạng như thế. Nếu chẳng như vậy, ắt đồng với ngoại đạo. Cho nên, Đại Tuệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo, cần phải y theo pháp vô ngã của Như Lai tạng mà tu học.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Nhân ngã và năm ấm
Nhân duyên với vi trần
Tự tánh vốn tự tại
Duy tâm vọng phân biệt.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ quán chúng sinh đời vị lai, lại thỉnh Thế Tôn:

–Cúi xin Thế Tôn thuyết về đại phương tiện tu hành chẳng gián đoạn của chư Đại Bồ-tát.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đại phương tiện tu hành của bậc Đại Bồ-tát phải thành tựu bốn pháp. Thế nào là bốn?

  1. Khéo phân biệt tự tâm hiện.
  2. Quán ngoài tánh phi tánh.
  3. Lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt.
  4. Được sự an lạc của Thánh trí tự giác.

Ấy gọi là thành tựu bốn pháp đại phương tiện tu hành của bậc Đại Bồ-tát.

Thế nào là khéo phân biệt tự tâm hiện của bậc Đại Bồ-tát? Ấy là quán về biên vực duy tâm của ba cõi, lìa ngã, ngã sở, chẳng lay động, chẳng đến đi, biết do tập khí hư dối huân tập từ vô thủy, kiến lập thân (ngã), tài (ngã sở), tùy theo vọng tưởng trói buộc hiện đủ thứ sắc hành của ba cõi, ấy gọi là khéo phân biệt tự tâm hiện của bậc Đại Bồ-tát.

Thế nào là khéo quán ngoài tánh phi tánh? Là nói quán tự tánh của tất cả tánh do vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thủy làm nhân mà thành, tất cả tánh đều giống như dương diệm, mộng, huyễn… Đại Bồ-tát khéo quán như thế, gọi là khéo quán ngoài tánh phi tánh.

Thế nào là Đại Bồ-tát khéo lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt? Nói tất cả tánh như mộng, huyễn, tự tánh, tha tánh và cộng tánh vốn chẳng sinh, liền được vào cảnh giới vô sinh của tự tâm, thấu tỏ về biên vực của tự tâm quy về vô sở đắc nên chẳng lìa mà tự lìa. Đã rõ về biên vực của tự tâm, nên quán được ngoài tánh phi tánh, tất cả pháp sinh ở nơi ba cõi trong ngoài đều không nắm bắt; quán được pháp sinh lìa tự tánh, thì kiến chấp về pháp sinh phải diệt. Vậy, khéo biết tự tánh của các pháp như huyễn thì chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Đắc pháp Nhẫn vô sinh xong thì lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt. Ấy gọi là Đại Bồtát khéo phân biệt lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt.

Thế nào là Đại Bồ-tát đắc sự an lạc của Thánh trí tự giác? Vì đắc pháp Nhẫn vô sinh rồi thì trụ nơi Bồ-tát Bát địa, được lìa tâm, ý, ý thức, năm pháp tự tánh và hai tướng vô ngã, chứng đắc Ý sinh thân.

Bồ-tát Đại Tuệ hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là ý sinh thân?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nói ý sinh thân, ví như sự đi nhanh chóng của ý đi qua vách đá vô ngại, cho đến khoảng cách số dặm vô lượng ở phương xa, vì trước kia ý đã thấy, ghi nhớ chẳng quên, tự tâm lưu chú chẳng ngừng, thì ý sinh thân cũng như thế, thành chẳng chướng ngại. Đại Tuệ! Ý và thân như thế được sinh cùng một lúc, ý sinh thân của Đại Bồ-tát thuộc Thánh chủng diệu tướng trang nghiêm, do Tam-muội như huyễn, có sức thần thông tự tại, nên trong một lúc cùng sinh, cũng như ý sinh, chẳng có chướng ngại, tùy theo cảnh giới của bản nguyện ghi nhớ mà thành tựu cho chúng sinh, đắc sự an lạc của Thánh trí tự giác. Như thế, Đại Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh, trụ tám địa, lần lượt xả bỏ tâm, ý, ý thức, năm pháp tự tánh và hai tướng vô ngã, thì chứng đắc Ý sinh thân. Ấy gọi là Đại Bồ-tát được sự an lạc của Thánh trí tự giác.

Nói tóm lại, thành tựu bốn pháp đại phương tiện tu hành của bậc Đại Bồ-tát kể trên, cần nên tu học.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết giảng về tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác ngộ được tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ-tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu, vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sinh, hoặc đốn sinh, hoặc tiệm đốn cùng sinh.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyên và nội duyên. Ngoại duyên là: Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sinh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc… do ngoại duyên phương tiện sinh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng ngoại duyên.

Thế nào là nội duyên? Vì có vô minh, ái nghiệp, các pháp hòa hợp gọi là chủ thể duyên, từ đó sinh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là đối tượng được duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp nội duyên.

Đại Tuệ! Nói về nhân gồm có sáu thứ, ấy là: Đương hữu nhân, tương tục nhân, tướng nhân, tác nhân, Hiển thị nhân và Đối đãi nhân.

1. Đương hữu nhân: Vì thức thứ tám từ vô thủy đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sinh quả, không thể nghĩ bàn, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương hữu nhân.

2. Tương tục nhân: Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, duyên dựa nơi ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sinh quá như chủng tử của năm ấm… do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sinh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương tục nhân.

3. Tướng nhân: Do cái duyên đẳng vô gián (duyên chẳng gián đoạn) làm ra tướng vô gián, sinh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng vô gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng, nên gọi là Tướng nhân.

4. Tác nhân: Tức là duyên tăng thượng, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sinh ra quả, cũng như Chuyển luân vương, do thân thể chứng đắc Luân vương làm bản thân mà bánh xe bảy báu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sinh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm duyên tăng thượng cho cảnh, nên gọi là Tác nhân.

5. Hiển thị nhân: Sự vọng tưởng sinh rồi thì hiện cái tướng chủ thể tạo tác, đối tượng được tạo tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng… gọi là Hiển thị nhân.

6. Đối đãi nhân: Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn dứt, mà ngay đó tánh “chẳng vọng tưởng” sinh khởi. Đại Tuệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sinh, chẳng cùng lúc sinh. Vì sao? Nếu cùng lúc sinh thì chẳng phân biệt được chủ thể tạo tác, đối tượng được tạo tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sinh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sinh, như chẳng sinh con thì không được gọi là cha. Đại Tuệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sinh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sinh, nên gọi là Đối đãi nhân.

Này Đại Tuệ! Nói tóm lại, các thứ tướng sinh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sinh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra lần lượt sinh và cùng lúc sinh hai thứ đều chẳng thể sinh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tất cả đều vô sinh
Cũng không nhân duyên diệt
Ở nơi tướng sinh diệt
Mà khởi tưởng nhân duyên.
Pháp diệt rồi lại sinh
Do nhân duyên tương tục
Vì đoạn dứt si mê
Của tất cả chúng sinh.
Nên thuyết pháp duyên khởi
Các pháp thật vô sinh
Do tập khí mê hoặc
Từ đó hiện ba cõi.
Duyên thật vốn vô sinh
Lại cũng chẳng có diệt
Tất cả pháp hữu vi
Như hoa đốm trên không.
Nếu lìa bỏ kiến chấp
Năng nhiếp và sở nhiếp
Chẳng có vô nhân sinh
Và đã sinh, sẽ sinh.
Sự sinh vốn chẳng có
Thảy đều là ngôn thuyết.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì chúng con nói tướng của Tâm kinh và ngôn thuyết của vọng tưởng. Con và các Đại Bồ-tát nếu khéo biết tướng Tâm kinh và ngôn thuyết vọng tưởng, thì được thông đạt hai nghĩa chủ thể thuyết giảng và đối tượng được thuyết giảng, chóng chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, dùng hai thứ chủ thể thuyết giảng, đối tượng được thuyết giảng tẩy sạch mọi phiền não cấu uế của tất cả chúng sinh.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Thế Tôn! Con xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có bốn thứ tướng vọng tưởng nơi ngôn thuyết là:

  1. Tướng ngôn thuyết: Là từ tự tâm vọng tưởng chấp trước sắc tướng mà sinh.
  2. Mộng ngôn thuyết: Là cảnh giới xưa kia đã trải qua, nay tùy niệm tưởng nhớ mà sinh, nếu giác ngộ rồi thì cảnh giới “Vô tánh” được sinh.
  3. Vọng tưởng chấp trước ngôn thuyết: Là như trước kia do oán ghét tạo thành nghiệp, nay tùy niệm tưởng nhớ mà sinh.
  4. Vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết: Là lỗi từ vô thủy hư dối, chấp trước tập khí của tự chủng mà sinh. Đó gọi là bốn thứ tướng của vọng tưởng ngôn thuyết.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng nghĩa này khuyến thỉnh Thế Tôn:

–Cúi xin Phật thuyết lại cảnh giới sở hiện của vọng tưởng ngôn thuyết. Bạch Thế Tôn! Ấy là ở nơi nào? Do cớ gì? Tại sao? Nhân gì mà sinh ra ngôn thuyết vọng tưởng của chúng sinh?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng, hòa hợp mà phát ra âm thanh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Ngôn thuyết với vọng tưởng là khác hay chẳng khác?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ngôn thuyết và vọng tưởng, chẳng phải khác hay chẳng khác. Vì sao? Vì là vọng tưởng làm nhân sinh ra tướng ngôn thuyết. Nếu ngôn thuyết với vọng tưởng khác nhau thì vọng tưởng chẳng nên làm nhân; nếu chẳng khác thì lời nói chẳng hiển bày nghĩa lý. Nhưng sự thật thì chẳng như vậy. Cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vậy ngôn thuyết là Đệ nhất nghĩa hay đối tượng được thuyết giảng là Đệ nhất nghĩa?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải ngôn thuyết là Đệ nhất nghĩa, cũng chẳng phải đối tượng được thuyết giảng là Đệ nhất nghĩa. Vì sao? Nói “Đệ nhất nghĩa” là do đối tượng được hội nhập của ngôn thuyết, nghĩa là sự an vui của bậc Thánh mới gọi là Đệ nhất nghĩa, chẳng phải ngôn thuyết là Đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là do chỗ chứng đắc của Thánh trí tự giác, chẳng phải cảnh giới của ngôn thuyết vọng tưởng, cho nên, ngôn thuyết vọng tưởng chẳng hiển thị Đệ nhất nghĩa. Vì tướng của tự và tha vô tánh, nên tướng ngôn thuyết chẳng hiển thị Đệ nhất nghĩa. Lại nữa, này Đại Tuệ! Vì do chỗ hội nhập của tự tâm hiện lượng nên mỗi mỗi tướng ngoài tánh phi tánh, thì vọng tưởng ngôn thuyết chẳng hiển thị Đệ nhất nghĩa. Cho nên phải lìa tướng ngôn thuyết và vọng tưởng, mới có thể hiển bày được Đệ nhất nghĩa.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Các pháp chẳng tự tánh
Cũng chẳng phải ngôn thuyết
Nghĩa không không sâu tột
Phàm phu chẳng thể tỏ.
Tự tánh của pháp tánh
Lìa ngôn thuyết phân biệt
Sinh tử và Niết-bàn
Các pháp như mộng huyễn.
Như vua và trưởng giả
Vì muốn các con vui
Trước cho vật tương tự
Sau ban đồ chân thật.
Nay ta cũng như thế
Trước thuyết pháp tương tự
Sau mới vì họ giảng
Pháp thật tế tự chứng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thuyết những pháp: Nhất hay dị, đồng hay chẳng đồng, hữu và vô, hay chẳng hữu chẳng vô, thường hay vô thường, chỗ chẳng hành của tất cả ngoại đạo, là chỗ hành của Thánh trí tự giác, lìa vọng tưởng nơi tự tướng cộng tướng, vào Đệ nhất nghĩa chân thật. Các địa tương tục, dần dần tiến lên, đến chỗ tướng cùng tột thanh tịnh, liền vào tướng địa của Như Lai, chẳng mở mang bản nguyện. Ví như hạt châu ma-ni có nhiều hình sắc, cảnh giới vô biên tướng hạnh, nay chỉ hiện tướng bộ phận trong tự tâm, nơi tất cả các pháp, nếu con và các vị Đại Bồ-tát, lìa kiến chấp nơi tự tướng cộng tướng của vọng tưởng tự tánh như trên, sẽ chứng được Vô thượng Bồ-đề, khiến tất cả chúng sinh đầy đủ sung mãn tất cả an lạc.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Ông khéo hỏi ta các nghĩa như thế, là thương mến tất cả chư Thiên, người đời, khiến họ được nhiều an lạc và nhiều lợi ích. Đại Tuệ! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông phân biệt giải thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Phàm phu ngu si, chẳng biết tâm lượng, chấp lấy tánh trong ngoài, dựa theo vọng tưởng chấp trước nhất, dị, đồng và chẳng đồng, hữu và vô và phi hữu phi vô, thường và vô thường… làm nhân, huân tập tự tánh, ví như bầy nai khát nước, thấy sóng nắng tưởng là nước, mê hoặc đuổi theo mà không biết chẳng phải nước. Phàm phu cũng thế, do vọng tưởng hư dối từ vô thủy huân tập mà bị ba độc đốt tâm, ham cảnh giới sắc, thấy sinh, trụ, diệt, chấp tánh trong ngoài, nên đọa nơi vọng kiến thâu nhận, sinh ra tư tưởng nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, phi hữu phi vô, thường và vô thường… Như thành Càn-thát-bà vốn chẳng phải thành, mà phàm phu vô trí lại cho là có thành thiệt, ấy là do tập khí chấp trước từ vô thủy mà hiện tướng, thật ra chẳng phải có thành, cũng chẳng phải không có thành. Như thế, ngoại đạo do tập khí chấp trước hư dối từ vô thủy, mà nương theo kiến chấp nhất, dị, đồng, chẳng đồng… chẳng khéo thấu tỏ tự tâm hiện lượng. Ví như có người nằm mơ, thấy nam nữ, voi ngựa, xe cộ, thành ấp, vườn rừng, núi sông, ao hồ, đủ thứ trang nghiêm, tự thân thọ dụng trong đó, sau khi thức rồi vẫn còn tưởng nhớ. Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Người ấy tưởng nhớ việc mộng trước kia mãi mãi chẳng bỏ như thế, là có trí tuệ chăng?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Không! Bạch Thế Tôn!

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Phàm phu như thế, chẳng biết tánh do tự tâm hiện như mộng huyễn, nương nơi kiến chấp nhất, dị, đồng, chẳng đồng… Ví như bức tranh vốn chẳng cao thấp mà phàm phu cho là có cao thấp, vì bị ác kiến ăn nuốt, hoặc chấp trí tuệ của ngoại đạo. Như thế, từ ngoại đạo xưa cho đến ngoại đạo đời vị lai, tập khí ác kiến đầy dẫy, do đó tự hoại, hoại tha. Ngoại đạo cũng lập luận vô sinh, mà rơi vào ác kiến, phỉ báng nhân quả, cũng nói là vô, lại nhổ gốc thiện căn, hoại nhân thanh tịnh. Họ đọa vào kiến chấp tự sinh, tha sinh, cộng sinh và tư tưởng hữu vô, chìm nơi kiến lập và phỉ báng, do ác kiến này nên bị đọa nơi địa ngục.

Ví như mắt nhặm, thấy có hoa đốm mà nói với chúng: “Các ngươi xem đây, ấy là hoa đốm, cứu cánh phi tánh phi vô tánh, thấy như chẳng thấy.” Vì ngoại đạo này vọng sinh hy vọng, dựa theo kiến chấp nhất, dị, đồng hay chẳng đồng… mà phỉ báng chánh pháp, tự đọa và khiến người khác đọa theo.

Ví như vòng lửa chẳng phải vòng mà phàm phu tưởng là vòng. Ngoại đạo ác kiến hy vọng như thế, do đó tất cả tánh sinh. Ví như bọt nước giống như hạt châu ma-ni, phàm phu, tiểu thừa chẳng có trí tuệ lại tưởng là châu ma-ni và chẳng phải phi châu ma-ni, chấp trước đuổi theo. Nhưng bọt nước kia chẳng phải châu ma-ni, chẳng phải lấy hay chẳng lấy. Chỉ vì ác kiến của ngoại đạo do tập khí huân tập như thế, ở nơi vô sở hữu mà nói có sự sinh, do duyên theo hữu lại nói có sự diệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ba thứ lượng và năm phần luận mỗi mỗi kiến lập xong, đem sự đắc Thánh trí tự giác, lìa hai tự tánh, vọng tưởng chấp trước cho là có tánh.

Này Đại Tuệ! Tâm, ý, ý thức, thân tâm chuyển biến tự tâm hiện chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp… Các vọng tưởng đoạn dứt, thì người tu hành địa Như Lai, Thánh trí tự giác chẳng ở nơi những vọng tưởng ấy, khởi tưởng cho là tánh phi tánh. Nếu người tu hành có cảnh giới như thế, chấp lấy tướng sinh có tánh phi tánh ấy tức là chấp lấy có sự nuôi dưỡng thiện căn và chấp lấy tướng ngã tướng nhân.

Này Đại Tuệ! Thuyết pháp tánh, tự tánh, tự tướng, cộng tướng, tất cả đều là chỗ thuyết giảng Hóa Phật, chẳng phải pháp Phật thuyết. Những ngôn thuyết ấy đều do kiến chấp hy vọng của phàm phu mà thuyết. Chẳng phải vì người ham trụ chánh định, đắc Thánh trí tự giác, đặc biệt kiến lập thẳng vào tự tánh pháp. Nay theo phương tiện hiển thị, ví như trong nước có bóng cây hiện, ấy cũng chẳng phải bóng, chẳng phải phi bóng, chẳng phải hình cây, chẳng phải phi hình cây. Chỉ do ngoại đạo chẳng biết hiện lượng của tự tâm, theo vọng tưởng chấp trước huân tập thành kiến chấp, nương theo đó sinh tướng nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường… Tự tâm hiện lượng ví như gương sáng, tùy duyên hiển hiện tất cả sắc tướng mà chẳng khởi vọng tưởng. Ấy chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng, mà thấy tướng phi tướng, phàm phu vọng tưởng cho là tướng thật. Ngoại đạo ác kiến như thế, tướng tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước, nương nơi nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô… mà sinh kiến chấp, cũng như gió với nước hòa hợp mà sinh ra âm thanh. Ấy chẳng phải tánh, chẳng phải phi tánh. Ví như đại địa chỗ chẳng có cỏ cây, do thấy dợn nắng vọng cho là có dòng sông, làn sóng nổi dậy, ấy chẳng phải tánh, chẳng phải phi tánh, tham, vô tham (tham tức là chấp thật ở chỗ chẳng thể chấp thật mà chấp cho là thật), phàm phu cũng như thế, vì do tập khí hư dối từ vô thủy huân tập vọng tưởng chấp trước, nương theo sinh, trụ, diệt, nhất, dị, đồng, chẳng đồng… duyên dựa tự trụ những việc ấy cũng như dợn nắng nổi làn sóng kia.

Ví như có người dùng sức chú thuật, khiến tử thi, người máy hoạt động như hình chúng sinh, nhưng thật chẳng phải là chúng sinh. Tất cả những việc kể trên, đều do ác kiến hy vọng của ngoại đạo hý luận chấp trước sự chẳng thật mà kiến lập.

Này Đại Tuệ! Vì muốn thành tựu sự chứng đắc Thánh trí tự giác, phải lìa những ác kiến vọng tưởng sinh, trụ, diệt, nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường… Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Bóng cây hiện trong nước
Như hoa đốm dợn nắng
Quán ba cõi như thế
Cứu cánh được giải thoát.
Ví như nai khát nước
Khiến tâm mê loạn chuyển
Cho dợn nắng là nước
Thật thì chẳng phải nước.
Do chủng tử ý thức
Hoạt động hiện cảnh vọng
Phàm phu sinh vọng tưởng
Như bị bệnh nhặm mắt.
Nơi vô thủy sinh tử
Chấp có tánh thâu nhận
Nếu ngược chốt tháo chốt
Xả lìa tham thâu nhận.
Như huyễn chú máy động
Như mây nổi điện chớp
Quán thế được giải thoát
Dứt hẳn ba tương tục.
Nơi thật chẳng kẻ tạo
Như dợn nắng hư không
Dù biết pháp như thế
Thật thì không chỗ biết.
Ngôn giáo lập giả danh
Giả danh chẳng có tướng
Lại theo đó khởi vọng
Năm ấm và hiện hành.
Như bức tranh hoa đốm
Mộng thành Càn-thát-bà
Vòng lửa và dợn nắng
Từ không hiện thành có.
Nhất, dị, thường, vô thường
Đồng chẳng đồng cũng vậy
Lỗi tương tục vô thủy
Do phàm phu si vọng.
Mắt: gương sáng, nước trong
Ngọc báu ma-ni diệu
Hiện ra nhiều sắc tướng
Thật thì chẳng có gì.
Tất cả tánh hiển hiện
Cảnh mộng huyễn cũng thế
Mỗi mỗi sắc tướng hiện
Đều chẳng thật như vậy.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Như Lai thuyết pháp lìa bốn luận chứng như thế. Là nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường, lìa nơi hữu vô, kiến lập, phủ nhận, phân biệt kết tập, chân đế duyên khởi, đạo diệt, giải thoát… Sự thuyết pháp của Như Lai lấy đó làm gốc, phi tánh, phi tự tại, phi vô nhân, phi vi trần, phi thời, phi tự tánh tương tục mà vì chúng sinh thuyết pháp. Lại nữa, này Đại Tuệ! Vì tẩy sạch phiền não chướng và sở tri chướng, ví như thương chủ vì dẫn chúng đến nơi bảo sở nên theo thứ lớp kiến lập một trăm lẻ tám câu vô sở hữu ấy, khéo phân biệt làm ba thừa (phá phiền não chướng) và tướng Thập địa (phá sở tri chướng).

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bốn thứ thiền. Thế nào là bốn?

  1. Thiền phàm phu sở hành.
  2. Thiền quan sát nghĩa.
  3. Thiền duyên dựa như thật.
  4. Thiền Như Lai.

Thế nào là Thiền phàm phu sở hành? Là nói Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo tu hành, quán tánh nhân vô ngã, tự tướng cộng tướng, lóng xương liền nhau, vô thường, khổ, tướng bất tịnh… do chấp trước làm gốc. Chỉ quán các tướng như thế, chẳng quán cái khác, thứ lớp tiến tới, tướng chẳng trừ diệt, ấy gọi là Thiền phàm phu sở hành.

Thế nào là Thiền quan sát nghĩa? Nói quán nhân vô ngã, tự tướng cộng tướng, ngoại đạo, biết tự và tha đều vô tánh, xong quán pháp vô ngã, nghĩa hành tướng của Thập địa Bồ-tát, dần dần tiến lên, gọi là Thiền quan sát nghĩa.

Thế nào là Thiền duyên dựa như thật? Là nói vọng tưởng tức hai thứ vô ngã là vọng tưởng; chỗ như thật thì chẳng sinh vọng tưởng, ấy gọi là Thiền duyên dựa như thật.

Thế nào là Thiền Như Lai? Nói nhập địa Như Lai, đắc ba thứ tướng ham trụ chánh định của Thánh trí tự giác thì thành tựu việc không thể bàn của chúng sinh, gọi là Thiền Như Lai.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Thiền phàm phu sở hành
Thiền quan sát tướng nghĩa
Thiền duyên dựa như thật
Thiền Như Lai thanh tịnh.
Ví như hình bán nguyệt
Bát-đầu-ma trong bùn
Như lửa diệt nơi không
Người tu hành quan sát
Mỗi mỗi tướng như thế
Ngoại đạo chấp tướng thiền.
Thanh văn và Duyên giác
Rơi nơi cảnh giới không.
Nếu xả bỏ tất cả Thì là vô sở hữu.
Tất cả cõi chư Phật
Dùng tay chẳng thể nghĩ bàn
Nhất thời xoa đầu họ
Thuận nhập tướng chân như.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nói pháp Niết-bàn, thuyết pháp nào gọi là Niết-bàn?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tập khí nơi tự tánh của tất cả thức đều là pháp sinh tử, như tập khí tạng thức (thức thứ tám), tập khí ý (thức thứ bảy), tập khí ý thức (thức thứ sáu), tập khí kiến (tiền ngũ thức). Nếu chuyển được các tập khí ấy, tức là chuyển được sinh tử, gọi là Niết-bàn. Cái Niết-bàn của ta và chư Phật thuyết giảng, tức là cảnh giới tánh không của các pháp.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Niết-bàn là cảnh giới của Thánh trí tự giác, lìa đoạn thường (phi đoạn phi thường), lìa vọng tưởng tánh phi tánh. Thế nào chẳng phải là thường? Là vọng tưởng của tự tướng cộng tướng đoạn dứt nên chẳng phải là thường. Thế nào chẳng phải là đoạn? Nói tất cả bậc Thánh quá khứ, hiện tại, vị lai đều được tự giác nên chẳng phải là đoạn. Đại Tuệ! Niết-bàn bất hoại, bất tử. Nếu Niết-bàn tử thì phải thọ sinh tương tục; nếu hoại, thì phải rơi vào tướng hữu vi. Cho nên Niết-bàn lìa hoại, lìa tử, là chỗ quy y của người tu hành.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Niết-bàn phi xả phi đắc, phi đoạn phi thường, phi nhất nghĩa, phi đa nghĩa, gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Niết-bàn của bậc Thanh văn, Duyên giác dựa theo vô thường, khổ, không, vô ngã, quan sát của pháp tự tướng cộng tướng vốn chẳng thật thể, quán mười hai nhân duyên cũng thế, đều là cảnh giới náo động, chẳng ưa thân cận, ham chỗ tĩnh lặng, tri kiến chẳng điên đảo thì vọng tưởng chẳng sinh. Vì họ chẳng thể chuyển thức thành trí, trông thấy chỗ tĩnh lặng của thức ấm cho là Niết-bàn, thật thì chẳng phải là cứu cánh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có hai thứ tướng tự tánh. Thế nào là hai?

  1. Tướng chấp trước ngôn thuyết tự tánh: Là do tập khí chấp trước hư dối của ngôn thuyết từ vô thủy mà sinh khởi.
  2. Tướng chấp trước sự tự tánh: Là do bất giác hiện ra biên vực tự tâm mà sinh khởi.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Như Lai dùng hai thứ thần lực kiến lập, khiến Đại Bồ-tát đảnh lễ chư Phật, hỏi nghĩa và nghe pháp, thọ giáo. Thế nào là hai thứ thần lực kiến lập?

  1. Hiện thân thuyết pháp.
  2. Vô ngôn vô thuyết, chỉ dùng tay quán đảnh, truyền thọ quả vị Như Lai.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát chứng Sơ địa, trụ nơi thần lực của Phật, nhập Tam-muội Đại thừa chiếu minh. Nhập Tam-muội này rồi, thì mười phương thế giới, tất cả chư Phật dùng sức thần thông thị hiện tất cả thân diện ngôn thuyết, như Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng và như các Đại Bồ-tát khác đã thành tựu tướng công đức như thế. Đại Tuệ! Ấy gọi là Bồ-tát Sơ địa.

Bậc Đại Bồ-tát được thần lực Tam-muội chánh thọ, là do tích chứa thiện căn từ trăm ngàn kiếp được thành tựu. Đối trị tướng của đối tượng được trị (tập khí xuất thế gian) thứ lớp tiến lên các Địa, cho đến địa Pháp vân, thông đạt cứu cánh, trụ nơi cung điện Đại liên hoa vi diệu, ngồi tòa Sư tử Đại bảo liên hoa, được quyến thuộc của các Đại Bồ-tát cùng loại vây quanh, các thứ báu anh lạc trang nghiêm thân thể, như hoa Chiêm-bặc bằng vàng, như ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Các Bồ-tát từ mười phương đến, nơi tòa Đại liên hoa trong cung điện mà quán đảnh, cũng như sự quán đảnh của Tự tại Chuyển luân thánh vương và Thái tử Đế Thích, ấy gọi là thần lực quán đảnh của Bồ-tát thủ. Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi hai thứ thần lực, thì sẽ gặp mặt chư Phật Như Lai, nếu chẳng như thế thì chẳng thể gặp.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Những pháp hạnh thần túc, Tam-muội, phân biệt của Đại Bồ-tát, tất cả đều trụ nơi hai thứ thần lực của Như Lai. Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát lìa hai thứ thần lực của Phật mà có biện tài thuyết pháp, thì tất cả phàm phu cũng phải có biện tài thuyết pháp. Vì sao? Vì chẳng cần trụ nơi thần lực mà tự có.

Này Đại Tuệ! Khi Như Lai vào thành, hiện sức oai thần của Phật, khiến các thứ vô tình như núi đá, cây cối, nhạc cụ, thành ấp, cung điện đều tự nhiên phát ra tiếng âm nhạc, huống là người có tâm thức thì dù mù, điếc, câm, ngọng có vô lượng khổ, đều được giải thoát. Như Lai có vô lượng thần lực như thế để tạo lợi lạc cho chúng sinh.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác gia hộ thần lực cho bậc Bồ-tát đang trụ Tam-muội chánh thọ và khi được thắng tiến địa quán đảnh?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Vì lìa nghiệp ma phiền não nên chẳng rơi vào thiền của Thanh văn thừa; vì đắc địa Như Lai tự giác và đắc pháp tinh tấn, nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đều dùng thần lực kiến lập chư Đại Bồ-tát. Nếu chẳng dùng thần lực kiến lập, ắt phải rơi vào ác kiến vọng tưởng của ngoại đạo, hoặc rơi vào Thanh văn thừa, hoặc rơi vào vùng hy vọng của chúng ma, chẳng thể đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đó, chư Phật Như Lai đều dùng thần lực thâu nhận chư Đại Bồ-tát.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Thần lực của chư Phật
Do đại nguyện trong sạch
Quán đảnh bậc Bồ-tát
Sơ địa đến Thập địa.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật thuyết duyên khởi tức là thuyết nhân duyên sinh, chẳng thuyết đạo do tự tâm vọng tưởng phân biệt mà sinh. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng thuyết nhân duyên, nói vi trần sinh khởi lúc ban đầu là nhờ tánh thắng tự tại của thần ngã, các tánh khác sinh khởi cũng như thế. Nhưng Thế Tôn nói nhân duyên hay sinh ra các tánh, là dùng Tất-đàn Hữu gián hoặc Tất-đàn Vô gián để giáo hóa chúng sinh.

Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói về Hữu sinh và Vô hữu sinh,

Thế Tôn cũng nói đến Vô hữu sinh, sinh rồi diệt. Như Thế Tôn thuyết giảng về mười hai nhân duyên, từ vô minh duyên hành cho đến lão tử, ấy là Vô nhân thuyết của Thế Tôn, chẳng phải là hữu nhân thuyết. Thế Tôn kiến lập thuyết như vậy, nói “có cái này nên có cái kia”, chẳng phải kiến lập cái nghĩa tiệm sinh. Thuyết “Quán tánh thắng” của ngoại đạo, chẳng phải là thuyết của Như Lai. Vì sao? Vì ngoại đạo thuyết cái nhân chẳng từ duyên sinh mà có chỗ sinh ra. Nhưng Thế Tôn thì thuyết quán nhân có quả, quán quả có nhân, nói nhân duyên tạp loạn như vậy, thế thì duyên nhau đến vô cùng tận.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta chẳng phải thuyết Vô nhân và thuyết Nhân duyên tạp loạn, cái này có nên cái kia có và chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp đều phi tánh, là biết rõ được tự tâm hiện lượng. Đại Tuệ! Nếu chấp trước chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp thì chẳng giác ngộ được tự tâm hiện lượng và ngoài cảnh giới tánh phi tánh, họ có cái lỗi như thế, chẳng phải cái thuyết duyên khởi của ta. Ta thường thuyết do nhân duyên hòa hợp mà sinh các pháp, chẳng phải là Vô nhân sinh.

Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chẳng phải ngôn thuyết hữu tánh là có tất cả tánh chăng? Nếu vô tánh thì ngôn thuyết chẳng sinh, cho nên ngôn thuyết hữu tánh, nghĩa là có tất cả tánh.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Vô tánh mà có ngôn thuyết, như lông rùa sừng thỏ, là hiện ngôn thuyết của thế gian. Đại Tuệ! Chẳng phải tánh, chẳng phải phi tánh, chỉ là ngôn thuyết mà thôi. Như lời ông nói “Ngôn thuyết hữu tánh, có tất cả tánh” đó, lập luận của ông ắt bị lật đổ.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả quốc độ đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ là tạo tác thôi. Hoặc có cõi Phật dùng ngó nhìn để hiển bày pháp, hoặc có cõi Phật làm ra hình tướng, hoặc nhướng mày, hoặc chớp mắt, hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc hắng giọng, hoặc tưởng niệm, hoặc lay động, các cõi Phật ấy đều chẳng nhờ ngôn thuyết mà hiển bày các pháp. Đại Tuệ! Như thế giới Hương tích và quốc độ của Như Lai Phổ Hiền, chỉ dùng ngó nhìn, khiến các Bồ-tát đắc pháp Nhẫn vô sinh và Tam-muội thù thắng. Cho nên chẳng phải ngôn thuyết hữu tánh là có tất cả tánh. Đại Tuệ! Như ông đã thấy, các loại ruồi, nhặng, giun, kiến trong thế giới này, những chúng sinh ấy chẳng có ngôn thuyết cũng làm xong công việc.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Như hư không sừng thỏ
Và con của Thạch nữ
Không mà có ngôn thuyết
Tánh vọng tưởng như thế.
Nhân duyên hòa hợp sinh
Phàm phu khởi vọng tưởng
Chẳng thể đúng như thật
Nên luân hồi ba cõi.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Âm thanh hiển bày nghĩa chân thường ấy nương theo việc gì mà thuyết?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Vì sự mê hoặc mà thuyết. Do chúng sinh mê hoặc, nên chư Thánh thị hiện âm thanh thuyết pháp giáo hóa, gọi là Thanh giáo, mà chẳng phải điên đảo. Đại Tuệ! Như dợn nắng, vòng lửa, hoa đốm, thành Càn-thát-bà, mộng huyễn, bóng trong gương… là điên đảo của thế gian, chẳng phải minh trí của bậc Thánh, nhưng chẳng phải không có hiện ra những việc trên.

Này Đại Tuệ! Kẻ mê hoặc có đủ thứ vọng hiện kể trên, chẳng phải mê hoặc tạo ra vô thường. Vì sao? Vì lìa tánh phi tánh. Đại Tuệ! Thế nào là mê hoặc lìa tánh phi tánh? Là nói mỗi mỗi cảnh giới của tất cả phàm phu, cũng như hàng ngạ quỷ thấy sông Hằng là lửa, chẳng thấy là nước. Tánh mê hoặc này chỉ hiện nơi ngạ quỷ mà thôi, nơi chúng sinh khác thì hiện tánh chẳng mê hoặc, chứ chẳng phải vô tánh, vì họ đều thấy nước sông Hằng. Tánh mê hoặc như thế, nên bậc

Thánh lìa điên đảo và bất điên đảo, do đó nói mê hoặc là thường, vì mỗi mỗi tướng đều chẳng thể hoại. Đại Tuệ! Chẳng phải mỗi mỗi tướng mê hoặc hoại, chỉ là tướng vọng tưởng hoại, nên nói mê hoặc là thường.

Này Đại Tuệ! Tại sao cho mê hoặc là chân thật? Nếu nói theo nhân duyên, nghĩa là bậc Thánh ở nơi pháp mê hoặc, chẳng khởi cái nhận biết về tưởng điên đảo hoặc bất điên đảo. Nếu ở nơi pháp mê hoặc mà có ít phần tư tưởng thì chẳng phải Thánh trí, ví có chút tư tưởng tức là hý luận của phàm phu, chẳng phải sự tướng của Thánh trí. Phàm nói hữu vô là phàm phu vọng thuyết, chẳng phải Thánh ngôn thuyết. Kẻ mê hoặc nói điên đảo, bất điên đảo, đều thuộc vọng tưởng, y theo mê hoặc mà sinh khởi hai thứ chủng tánh, ấy là Thánh chủng tánh và phàm phu chủng tánh.

Thánh chủng tánh: Chia làm ba loại: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Phật thừa. Nếu phàm phu vọng tưởng thì sinh Thanh văn thừa chủng tánh, vì chấp trước tự tướng cộng tướng, nên gọi là do vọng tưởng sinh khởi Thanh văn thừa chủng tánh. Đại Tuệ! Theo vọng tưởng mê hoặc kia mà sinh khởi Duyên giác thừa chủng tánh, nghĩa là ngay nơi mê hoặc tự tướng cộng tướng kia chẳng tự chấp trước mà khởi Duyên giác thừa chủng tánh. Vì sao người trí cũng theo sự mê hoặc kia mà khởi Phật thừa chủng tánh? Vì giác ngộ được tự tâm hiện lượng ngoài tánh phi tánh, chẳng có tướng vọng tưởng, nên sinh khởi Phật thừa chủng tánh, ấy gọi là ngay nơi mê hoặc kia mà khởi Phật thừa chủng tánh.

Lại nữa, đối với mỗi mỗi sự và tánh, phàm phu khởi vọng tưởng thì sinh phàm phu chủng tánh, nghĩa là chủng tánh chẳng phải hữu sự, cũng chẳng phải vô sự. Đại Tuệ! Ngay sự mê hoặc chẳng vọng tưởng kia, những tâm, ý, ý thức, lỗi tập khí, pháp tự tánh, pháp chuyển biến… của bậc Thánh đều gọi là Như, cho nên nói Như lìa tâm. Ta nói câu này là hiển thị lìa tưởng, tức là cái thuyết lìa tất cả tư tưởng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Mê hoặc là hữu hay vô?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Pháp như huyễn chẳng có tướng chấp trước. Nếu mê hoặc có tướng chấp trước thì tánh chấp trước chẳng thể diệt. Pháp duyên khởi của ta thuyết, ắt đồng như pháp nhân duyên sinh của ngoại đạo.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu mê hoặc như huyễn thì phải làm nhân cho mê hoặc khác?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải nhân duyên mê hoặc nên chẳng có lỗi. Đại Tuệ! Huyễn chẳng sinh lỗi, vì chẳng có vọng tưởng. Huyễn từ chỗ sáng kia sinh khởi, chẳng từ chỗ lỗi tập khí vọng tưởng của chính mình sinh khởi, cho nên chẳng có lỗi. Ấy là do tâm mê hoặc của phàm phu chấp trước, chẳng phải Thánh hiền.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Thánh chẳng thấy mê hoặc
Trong đó cũng chẳng thật
Trong đó nếu chân thật
Mê hoặc tức chân thật.
Xa lìa tất cả mê
Nếu còn có tướng sinh
Ấy cũng là mê hoặc
Bất tịnh như nhặm mắt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đã nói mê hoặc tức chân thật, thì như huyễn tức phi huyễn, phi huyễn tức như huyễn. Chân thể của phi huyễn chẳng có tương tự, nay nói phi huyễn, chẳng phải không thấy tất cả pháp là như huyễn.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì chấp trước đủ thứ tướng huyễn nên nói tất cả pháp như huyễn chăng? Hoặc vì chấp trước đủ thứ tướng phi huyễn mà nói tất cả pháp như huyễn chăng? Bạch Thế Tôn! Nếu như huyễn và phi huyễn có tánh khác biệt, ắt phải có tánh chẳng như huyễn. Vì sao? Vì mỗi mỗi sắc tướng chẳng có nhân. Bạch Thế Tôn! Nếu mỗi mỗi sắc tướng chẳng có nhân mà hiện tướng như huyễn, thì chẳng có đủ thứ tướng huyễn để chấp trước, cho có tánh tương tự là như huyễn.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải đủ thứ tướng huyễn chấp trước tương tự, nói tất cả pháp như huyễn. Vì tất cả pháp chẳng thật, chóng diệt như ánh chớp, ấy là như huyễn. Ví như điện chớp hiện trong sát-na, mới hiện liền diệt. Tất cả tánh như thế, đều chẳng thuộc nơi hữu và vô, chỉ do tự tâm vọng tưởng chấp có tự tướng cộng tướng, nếu quan sát tất cả pháp vô tánh, thì chẳng phải sự hiện sắc tướng chấp trước của phàm phu.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Phi huyễn chẳng thể dụ
Thuyết pháp tánh như huyễn
Chẳng thật như điện chớp
Cho nên nói như huyễn.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch thế Tôn! Như Thế Tôn thuyết giảng tất cả tánh vô sinh mà như huyễn, vậy chẳng phải pháp đã thuyết giảng của Thế Tôn trước sau tự trái nhau chăng? Sao nói vô sinh tánh như huyễn? Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải ta nói “Vô sinh tánh như huyễn” có lỗi trước sau trái nhau. Vì sao nói sinh mà vô sinh? Là dùng để giác ngộ hiện lượng của tự tâm, nói hữu phi hữu, ngoài tánh phi tánh, là phương tiện để hiện pháp vô sinh, chẳng phải chỗ thuyết giảng của ta có lỗi trước sau trái nhau, vì bác bỏ thuyết nhân sinh của ngoại đạo, nên ta thuyết tất cả tánh vô sinh. Đại Tuệ! Ngoại đạo si mê, muốn cho hữu và vô hữu đều thật, vì chẳng biết do tự tâm vọng tưởng chấp trước đủ thứ nhân duyên mà sinh.

Này Đại Tuệ! Ta dùng thuyết vô sinh để thuyết, vì phá chấp hữu và vô. Ta thuyết tánh âm thanh (thanh giáo), là vì đệ tử ta tạo đủ thứ nghiệp mà thâu nhận sinh tử và phá những người chấp vô kiến, đoạn kiến. Vì phàm phu rơi vào ác kiến hy vọng, chẳng biết tự tâm hiện lượng, vì khiến họ lìa các tướng tánh của tự tánh, nên thuyết tướng của các pháp như huyễn; vì phá tướng chấp trước do nhân duyên sinh khởi của họ, nên nói tất cả pháp tướng tự tánh như mộng huyễn, là khiến lìa bỏ chấp trước ác kiến hy vọng nơi tất cả pháp tự và tha, được thấy chỗ như thật, chẳng lập tà luận. Đại Tuệ! Chỗ thấy tất cả pháp như thật, là siêu việt tự tâm hiện lượng.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa ấy nên nói kệ:

Vô tác, tánh vô sinh
Chấp tánh thuộc sinh tử
Quan sát pháp như huyễn
Nơi tướng chẳng khởi vọng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khéo quán danh cú, thân hình. Vì Đại Bồ-tát khéo quán danh cú, thân hình, nên thuyết tướng danh cú, thân hình, theo đó vào nghĩa cú thân hình, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tự giác như thế rồi, lại giác ngộ cho tất cả chúng sinh. Đại Tuệ! Nói “Danh thân”, là y sự lập danh, gọi là danh thân; nói “Cú thân”, là trong cú có nghĩa thân, để quyết định nghĩa cứu cánh của tự tánh, gọi là Cú thân. Nói “Hình thân”, là hiển thị nghĩa của danh cú, gọi là Hình thân. Lại nữa, nói Hình thân, còn có nghĩa dài ngắn cao thấp; nói Cú thân, còn có nghĩa đường đi dấu vết, như đường đi dấu vết của voi, ngựa, người và thú… Nói danh và hình, là dùng danh để hiển bày bốn ấm vô sắc (thọ, tưởng, hành, thức) nên nói danh, vì hiện tự tướng nên nói hình, gọi chung là danh cú thân hình. Đối với biên vực của tướng danh cú thân hình, cần nên tu học.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Danh thân với cú thân
Và thân hình sai biệt
Phàm phu vọng chấp trước
Như voi mắc đầm lầy.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Người trí đời vị lai thông đạt nghĩa ta thuyết giảng, dùng nghĩa lìa kiến chấp tướng nhất, dị, đồng, chẳng đồng… hỏi người vô trí, thì họ đáp: “Sự hỏi này chẳng đúng. Nói các sắc tướng thường hay vô thường, khác hay chẳng khác, ấy là chư hạnh của Niết-bàn, lập tướng và đối tượng của tướng, y cứ vào đối tượng của y cứ, kiến và đối tượng của kiến, tạo và đối tượng của tạo, trần và vi trần, tu và kẻ tu… là tướng lần lượt so sánh.” Thật ra, những câu của người trí hỏi kể trên, là vô ký và chỉ hý luận của Phật thuyết, có nghĩa thâm sâu, người si mê như họ chẳng thể biết, vì họ không đủ trí tuệ nghe pháp. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, vì khiến họ lìa sự kinh sợ, nên nói pháp vô ký và chỉ ký, cũng vì phá luận nhị kiến của ngoại đạo, chứ chẳng phải không thuyết.

Này Đại Tuệ! Cái thuyết của ngoại đạo, nói mạng tức là thân, những lời nói như thế mới là vô ký luận. Những ngoại đạo ngu si, nơi nhân lập vô ký luận, chứ chẳng phải là chỗ thuyết giảng của ta. Chỗ thuyết giảng của ta lìa chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp, chẳng sinh vọng tưởng, chỉ đế phá những kiến chấp của họ. Vì họ chấp trước chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp, chẳng biết tự tâm hiện lượng, nên cầu phá sự chấp trước của họ. Đại Tuệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dùng bốn thứ ký luận vì chúng sinh thuyết pháp. Ta thường thuyết Chỉ ký luận, là vì người căn chưa thuần thục mà thuyết, chẳng phải vì người căn đã thuần thục mà thuyết.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả pháp lìa chỗ tạo tác của nhân duyên, nghĩa là vô sinh, vì chẳng có kẻ tác, nên tất cả pháp vô sinh. Vì sao tất cả pháp lìa tự tánh? Vì lúc tự khởi giác quán, thấy tướng của tự tánh cộng tánh đều không thể nắm giữ, nên nói tất cả pháp là vô sinh. Vì sao tất cả pháp chẳng thể đem lại, chẳng thể đem đi? Vì tự tướng cộng tướng là không thể nắm bắt, nên muốn đem lại không có gì để đem lại, muốn đem đi không có gì để đem đi, nên nói tất cả pháp lìa đem lại đem đi. Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp chẳng diệt? Vì chẳng có tánh tướng của tự tánh, thì tất cả pháp không thể nắm bắt, nên tất cả pháp chẳng diệt. Vì sao tất cả pháp vô thường? Vì tướng sinh khởi chẳng có tánh thường, nên nói tất cả pháp vô thường. Vì sao nói tất cả pháp là thường? Vì tánh vô sinh chẳng có tướng sinh khởi, nên vô thường là thường, nên nói tất cả pháp là thường.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ký luận có bốn thứ:
Nhất hướng, phản cật vấn.
Phân biệt và chỉ luận
Để đối trị ngoại đạo.
Hữu cùng phi hữu sinh
Sư Tăng-khư, Tỳ-xá.
Hiển thị như thế này
Tất cả đều vô ký.
Nếu chánh giác phân biệt
Tự tánh không nắm giữ.
Vì lìa nơi ngôn thuyết
Nên nói lìa tự tánh.

Khi ấy Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết bốn quả, bốn hướng của thừa Thanh văn về tướng thông nhau và sai biệt. Nếu Đại Bồ-tát khéo biết tướng thông và sai biệt của bốn quả, bốn hướng, thì có nhiều phương tiện vì chúng sinh thuyết pháp, khiến chúng sinh thông đạt rốt ráo, như hai thứ tướng vô ngã và trừ sạch hai thứ chướng là phiền não và sở tri, trải qua tướng các Địa, đến cảnh giới cứu cánh chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Giống như hạt châu ma-ni tùy sắc, khéo dùng tất cả pháp nơi cảnh giới vô tận của thân và tài để thâu nhận tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, nay ta vì ông thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có ba thứ Tu-đà-hoàn, quả Tu-đà-hoàn sai biệt. Thế nào là ba? Nghĩa là hạ, trung, thượng. Hạ là bảy đời sinh mới vào Niếtbàn; trung thì ba hoặc năm đời mới vào Niết-bàn; thượng thì ngay đời ấy liền vào Niết-bàn. Ba hạng này còn có ba kết hạ, trung, thượng, ấy là: Thân kiến, nghi kiến và giới thủ kiến, đó là ba kết sai biệt, dần dần tiến lên thì đắc quả A-la-hán.

Thân kiến có hai thứ: Là câu sinh (mới sinh đã sẵn có) và vọng tưởng, như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, là nương theo duyên khởi tự tánh thì các thứ vọng tưởng tự tánh chấp trước sinh khởi. Vì tướng vọng tưởng chẳng thật, phi hữu phi vô, cũng chẳng phải hữu và vô mà phàm phu vọng tưởng chấp trước mỗi mỗi tự tánh vọng tưởng, như con nai đang khát tưởng sóng nắng là nước, đó là thân kiến vọng tưởng của Tu-đà-hoàn. Bậc này tu theo nhân vô ngã, thâu nhận pháp vô tánh, dứt trừ vô tri chấp trước từ lâu đời.

Này Đại Tuệ! Câu sinh là thân kiến của Tu-đà-hoàn, chấp có tự thân tha thân… Vì có tướng bốn ấm vô sắc, có chủ thể tạo và đối tượng được tạo lần lượt làm nhân tướng mà sinh ra sắc. Vì đại chủng và sắc chẳng phải một, nên Tu-đà-hoàn quán pháp hữu và vô chẳng hiện thì thân kiến liền đoạn. Thân kiến đoạn thì tham dục chẳng sinh, ấy gọi là tướng thân kiến hết.

Này Đại Tuệ! Tướng nghi là tướng thấy được các pháp thiện (tức là đắc nhân vô ngã thì lý nghi dứt) và hai thứ vọng tưởng thân kiến ở trên đã dứt, thì pháp nghi chẳng sinh. Không ở nơi khác khởi kiến chấp nghi bậc sư là tịnh hay là bất tịnh thì nghi sư (thầy) dứt. Đến đây, nghi lý, nghi pháp, nghi sư đều hết, ấy gọi là tướng nghi của Tu-đà-hoàn đoạn dứt.

Này Đại Tuệ! Thế nào là giới thủ kiến? Tu-đà-hoàn chẳng thủ giới, vì thấy rõ tướng khổ nơi vị lai thọ sinh nên chẳng lấy. Đại Tuệ! Nói thủ, là sự quyết định thực tập khổ hạnh tinh tấn của phàm phu, cầu sinh cảnh giới vui thú của cõi trời. Bậc họ chẳng thủ, là hồi hướng chỗ tối thắng tự giác, vốn lìa vọng tưởng, tu pháp vô lậu, hành tướng phương tiện, dù chẳng thủ, nhưng cũng thọ trì giới chi (giới phần vô lậu), ấy gọi là đoạn dứt tướng giới thủ của Tu-đà-hoàn. Tuđà-hoàn đoạn dứt ba kết, tham si chẳng sinh, nếu Tu-đà-hoàn nghĩ như thế, nói “Ta chẳng thành tựu các kết này” ắt có hai lỗi: rơi vào thân kiến và các kết chẳng dứt.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật nói họ nhiều tham dục, vậy họ đoạn dứt tham dục gì?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Họ đoạn dứt những trói buộc như yêu thích người nữ, tham chấp đủ thứ phương tiện, tạo nghiệp ác nơi thân, khẩu, thọ sự vui trước mắt mà gieo khổ đời vị lai… tức chẳng sinh những tham dục kể trên. Vì sao? Vì họ đắc sự vui của Tam-muội chánh thọ, nên họ đoạn dứt tham dục thế gian mà chẳng phải đoạn dứt sự ham Niếtbàn.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng Tư-đà-hàm? Ấy là tức thì chiếu soi sắc tướng vọng tưởng, chẳng sinh tướng thấy tướng sinh. Vì khéo thấy được tướng thiền hành, nên vãng lai thế gian này một lần, mong dứt sạch khổ để đắc Niết-bàn, nên gọi là Tư-đà-hàm.

Này Đại Tuệ! Thế nào là A-na-hàm? Nghĩa là đoạn dứt sự sinh kiến chấp lỗi lầm của kết tập (tập khí phiền não), chẳng sinh vọng tưởng về sắc tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, tánh phi tánh, gọi là A-na-hàm.

Này Đại Tuệ! Nói A-la-hán, là do sức sáng suốt nơi Tam-muội giải thoát của các thiền, dứt sạch tất cả khổ, phiền não của vọng tưởng tánh phi tánh, nên gọi là A-la-hán.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật thuyết ba hạng A-la-hán, nói A-la-hán này là thuộc hạng nào? Vì đắc tịch tĩnh của đạo Nhất thừa, nên Đại Bồ-tát phương tiện thị hiện A-la-hán để giúp Phật giáo hóa.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đắc tịch tĩnh là đạo Nhất thừa của Thanh văn, chẳng phải thừa khác. Thừa khác là hành hạnh Bồ-tát, do phương tiện khéo léo của bản nguyện, nên ở nơi chúng sinh thị hiện thọ sinh và giúp Phật giáo hóa, cũng vì trang nghiêm cho quyến thuộc của Phật. Đại Tuệ! Ở nơi vọng tưởng thuyết đủ thứ pháp, nói đắc quả đắc thiền, thiền giả nhập thiền, thảy đều xa lìa, thị hiện chứng đắc tự tâm hiện lượng, đắc tướng quả, gọi là đắc quả. Lại nữa, này Đại Tuệ! Muốn siêu việt thiền của vô lượng Vô sắc giới, nên lìa tướng tự tâm hiện lượng. Nói chánh thọ, thọ tưởng, siêu việt tự tâm hiện lượng là chẳng đúng. Vì sao? Vì còn có tâm lượng.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Các thiền bốn vô lượng
Vô sắc Tam-ma-đề.
Tất cả thọ, tưởng diệt
Tâm lượng vốn không có.
Sơ quả và nhị quả
Tam quả A-na-hàm.
Tứ quả A-la-hán
Đều dứt tâm mê hoặc.
Thiền giả duyên thiền định
Đoạn chấp thấy chân đế
Dù vọng tưởng vô lượng
Giác ngộ liền giải thoát.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có hai thứ giác, là quan sát giác và tướng vọng tưởng thâu nhận chấp trước kiến lập giác. Nói quan sát giác là tướng tự tánh của giác tánh, nếu quan sát sự phân biệt, lìa bốn luận chứng không thể nắm giữ, ấy gọi là quan sát giác. Nói tứ cú (bốn luận chứng) là lìa nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường gọi là tứ cú. Lại nữa, lìa tứ cú này gọi là Nhất thiết pháp. Bốn luận chứng quan sát Nhất thiết pháp này cần nên tu học.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng vọng tưởng thâu nhận chấp trước kiến lập giác? Là nói tướng vọng tưởng thâu nhận chỗ chấp trước, tướng vọng tưởng chẳng thật, như địa, thủy, hỏa, phong; bốn đại chủng và tướng tông, nhân, thí dụ, giác ngộ được chỗ kiến lập chẳng thật mà chấp trước kiến lập, ấy gọi là tướng vọng tưởng thâu nhận chấp trước kiến lập giác.

Nếu Đại Bồ-tát thành tựu hai thứ giác tướng này, đến tướng cứu cánh của tướng nhân pháp vô ngã thì khéo biết phương tiện vô sở hữu giác, quan sát hành địa, chứng đắc Sơ địa, vào trăm Tam-muội chứng đắc Tam-muội sai biệt, thấy trăm Phật và trăm Bồ-tát, biết các việc trong trăm kiếp quá khứ và vị lai, ánh sáng tự tâm chiếu soi trăm cõi nước, biết tướng từng bậc của các Địa Bồ-tát. Đại nguyện thù thắng, thần lực tự tại, đến địa Pháp vân quán đảnh, sẽ chứng đắc địa Như Lai tự đắc, khéo dùng tâm thập vô tận cú để thành tựu cho chúng sinh, đủ thứ biến hóa quang minh trang nghiêm, đắc tự giác Tammuội Chánh thọ thánh lạc.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên khéo tạo sắc bốn đại chủng. Thế nào là Bồ-tát khéo tạo sắc bốn đại chủng? Đại Bồ-tát giác ngộ được chân đế thì bốn đại chủng chẳng sinh, ở nơi bốn đại chẳng sinh mà quan sát như thế, quan sát rồi giác ngộ được biên vực danh tướng của vọng tưởng, biên vực của tự tâm hiện và ngoài tánh phi tánh, gọi là tâm hiện vọng tưởng về biên vực. Quán ba cõi kia, tánh lìa tạo sắc của bốn đại chủng, thông đạt bốn luận chứng, lìa ngã, ngã sở, tự tướng như thật tướng và lìa trụ phần đoạn sinh tử, thành tựu tự tướng vô sinh.

Này Đại Tuệ! Bốn đại chủng kia làm sao sinh khởi tạo sắc? Là nói vọng tưởng thấm nhuần đại chủng, trước sinh nội, ngoại thủy giới, rồi cái chủ thể sinh của vọng tưởng đại chủng, sinh nội, ngoại hỏa giới. Vọng tưởng đại chủng phiêu động, sinh nội, ngoại phong giới, vọng tưởng đại chủng ngăn cách, sinh nội, ngoại địa giới. Do chấp sắc và hư không chấp trước theo lý tà thì có năm uẩn tập hợp, sự tạo sắc của bốn đại chủng do đó sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Nói thức ấm là do ham thích đủ thứ sự thích cảnh giới của sáu trần vướng mắc chẳng bỏ, nên phải tương tục thọ sinh nơi các loài khác. Địa, thủy, hỏa, phong bốn đại chủng ấy và sắc pháp được tạo… là do thức ấm duyên theo nghiệp mà sinh ra bốn đại, chẳng phải bốn đại tự làm duyên mà sinh ra thức ấm. Vì sao? Vì hình tướng tự tánh, chỗ được tạo tác chỉ là phương tiện vô tánh, nên đại chủng chẳng sinh. Hình tướng tự tánh là do chỗ được tạo tác phương tiện hòa hợp mà sinh, chẳng phải vô hình. Cho nên tướng bốn đại tạo sắc là vọng tưởng của ngoại đạo, chẳng phải thuyết của ta.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nay sẽ thuyết tướng tự tánh của các ấm.

Thế nào là tướng tự tánh của các ấm? Nói năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm phi sắc là thọ, tưởng, hành, thức. Nói sắc ấm, là bốn đại và tạo sắc mỗi mỗi có tướng riêng khác. Nói bốn ấm vô sắc chẳng phải vô sắc mà có bốn số (thọ, tưởng, hành, thức) như hư không. Ví như hư không siêu việt tướng số mà lìa nơi số, chẳng có số lượng mà vọng tưởng nói là một hư không. Như thế, bốn ấm vô sắc cũng siêu việt tướng số mà lìa nơi số, lìa tánh phi tánh, lìa bốn luận chứng. Nói tướng số là ngôn thuyết của phàm phu, chẳng phải là Thánh hiền.

Này Đại Tuệ! Bậc Thánh như huyễn, mỗi mỗi sắc tướng lìa sự dựng lập, khác hay chẳng khác, cũng như thân bóng mộng của sĩ phu, lìa khác và chẳng khác. Đại Tuệ! Nói Thánh trí đồng như tướng vọng tưởng của năm ấm hiện, gọi là tướng tự tánh của các ấm, ông nên diệt trừ. Diệt rồi thuyết pháp tịch tĩnh, dứt tất cả kiến chấp của những ngoại đạo nơi tất cả cõi Phật.

Này Đại Tuệ! Lúc nói tịch tĩnh, là thấy pháp vô ngã tịnh và vào địa Bất động (Địa thứ tám). Vào địa Bất động rồi, đắc vô lượng Tammuội tự tại và đắc ý sinh thân, đắc Tam-muội như huyễn, thông đạt sự cứu cánh sáng tỏ tự tại, cứu giúp tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, giống như đại địa nuôi dưỡng chúng sinh, Đại Bồ-tát phổ độ chúng sinh cũng như thế.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo có bốn thứ Niết-bàn. Thế nào là bốn?

  1. Tánh của tự tánh phi tánh Niết-bàn.
  2. Mỗi mỗi tướng của tự tánh phi tánh Niết-bàn.
  3. Tướng giác của tự tánh phi tánh Niết-bàn.
  4. Tương tục lưu chú của tự tướng cộng tướng nơi năm ấm đoạn dứt Niết-bàn.

Ấy gọi là bốn thứ Niết-bàn của các ngoại đạo, chẳng phải pháp của ta đã nêu giảng. Đại Tuệ! Pháp của ta thuyết giảng là các thức của vọng tưởng diệt, gọi là Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Há chẳng kiến lập thức thứ tám chăng?

Phật đáp:

–Kiến lập.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu kiến lập thì tại sao chỉ lìa thức thứ sáu mà chẳng lìa thức thứ bảy?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Vì lìa sự duyên dựa của thức thứ sáu thì thức thứ bảy chẳng sinh. Ý thức là phân biệt cảnh giới phần đoạn của tiền ngũ thức, đang lúc phân biệt, liền sinh khởi chấp trước, thì những tập khí nuôi dưỡng nơi tạng thức, khởi hiện hành huân tập chủng tử, do thức thứ bảy truyền vào ý thức, tức là cùng trong thức thứ tám. Chấp trước ngã và ngã sở thì nhân duyên tư duy sinh khởi, thân tướng chẳng hoại, tạng thức do ý thức duyên dựa thì cảnh giới của tự tâm hiện bày, tâm chấp trước liền sinh. Các thức lần lượt làm nhân với nhau, cũng như làn sóng biển, do ngọn gió của cảnh giới tự tâm hiện thổi, làn sóng các thức hoặc sinh hoặc diệt cũng như thế. Cho nên, ý thức diệt thì thức thứ bảy theo đó cũng diệt.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ta chẳng trụ Niết-bàn
Tướng năng tác, sở tác.
Tánh Niết-bàn ta thuyết
Lìa vọng tưởng Nhĩ diệm.
Do thức duyên dựa nhau
Thành đủ thứ thân hình.
Gốc nhân chính là tâm
Nơi nương tựa của thức.
Như dòng nước đã cạn
Thì làn sóng chẳng khởi.
Vậy ý thức diệt rồi
Thì các thức chẳng sinh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nay ta sẽ thuyết giảng tướng thông và phân biệt của vọng tưởng tự tánh. Nếu đối với tướng thông và phân biệt của vọng tưởng tự tánh mà khéo phân biệt, thì ông và các Đại Bồ-tát được lìa vọng tưởng, đến chỗ Thánh trí tự giác, chẳng còn vọng tưởng thì mỗi mỗi tướng và hành duyên khởi từ vọng tưởng tự tánh và chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp đều đoạn dứt, cũng là giác ngộ được kiến chấp về thần thông của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng thông, phân biệt của vọng tưởng tự tánh? Là gồm ngôn thuyết vọng tưởng, chỗ được thuyết sự vọng tưởng, lợi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, nhân vọng tưởng, kiến vọng tưởng, thành vọng tưởng, sinh vọng tưởng, bất sinh vọng tưởng, tương tục vọng tưởng, ràng buộc và chẳng ràng buộc, vọng tưởng, ấy gọi là tướng thông phân biệt của vọng tưởng tự tánh.

Này Đại Tuệ! Thế nào là ngôn thuyết vọng tưởng? Là chấp thật đủ thứ diệu âm ca nhạc, cho là vui thú, gọi là ngôn thuyết vọng tưởng.

Thế nào là chỗ được thuyết sự vọng tưởng? Là nói có chỗ được thuyết giảng của tự tánh, do Thánh trí hiểu biết, theo đó mà sinh ngôn thuyết vọng tưởng, gọi là chỗ được thuyết sự vọng tưởng.

Thế nào là tướng vọng tưởng? Là ngay nơi chỗ được thuyết kia, như nai đang khát, tưởng dợn nắng là nước, mỗi mỗi chẳng thật mà chấp thật, nói tướng của bốn đại, tất cả tánh đều thuộc vọng tưởng, gọi là tướng vọng tưởng.

Thế nào là lợi vọng tưởng? Nói ham thích đủ thứ vàng bạc châu báu, gọi là lợi vọng tưởng.

Thế nào là tự tánh vọng tưởng? Nói tự tánh có sự thật chấp trì như thế, chẳng khác với vọng tưởng ác kiến, gọi là tự tánh vọng tưởng.

Thế nào là nhân vọng tưởng? Nói hoặc nhân hoặc duyên để phân biệt hữu và vô thì tướng nhân sinh khởi, gọi là nhân vọng tưởng.

Thế nào là kiến vọng tưởng? Là đối với nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, những vọng tưởng ác kiến của ngoại đạo, khởi vọng tưởng chấp trước, gọi là kiến vọng tưởng.

Thế nào là thành vọng tưởng? Là đối với tư tưởng ngã và ngã sở, lập thành luận quyết định, gọi là thành vọng tưởng.

Thế nào là sinh vọng tưởng? Nói duyên theo tánh hữu và vô, sinh khởi chấp trước, gọi là sinh vọng tưởng.

Thế nào là bất sinh vọng tưởng? Là nói tất cả tánh vốn vô sinh vô chủng, do nhân duyên sinh cái thân vô nhân (chẳng có cái nhân bắt đầu), gọi là bất sinh vọng tưởng.

Thế nào là tương tục vọng tưởng? Là nói vật này vật kia liên hệ lẫn nhau, như kim và chỉ liền nhau mới có thể may vá, gọi là tương tục vọng tưởng.

Thế nào là phược bất phược vọng tưởng? Nói ràng buộc và chẳng ràng buộc là do nhân duyên chấp trước, như phương tiện của sĩ phu hoặc trói hoặc mở trói, gọi là phước bất phược vọng tưởng.

Này Đại Tuệ! Nơi tướng thông và phân biệt của vọng tưởng tự tánh này, tất cả phàm phu chấp trước cho là hữu và vô. Do duyên khởi mà chấp trước mỗi mỗi vọng tưởng của tự tánh chấp trước, hiện ra đủ thứ thân hình như huyễn, phàm phu vọng tưởng, thấy mỗi thứ huyễn tướng khác nhau. Mỗi thứ tướng huyễn chẳng phải khác, cũng chẳng phải không khác. Nếu nói “khác” thì huyễn chẳng phải nhân của mỗi thứ kia; nếu nói “chẳng khác” thì huyễn và mỗi thứ kia chẳng sai biệt mà lại thấy sai biệt. Do đó, nói chẳng phải khác cũng chẳng phải không khác. Cho nên, này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồtát, đối với vọng tưởng tự tánh, duyên khởi tướng như huyễn, khác hay chẳng khác, hữu hay vô, chớ nên chấp trước.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Trói tâm nơi cảnh giới
Trí giác tưởng chuyển theo.
Thắng giải không chốn trụ
Trí tuệ bình đẳng sinh.
Vọng tưởng thì tánh hữu
Nơi duyên khơi thì vô.
Vọng tưởng và thâu nhận
Phi vọng tưởng duyên khởi.
Mỗi mỗi phân biệt sinh
Như huyễn lại chẳng thành.
Dù hiện đủ thứ tướng
Vọng tưởng cũng chẳng thành.
Chấp trước là lỗi lầm
Đều do tâm trói sinh.
Vọng tưởng vốn vô tri
Nơi duyên khởi vọng tưởng.
Tánh các vọng tưởng ấy
Tức là duyên khởi kia.
Vọng tưởng có đủ thứ
Nơi duyên khởi vọng tưởng.
Tục đế Đệ nhất nghĩa
Ngoại đạo chấp thành ba.
Cho là vô nhân sinh
Dứt vọng tưởng tục đế
Là cảnh giới bậc Thánh.
Ví như sự tu hành
Hư không hiện nhiều mây.
Hư không vốn chẳng mây.
Lại hiện mây như thế.
Tâm cũng như hư không
Vọng tưởng hiện nhiều sắc.
Do duyên khởi mà hiện
Chẳng phải sắc phi sắc.
Ví như luyện vàng ròng
Lọc bỏ các tạp chất
Vàng thật liền hiện ra
Vọng tưởng sạch cũng vậy.
Tự tánh chẳng vọng tưởng
Vì duyên khởi thành có
Kiến lập và phủ định
Thảy đều do vọng tưởng.
Vọng tưởng nếu vô tánh
Mà có tánh duyên khởi.
Vô tánh sinh hữu tánh
Nương nhau nơi vọng tưởng.
Mà thành tướng duyên khởi
Danh tướng thường theo nhau
Mà sinh các vọng tưởng
Vượt thoát các vọng tưởng
Rồi thành trí trong sạch
Gọi là Đệ nhất nghĩa
Duyên khởi có sáu thứ
Vọng tưởng có mười hai.
Tự giác và Nhĩ diệm
Vốn chẳng có sai biệt.
Năm pháp đều chân thật
Tự tánh có ba thứ.
Tu hành thấu nghĩa này
Chẳng ngoài nơi như như
Các tướng và duyên khởi
Đều gọi khởi vọng tưởng.
Các tướng vọng tưởng kia
Từ duyên khởi mà sinh.
Giác tuệ khéo quan sát
Không duyên không vọng tưởng.
Thành tựu tánh vô sinh
Thế nào giác vọng tưởng
Do tự giác vọng tưởng
Kiến lập hai tự tánh:
Là hiện cảnh vọng tưởng
Và cảnh giới bậc Thánh.
Vọng tưởng như tranh vẽ
Duyên khởi tức vọng tưởng.
Nếu nói khác vọng tưởng
Là luận của ngoại đạo.
Do nhị kiến hòa hợp
Sinh năng tưởng, sở tưởng.
Lìa hai năng, sở ấy
Thành trí tuệ bình đẳng.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng Thánh trí tự giác và Nhất thừa, khiến con và các Bồ-tát khéo tự giác, chẳng nhờ người khác mà thông đạt pháp Phật.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Theo chỗ nhận biết của bậc Thánh xưa là vọng tưởng vô tánh, từng đời truyền thọ nhau, nghĩa là Đại Bồ-tát tự ở nơi thanh tịnh quan sát tự giác, chẳng do người khác mà lìa được kiến chấp vọng tưởng. Dần dần tiến lên, vào quả vị Như Lai, ấy gọi là tướng Thánh trí tự giác.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng Nhất thừa? Ấy là giác ngộ được đạo Nhất thừa, ta nói là Nhất thừa. Thế nào là giác ngộ được đạo Nhất thừa? Là nói thâu nhiếp chỗ cần thâu nhiếp của vọng tưởng, chỗ như thật thì chẳng sinh vọng tưởng, gọi là Nhất thừa giác. Nói Nhất thừa giác, trừ Như Lai ra, chẳng phải hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác và vua Phạm thiên có thể biết rõ được, nên gọi là Nhất thừa.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao nói tam thừa mà chẳng nói Nhất thừa?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Vì tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác đối với pháp Niết-bàn chẳng thể tự chứng nên chẳng nói Nhất thừa. Do Như Lai muốn điều phục tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác truyền thọ pháp tịch tĩnh, bậc họ nhờ phương tiện mà đạt được giải thoát, chẳng phải do sức của chính mình chứng đắc, nên chẳng nói Nhất thừa.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đối với người chẳng dứt tập khí nơi nghiệp chướng phiền não, nên chẳng vì tất cả Thanh văn, Duyên giác mà giảng nói Nhất thừa. Đối với người chẳng dứt được pháp vô ngã, chẳng lìa phần đoạn sinh tử, nên nói Tam thừa. Nếu dứt được lỗi tập khí và giác ngộ được pháp vô ngã, thì tất cả lỗi tập khí phiền não chẳng sinh khởi, đối với sự phi tánh chấp trước ham thích mùi vị của Tam-muội, bậc Vô lậu đã giác ngộ được, giác ngộ rồi lại ra vào thế gian, dần dần từ bậc Vô lậu đến chỗ Bồ-đề viên mãn, sẽ chứng đắc Pháp thân tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Chư Thiên và Phạm chúng
Thừa Thanh văn, Duyên giác.
Chư Phật thừa Như Lai
Ta thuyết những thừa này.
Cho đến tâm thức chuyển
Các thừa chẳng cứu cánh.
Nếu tâm thức diệt sạch
Thì chẳng thừa, vô thừa.
Chẳng có “thừa” kiến lập
Nên ta nói Nhất thừa.
Vì dẫn dắt chúng sinh
Phân biệt nói các thừa.
Giải thoát có ba thứ;
Nhân và pháp vô ngã.
Phiền não sở tri chướng
Xa lìa được giải thoát.
Như gỗ nổi mặt biển
Tùy làn sóng xoay chuyển.
Bậc Thanh văn cũng thế
Bị tướng gió thổi trôi.
Tu tập diệt phiền não
Còn tập khí sót lại.
Ham mùi vị Tam-muội
An trụ cõi vô lậu.
Chẳng đến chỗ cứu cánh
Cũng chẳng có lùi sụt.
Đắc các thân Tam-muội
Luống uổng qua nhiều kiếp.
Ví như người say rượu
Rượu tiêu rồi mới tỉnh.
Pháp giác ngộ cũng thế
Cuối cùng vẫn thành Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nay ta sẽ thuyết giảng về tướng thông phân biệt của ý sinh thân, người hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có ba thứ ý sinh thân. Thế nào là ba? Ấy là: Tam-muội lạc chánh thọ ý sinh thân, giác pháp tự tánh tánh ý sinh thân và chủng loại câu sinh vô hình tác ý sinh thân. Người tu hành thấu đạt về tướng ấy, từ Sơ địa dần dần tiến lên, thì được ba thứ thân này.

Này Đại Tuệ! Thế nào là ý sinh thân Tam-muội lạc chánh thọ? Ấy là Tam-muội lạc chánh thọ của Bồ-tát ở Địa thứ ba, Địa thứ tư và Địa thứ năm, an trụ nơi biển tâm, tự tâm tịch tĩnh, mỗi mỗi làn sóng của “thức tướng” chẳng sinh khởi, biết cảnh giới của tự tâm hiện tánh phi tánh, gọi là ý sinh thân Tam-muội lạc chánh thọ.

Này Đại Tuệ! Thế nào là ý sinh thân giác pháp tự tánh tánh? Là Bồ-tát ở Địa thứ tám quan sát các pháp như huyễn, đều chẳng có thì thân tâm chuyển biến, đắc Tam-muội như huyễn và nhiều môn Tammuội khác. Sức tướng vô lượng tự tại, ánh sáng như diệu hoa trang nghiêm, đều được như ý. Cũng như mộng huyễn, trăng đáy nước, bóng trong gương, phi chủ thể tạo, phi đối tượng được tạo, như tạo chỗ được tạo, tất cả sắc mỗi mỗi khác biệt đều đầy đủ trang nghiêm, do đại chúng trong tất cả cõi Phật đều thông đạt pháp tự tánh, nên gọi là ý sinh thân giác pháp tự tánh tánh.

Này Đại Tuệ! Thế nào là ý sinh thân chủng loại câu sinh vô hình tác? Là nói giác ngộ được tất cả pháp Phật, theo duyên đó tự đắc tướng hành, ấy gọi là ý sinh thân chủng loại câu sinh vô hình tác. Đại Tuệ! Đối với sự quan sát nhận biết rõ nơi ba thứ thân tướng này, cần nên tu học.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Phi thừa phi Đại thừa
Phi thuyết phi văn tự
Phi đế phi giải thoát
Phi cảnh giới hữu vô.
Pháp Đại thừa chứng đạt
Tam-ma-đề tự tại
Mỗi mỗi ý sinh thân
Hoa trang nghiêm tự tại.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói: “Thiện nam, tín nữ tạo năm tội Vô gián mà chẳng đọa địa ngục A-tỳ.” Bạch Thế Tôn! Tại sao thiện nam, tín nữ tạo năm tội Vô gián mà chẳng đọa vào địa ngục Atỳ?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Thế nào là năm tội Vô gián? Ấy là giết cha mẹ, hại La-hán, phá hòa hợp Tăng, tâm ác làm thân Phật ra máu.

Này Đại Tuệ! Nói giết cha mẹ ở đây, là ám chỉ hai thứ căn bản của sự thọ sinh, do tham ái làm mẹ, vô minh làm cha, đoạn dứt hai thứ căn bản ấy, gọi là giết cha mẹ.

Thế nào là hại La-hán? Dụ như con chuột bị độc chết, thì những tai hại do con chuột gây ra đều chẳng sinh khởi nữa, cũng như các pháp phiền não tập khí đoạn dứt trọn vẹn, gọi là hại Lahán.

Thế nào là phá hòa hợp Tăng? Là nói các tướng tập khí phiền não khác nhau của năm ấm hòa hợp tích tụ, tất cả đều được đoạn dứt, gọi là phá hòa hợp Tăng.

Thế nào là tâm ác làm thân Phật ra máu? Vì chẳng biết bản thể của bảy thứ thức là do tự tâm biến hiện, chẳng ngoài tự tướng cộng tướng, nay dùng tâm ác (tâm mãnh liệt) của ba vô lậu giải thoát (Không, Vô tướng, Vô nguyện) để đoạn dứt bảy thứ thức nơi tự tánh Phật, gọi là tâm ác làm thân Phật ra máu. Nếu thiện nam, tín nữ hành những việc vô gián này, gọi là năm Vô gián, cũng gọi là đẳng vô gián.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có pháp ngoài năm tội Vô gián nay ta sẽ thuyết giảng, ông và các Đại Bồ-tát nghe nghĩa này rồi, nơi đời vị lai chẳng rơi vào chốn ngu si.

Thế nào là ngoài năm tội vô gián? Nghĩa là nếu người muốn chứng được pháp của năm tội Vô gián kể trên, mà thực hành theo ba cửa giải thoát (Không, Vô tướng, Vô nguyện trong kinh Đại Bát-nhã) thì mỗi mỗi đều chẳng thể chứng được pháp của năm tội vô gián, như dùng cửa Không cũng chẳng thể chứng được, dùng cửa Vô tướng cũng chẳng thể chứng được, dùng cửa Vô nguyện cũng chẳng thể chứng được, nên nói ở ngoài năm tội vô gián.

Ngoài trừ pháp này ra, còn có các pháp, nhờ thần lực biến hóa mà hiện ra vô gián. Như thần lực biến hóa của Thanh văn, thần lực biến hóa của Bồ-tát, thần lực biến hóa của Như Lai… Đối với những những kẻ tạo tội vô gián, vì sự sám hối tội lỗi và trừ nghi cho họ, cũng vì khuyến phát nhân lành cho họ, nên nhờ thần lực biến hóa mà hiện vô gián. Trừ khi người giác ngộ được tự tâm hiện lượng, lìa được vọng tưởng thân tài, lìa sự thâu nhận về ngã và ngã sở, hoặc lúc gặp tri thức thiện khiến khai ngộ bản tâm thì mới được giải thoát sự sinh tử tương tục nơi các cõi, chứ chẳng phải trước kia đã tạo tội vô gián mà chẳng bị đọa vào địa ngục Vô gián.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tham ái gọi là mẹ
Vô minh gọi là cha.
Thức giác ngộ là Phật
Các sử là La-hán.
Năm ấm gọi là Tăng
Hành vô gián đoạn ác.
Gọi là năm vô gián
Chẳng đọa ngục A-tỳ.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng giảng thuyết thế nào là tri giác của Phật?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Giác ngộ được nhân và pháp vô ngã, thấu rõ hai chướng phiền não và sở tri, lìa phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử, đoạn dứt hai thứ phiền não vô minh và ái nghiệp, ấy gọi là tri giác của Phật. Thanh văn, Duyên giác chứng đắc được pháp này, cũng gọi là Phật, do nhân duyên ấy nên ta nói Nhất thừa.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Khéo biết hai vô ngã
Hai chướng phiền não dứt.
Lìa hẳn hai sinh tử
Gọi là tri giác Phật.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn nơi đại chúng nói: “Ta là tất cả Phật quá khứ và có đủ thứ thọ sinh. Xưa kia ta làm Chuyển luân thánh vương Mạn-đà, voi lớn sáu ngà và chim anh vũ, Thích Đề-hoàn Nhân, Tiên nhân Thiện Nhãn… thuyết giảng trăm ngàn quyển kinh Thọ Sinh như thế?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Do bốn thứ bình đẳng nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, nơi đại chúng nói lời thế này: “Khi ấy ta làm Phật Câu-lưu-tôn,

Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp.”

Thế nào là bốn thứ bình đẳng? Ấy là tự đẳng, ngữ đẳng, pháp đẳng và thân đẳng. Vì bốn thứ bình đẳng này, nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong chúng nói lời như thế.

Thế nào là tự đẳng? Là danh tự xưng ta là Phật, cũng xưng tất cả chư Phật, mà tự tánh của danh tự chẳng có sai biệt, ấy gọi là tự đẳng.

Thế nào là ngữ đẳng? Ta dùng sáu mươi bốn thứ Phạm âm hiển bày tướng ngôn ngữ, các Bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng dùng sáu mươi bốn thứ Phạm âm hiển bày tướng ngôn ngữ như thế, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng có sai biệt. Tánh của Phạm âm vi diệu như chim Ca-lăng-tần-già, gọi là ngữ đẳng.

Thế nào là thân đẳng? Nói thân ta với Pháp thân của chư Phật, sắc thân và tướng tốt chẳng có sai biệt, trừ khi vì điều phục các loại chúng sinh sai biệt, mới thị hiện mỗi mỗi sắc thân sai biệt, ấy gọi là thân đẳng.

Thế nào là pháp đẳng? Nói ta và chư Phật đều dùng pháp Bồ-đề phần gồm ba mươi bảy phẩm, lược thuyết trí vô chướng ngại của Phật pháp, gọi là pháp đẳng. Gọi chung là bốn thứ pháp bình đẳng. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong đại chúng nói lời như thế.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta
Dùng bốn pháp bình đẳng
Vì Phật tử thuyết pháp.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã thuyết giảng: “Ta từ đêm kia đắc tối Chánh giác, cho đến đêm kia nhập Niết-bàn, ở nơi khoảng giữa đó chẳng thuyết một chữ, cũng chẳng phải đã thuyết, chẳng phải sẽ thuyết, nói “chẳng thuyết là Phật thuyết. Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì sao nói “Chẳng thuyết tức là Phật thuyết?”

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta vì hai pháp nên nói như thế. Thế nào là hai pháp? Là pháp duyên tự đắc và pháp bản trụ, gọi là hai pháp. Do hai pháp này nên ta nói như thế.

Thế nào là pháp duyên tự đắc? Là pháp do chư Như Lai chứng đắc, ta cũng chứng đắc, chẳng thêm chẳng bớt. Cảnh giới cứu cánh của pháp duyên tự đắc lìa hai tướng ngôn thuyết và văn tự, chỉ có thể tự đắc tự biết, nên gọi là pháp duyên tự đắc.

Thế nào là pháp bản trụ? Là đạo pháp của bậc Thánh xưa như tánh vàng bạc chẳng hoại, thường trụ nơi pháp giới, vô thủy vô chung. Hoặc Như Lai ra đời, hoặc chẳng ra đời, đạo pháp vẫn thường trụ nơi pháp giới như thế, gọi là pháp bản trụ. Ví như sĩ phu đi trong đồng vắng, thấy con đường bằng phẳng hướng về thành cổ, liền đi theo đường đó vào thành, được thọ sự vui như ý. Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Con đường và mỗi mỗi sự vui kia là do người ấy làm ra chăng?

Đáp:

–Không! Bạch Thế Tôn!

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta và tất cả chư Phật quá khứ thường trụ nơi pháp giới cũng như thế. Nên nói: “Ta từ đêm kia đắc Tối chánh giác, cho đến đêm kia nhập Niết-bàn, ở nơi khoảng giữa chẳng thuyết một chữ, cũng chẳng phải đã thuyết, chẳng phải sẽ thuyết.”

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ta từ đêm thành đạo
Đến đêm nhập Niết-bàn.
Nơi khoảng chính giữa này
Chẳng thuyết một chữ nào.
Vì pháp duyên tự đắc
Và pháp bản trụ kia
Nên ta và chư Phật
Thuyết pháp chẳng sai biệt.

Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng hữu và vô của tất cả pháp, khiến con và các Đại Bồ-tát lìa tướng hữu và vô, mau đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ! Ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Người thế gian nương theo hữu và vô, rơi vào hai thứ dục kiến và tánh phi tánh, nếu chẳng lìa tướng dục kiến thì chẳng thể lìa sinh tử. Đại Tuệ! Tại sao người thế gian nương theo hữu? Là nói thế gian do nhân duyên sinh, chẳng phải không có từ hữu sinh, cũng chẳng phải vô sinh. Họ thuyết như thế là nói thế gian vô nhân mà có. Vì sao người thế gian nương theo vô? Vì họ thọ nhận tánh của tham, sân, si rồi, sau lại vọng tưởng chấp trước nơi tánh tham, sân, si là phi tánh, chẳng chấp lấy hữu, lại chấp lấy vô. Đại Tuệ! Nếu chẳng chấp lấy tánh hữu thì tánh tướng tịch tĩnh, nên chư Như Lai và Thanh văn, Duyên giác chẳng chấp lấy tánh tham, sân, si cho là hữu hay vô.

–Này Đại Tuệ! Trong đó có cái nào là hoại (đoạn diệt)?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu họ trước kia chấp lấy tánh của tham, sân, si rồi, về sau chẳng chấp lấy nữa, ấy gọi là hoại.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như ông hiểu. Đại Tuệ! Chẳng những tánh của tham, sân, si, phi tánh là hoại, đối với Thanh văn, Duyên giác và Phật, chẳng chấp lấy tham, sân, si cũng gọi là hoại. Vì sao? Vì trong ngoài là chẳng thể nắm giữ, nên tánh phiền não chẳng phải khác hay chẳng khác.

Này Đại Tuệ! Sự tham, sân, si hoặc trong hoặc ngoài đều không thể nắm giữ. Vì tánh của tham, sân, si chẳng có bản thể, nên chẳng thể chấp lấy, cho nên nói hoại, là hoại tánh tham, sân, si, chứ chẳng phải hoại Phật và Thanh văn, Duyên giác. Vì Phật và Thanh văn, Duyên giác tự tánh vốn đã giải thoát, chẳng có tánh làm nhân cho chủ thể trói buộc và đối tượng bị trói buộc. Đại Tuệ! Nếu có trói thì phải có nhân trói, nói hoại như thế là chẳng có tướng để hoại.

Này Đại Tuệ! Vì thế nên ta nói: “Thà chấp lấy ngã kiến như núi Tu-di, chứ đừng khởi kiến chấp “Không” cho là vô sở hữu, thành kẻ tăng thượng mạn.” Đại Tuệ! Kẻ tăng thượng mạn chấp trước về vô sở hữu, ấy gọi là hoại. Vì họ chẳng biết tự tâm hiện lượng, thấy ngoài tánh vô thường, sát-na lần lượt biến hoại, ấm, giới, nhập tương tục lưu chú biến diệt, nên rơi vào kiến chấp hy vọng tự tướng cộng tướng, lìa tướng vọng tướng văn tự, chấp trước đoạn diệt, ấy gọi là hoại.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tâm thấy hữu hoặc vô
Là cảnh giới nhị biên.
Trừ sạch cảnh giới ấy
Tâm bình đẳng tịch diệt.
Tâm chẳng chấp cảnh giới
Hữu diệt chẳng phải vô.
Hữu vô đều như như
Là cảnh giới Thánh hiền.
Vô chủng mà sinh hữu
Sinh rồi hữu lại diệt.
Nhân duyên hữu và vô
Chẳng trụ giáo pháp ta.
Phi ngoại đạo phi Phật
Phi ta cũng phi khác.
Do nhân duyên sinh khởi
Tại sao có thể vô!
Nhân duyên hợp nói hữu
Nhân duyên tan nói vô.
Sinh kiến chấp tà luận
Vọng tưởng chấp hữu vô.
Nếu biết pháp vô sinh
Cũng là pháp vô diệt.
Quán pháp không tịch này
Hữu vô thảy đều lìa.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì con và các Đại Bồ-tát thuyết tướng tông thông, khiến con và các Đại Bồ-tát thông đạt tướng này, rồi khéo phân biệt tướng tông thông, chẳng theo giác tưởng của chúng ma, ngoại đạo, chóng thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát có hai thứ tướng thông là tông thông và thuyết thông.

Này Đại Tuệ! Nói tông thông, là tướng duyên tự đắc thắng tiến, xa lìa vọng tưởng nơi ngôn thuyết và văn tự, tiến vào tự tướng địa tự giác của hàng vô lậu, xa lìa tất cả giác tưởng hư vọng, hàng phục tất cả chúng ma, ngoại đạo, phát huy ánh sáng của duyên tự giác, ấy là tướng tông thông.

Thế nào là tướng thuyết thông? Là nói mỗi mỗi giáo pháp trong chín bộ kinh, lìa những tướng khác hay chẳng khác, hữu và vô…, dùng phương tiện khéo léo tùy thuận căn tánh của chúng sinh mà ứng cơ thuyết pháp, khiến họ được độ thoát, gọi là tướng thuyết thông. Đại Tuệ! Đối với hai tướng thông này, ông và các Bồ-tát cần nên tu học.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tướng tông thông, thuyết thông
Duyên giáo pháp tự giác.
Khéo phân biệt chánh tà
Chẳng theo giác ngoại đạo.
Như phàm phu vọng tưởng
Chẳng có tánh chân thật.
Tại sao vọng chấp cho
Phi tánh là giải thoát?
Quan sát pháp hữu vi
Sinh và diệt tương tục.
Điên đảo Vô sở tri
Tăng trưởng theo nhị kiến.
Chân đế chỉ là một
Niết-bàn là không lỗi.
Quan sát việc thế gian
Như hoa đốm mộng huyễn.
Dù có tham, sân, si
Có cũng như mộng huyễn.
Ái dục sinh năm ấm
Thân người vốn chẳng thật.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng đã chẳng thật, do đâu mà sinh khởi? Pháp gì gọi là vọng tưởng chẳng thật? Ở trong pháp nào có vọng tưởng chẳng thật?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Ông khéo hỏi Như Lai những nghĩa như thế, là thương xót tất cả hàng trời, người ở thế gian, khiến họ được nhiều lợi ích và nhiều an lạc. Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Mỗi mỗi nghĩa lý là mỗi mỗi vọng tưởng chấp trước chẳng thật, do đó sinh khởi vọng tưởng. Đại Tuệ! Người chẳng biết tự tâm hiện lượng, rơi vào kiến chấp hữu và vô, chấp trước nơi chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp, tăng trưởng kiến chấp của ngoại đạo. Do tập khí vọng tưởng, chấp trước đủ thứ nghĩa lý của ngoại đạo, đối với pháp tâm, tâm số vọng tưởng chấp trước, cho là chỗ nhân duyên sinh khởi của ngã và ngã sở.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu mỗi mỗi nghĩa lý mỗi mỗi chẳng thật, do tập khí vọng tưởng, chấp trước những pháp tâm và tâm số mà sinh khởi kiến chấp về ngã và ngã sở. Nếu như thế thì mỗi mỗi tướng nghĩa của ngoại đạo, rơi vào tướng hữu và vô, lìa tướng thấy, lìa tánh phi tánh, thì Đệ nhất nghĩa cũng thế, lìa tướng nhân căn lượng thí dụ phân biệt. Bạch Thế Tôn! Tại sao chỉ có một chỗ nghĩa vọng tưởng chẳng thật của ngoại đạo thì mỗi mỗi tánh vọng tưởng chấp trước sinh, mà chấp trước chỗ Đệ nhất nghĩa thì vọng tưởng bất sinh? Nói một sinh (ngoại đạo), một bất sinh (Phật), lẽ nào chẳng phải Thế Tôn thuyết tà Nhân luận chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải vọng tưởng một sinh một bất sinh. Vì sao? Vì bậc Thánh vọng tưởng hữu vô bất sinh, nên ngoài hiện tánh phi tánh, do giác ngộ được tự tâm hiện lượng mà vọng tưởng bất sinh. Đại Tuệ! Ta nói mỗi tướng vọng tưởng tự tâm của phàm phu, vì trước kia đã tạo nghiệp chấp trước phân biệt, nên mỗi mỗi tánh tướng vọng tưởng sinh. Nay muốn khiến phàm phu ngộ pháp vốn vô sinh, phải lìa kiến chấp nơi ngã và ngã sở, lìa kiến chấp vọng tưởng về năm pháp tự tánh, thì thân tâm chuyển biến, thấu rõ cảnh giới địa Cứu cánh nhất thiết của Như Lai tự giác, do nhân duyên này nên ta nói vọng tưởng từ chấp trước mỗi nghĩa chẳng thật mà sinh. Nếu ngộ nghĩa như thật thì chẳng sinh, mà được giải thoát khỏi mỗi mỗi vọng tưởng của tự tâm.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Từ nhân duyên hữu vô
Mà sinh khởi thế gian.
Vọng tưởng chấp tứ cú
Chẳng rõ thuyết thông ta.
Thế gian chẳng hữu sinh
Cũng chẳng phải vô sinh.
Chẳng từ hữu, vô sinh
Cũng chẳng phi hữu vô.
Tại sao những phàm phu
Vọng tưởng chấp nhân duyên.
Tất cả pháp vô sinh
Do nhân duyên có sinh.
Phi hữu cũng phi vô
Cũng chẳng phải hữu, vô.
Quán thế gian như thế
Chuyển tâm đắc vô ngã.
Tất cả duyên sở tác
Sở tác chẳng tự có.
Việc chẳng tự sinh việc
Vì có lỗi hai việc.
Nếu chẳng lỗi hai việc
Thì chẳng tánh để đạt.
Quán các pháp hữu vi
Lìa năng duyên, sở duyên.
Tâm lượng của vô tâm
Ta nói là tâm lượng.
Nơi tư duy nói lượng
Nhân duyên thảy đều lìa.
Tự tánh vốn trong sạch
Ta gọi là tâm lượng.
Phương tiện lập tục đế
Bản lai chẳng sự thật.
Phương tiện lập năm ấm
Chẳng thật cũng như thế.
Có bốn thứ bình đẳng:
Tướng, vô tướng bình đẳng.
Sinh, vô sinh bình đẳng
Ngã, vô ngã bình đẳng.
Tu, sở tu bình đẳng
Vọng tưởng tập khí chuyển
Có mỗi mỗi tâm sinh.
Cảnh giới hiện bên ngoài
Là tâm lượng thế tục.
Ngoài hiện vốn chẳng có
Tâm lại thấy đủ thứ.
Do kiến lập thân, tài
Ta nói là tâm lượng.
Lìa tất cả kiến chấp
Năng tưởng và sở tưởng.
Vô đắc cũng vô sinh
Ta nói là tâm lượng.
Phi tánh chẳng phi tánh
Tánh phi tánh đều lìa.
Nơi tâm được giải thoát
Ta nói là tâm lượng.
Như như với hư không
Niết-bàn và pháp giới.
Mỗi mỗi ý sinh thân
Ta nói là tâm lượng.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã thuyết giảng, Đại Bồ-tát nên thấu rõ ngữ nghĩa. Thế nào là Bồ-tát khéo thấu ngữ nghĩa? Thế nào là ngữ? Thế nào là nghĩa?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe! Ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Thế nào là ngữ? Là nói nương theo cổ họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, hòa hợp vọng tưởng, sinh ra văn tự ngôn thuyết, do đó tập khí chấp trước sinh khởi, ấy gọi là ngữ.

Thế nào là nghĩa? Là nói lìa tất cả tướng vọng tưởng và ngôn thuyết mà hiển bày tánh nghĩa, ấy gọi là nghĩa. Đại Tuệ! Đại Bồ-tát ở nơi tĩnh lặng, dùng tuệ văn, tư, tu, quán theo nghĩa này thì được duyên tự thấu tỏ, hướng vào thành Niết-bàn, cho đến thân tập khí chuyển biến rồi thì chứng cảnh giới tự giác, khéo quán tướng nghĩa thắng tiến từ Sơ địa đến Thập địa, ấy gọi là Đại Bồ-tát khéo thông tướng nghĩa.

Lại nữa, nói Đại Bồ-tát khéo thông ngữ nghĩa, là quán ngữ và nghĩa chẳng phải khác, chẳng phải không khác; quán nghĩa và ngữ cũng như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng do ngữ mà hiểu nghĩa, thật thì do ngữ vào nghĩa, cũng như ngọn đèn chiếu soi mà hiện bày sắc tướng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tự tánh Niết-bàn là bất sinh bất diệt, Tam thừa, Nhất thừa, tâm và tự tánh vốn bình đẳng. Nếu duyên theo nghĩa ngôn thuyết chấp trước, thì rơi vào kiến chấp phủ nhận và kiến lập, cho có kiến lập khác biệt và vọng tưởng khác biệt, hiện mỗi mỗi vọng tưởng như huyễn. Ví như mỗi mỗi tướng huyễn, chúng sinh ngu si cho là vọng tưởng có khác biệt, chẳng phải Thánh hiền.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Theo vọng tưởng ngôn thuyết
Kiến lập nơi các pháp.
Do lỗi kiến lập ấy
Chết rồi đọa địa ngục.
Trong ấm chẳng có ngã
Ấm tức chẳng phải ngã.
Cũng chẳng phải vô ngã
Chẳng như vọng tưởng kia.
Chấp tất cả có tánh
Là vọng tưởng phàm phu.
Nếu như kiến chấp họ
Tất cả thành chân đế.
Tất cả pháp vô tánh
Dơ sạch thảy đều lìa.
Kiến chấp họ chẳng thật
Cũng chẳng phải đoạn diệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nay ta sẽ thuyết giảng về tướng trí thức, nếu ông và các Bồ-tát khéo phân biệt được tướng trí thức, tức là thông đạt tướng trí thức, sẽ chóng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại Tuệ! Có ba thứ trí là: Trí thế gian, trí xuất thế gian và trí xuất thế gian thượng thượng.

Thế nào là trí thế gian? Là nói tất cả phàm phu ngoại đạo chấp trước về hữu và vô. Thế nào là trí xuất thế gian? Là nói tất cả Thanh văn, Duyên giác do chấp trước hy vọng chứng quả Niết-bàn, rơi vào đối tượng được chứng đắc của tự tướng cho là cộng tướng. Thế nào là trí xuất thế gian thượng thượng? Ta nói chư Phật, Bồ-tát quán pháp vô sinh, thấy bất sinh bất diệt, lìa pháp hữu và vô, duyên vô sư trí, tự chứng đắc nhân, pháp vô ngã của quả vị Như Lai.

Này Đại Tuệ! Sinh diệt là thức, bất sinh bất diệt là trí. Lại nữa, rơi vào tướng vô tướng và đọa mỗi mỗi nhân tướng hữu và vô là thức, siêu việt tướng hữu vô là trí. Lại nữa, nuôi dưỡng tướng là thức, chẳng nuôi dưỡng tướng là trí. Lại nữa, có ba thứ trí: Là biết sinh diệt, biết tự, cộng tướng, biết bất sinh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là trí, mỗi mỗi cảnh giới tướng ngại là thức. Lại nữa, chấp ba sự hòa hợp sinh tướng phương tiện là thức, tướng tự tánh chẳng nhờ sự phương tiện là trí. Lại nữa, đắc tướng là thức, chẳng đắc tướng là trí. Vì cảnh giới Thánh trí tự giác chẳng xuất chẳng nhập, như bóng trăng trong nước, chẳng thể nắm bắt.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tích tụ nghiệp là thức
Chẳng tích tụ là trí.
Quan sát tất cả pháp
Thông đạt nghĩa vô sinh.
Khi đắc sức tự tại
Thì gọi là trí tuệ.
Tâm lìa cảnh giới trói
Trí giác tưởng liền khởi.
Cho đến tướng thắng diệu
Đại trí tuệ tự sinh.
Xa lìa tư duy tưởng
Tâm, ý và ý thức.
Bồ-tát Vô phân biệt
Thanh văn chẳng thể đến.
Tịch tĩnh thắng tiến nhẫn
Trí Như Lai trong sạch.
Khéo sinh thắng nghĩa đế
Sở hành thảy xa lìa.
Ta thuyết ba thứ trí
Nêu rõ tánh chân thật.
Nhị thừa có chứng đắc
Chấp trước nơi tự tánh.
Nơi tưởng tư duy kia
Thâu nhận tất cả tướng.
Thành Thanh văn, Duyên giác
Bậc trí lìa chư hữu
Siêu việt những tâm lượng
Là Như Lai thanh tịnh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ngoại đạo có chín thứ Chuyển biến luận sinh chuyển biến kiến chấp của ngoại đạo, ấy là: Hình xứ chuyển biến, tướng chuyển biến, nhân chuyển biến, thành chuyển biến, kiến chuyển biến, tánh chuyển biến, duyên phân minh chuyển biến, đối tượng tạo tác phân minh chuyển biến, Sự chuyển biến, gọi là chín thứ chuyển biến kiến chấp. Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo vì chấp hữu và vô, sinh khởi chuyển biến luận.

Thế nào là chuyển biến hình xứ? Là thấy nhiều hình xứ khác nhau, ví như vàng ròng chuyển biến thành các thứ đồ dùng thì có mỗi mỗi hình xứ hiển hiện, mà chẳng phải có tánh vàng chuyển biến. Tất cả chuyển biến cũng như thế. Hoặc có ngoại đạo tự sinh vọng tưởng như thế; từ vọng tưởng hình xứ chuyển biến cho đến sự chuyển biến, tất cả tánh của chín thứ chuyển biến như thế, chẳng phải như vọng tưởng, cũng chẳng phải khác với vọng tưởng. Nên biết chuyển biến vọng tưởng của ngoại đạo, cũng như tô lạc, rượu, trái cây… từ nhân ban sơ chuyển biến thành quả chín muồi, hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, ngoài tánh phi tánh, thật ra tự tâm chẳng có chuyển biến. Đại Tuệ! Chúng sinh ngu si như thế, tự sinh vọng tưởng tu tập, thấy pháp hữu vô hoặc sinh hoặc diệt, như thấy sắc tướng sinh nơi mộng huyễn.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Lúc hình xứ chuyển biến
Là bốn đại chuyển biến.
Trung ấm (thân) chẳng bốn đại
Cũng không ngoài hình xứ.
Chuyển biến thuộc vọng tưởng
Chẳng phải bậc minh trí.
Vậy duyên khởi thế gian
Như thành Càn-thát-bà.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết giảng nghĩa tương tục và giải thoát của tất cả pháp. Nếu khéo phân biệt tướng của tất cả pháp tương tục hay chẳng tương tục, sẽ khiến con và các Bồ-tát sẽ hiểu rõ về tất cả phương tiện khéo léo, chẳng rơi vào chỗ nghĩa được thuyết của ngoại đạo chấp trước tương tục. Đối với tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp, lìa vọng tưởng nơi ngôn thuyết, văn tự, dạo qua tất cả cõi Phật, trước vô lượng đại chúng hiện sức thần thông tự tại, Tổng trì pháp ấn, đủ thứ biến hóa, ánh sáng giác tuệ chiếu soi, khéo dùng mười cú vô tận, vô lượng phương tiện hạnh, cũng như nhật nguyệt, châu ma-ni và bốn đại, nơi tất cả Địa, lìa tự tướng vọng tưởng mà hiện. Thấy tất cả pháp như mộng huyễn, vào quả vị Phật nơi tất cả cõi chúng sinh, tùy cơ thích ứng mà thuyết pháp để dẫn dắt họ, khiến được an trụ nơi tự tâm, lìa pháp hữu vô và vọng tưởng sinh diệt, tất cả các pháp như mộng huyễn… Chuyển tướng nơi chỗ dựa thành thân tối thắng, khác với nghĩa ngôn thuyết của ngoại đạo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì người mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tất cả các pháp vô lượng, như nghĩa nơi chỗ được nêu giảng chấp trước tương tục của ngoại đạo, ấy là chấp trước tương tục về tướng, chấp trước tương tục nơi duyên, chấp trước tương tục về tánh phi tánh, chấp trước tương tục theo vọng tưởng sinh bất sinh, chấp trước tương tục theo vọng tưởng diệt bất diệt, chấp trước tương tục theo vọng tưởng thừa phi thừa, chấp trước tương tục theo vọng tưởng hữu vi, vô vi; chấp trước tương tục theo vọng tưởng địa địa tự tướng, chấp trước tương tục theo vọng tưởng tự vô gián, chấp trước tương tục theo vọng tưởng y pháp hữu vô của ngoại đạo, chấp trước tương tục theo vọng tưởng của Tam thừa, Nhất thừa vô gián.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đây là những chúng sinh ngu tối tự sinh vọng tưởng tương tục. Phàm phu vọng tưởng, đem những tương tục này, như con tằm nhả tơ làm kén, dùng tơ vọng tưởng tự trói và buộc trói người, tương tục chấp trước tướng có và không có.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Trong đó thật chẳng có tướng tương tục và bất tương tục. Nếu quán tất cả pháp tịch tĩnh thì vọng tưởng chẳng sinh, nên Đại Bồ-tát phải quán tất cả pháp tịch tĩnh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Giác ngộ được ngoài tánh phi tánh thì tướng tự tâm hiện lượng chẳng có, thuận theo sự quan sát tự tâm hiện lượng chẳng có thì tất cả tánh hữu và vô đều là vô tướng. Vì tương tục tịch tĩnh, nên nơi tất cả pháp chẳng có tướng tương tục và bất tương tục.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Trong đó chẳng có trói hay mở, cũng chẳng rơi vào tri kiến “không thật không như thật” cho là có trói có mở. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu và vô đều không thể nắm giữ. Nếu thấy có tất cả pháp để “Không” là chưa thể quên nơi pháp; thấy có tất cả chúng sinh để độ thì chưa thể quên nơi chúng sinh, dù nói mở trói, nhưng chưa lìa trói, chẳng thể gọi là cảnh giới chân như, thật tế.

Nếu giác ngộ như thật tế, đối với tất cả pháp chẳng thấy có tất cả pháp để “Không” tức là nơi pháp mà lìa pháp; độ tất cả chúng sinh mà chẳng thấy có tất cả chúng sinh để độ, tức là nơi chúng sinh mà lìa chúng sinh, vì tất cả pháp và tất cả chúng sinh đều không nắm giữ.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu có ba thứ tương tục (là nguồn gốc của mười một thứ tương tục kể trên) ấy là: Tham, sân, si, nghiệp ái và tham ái của kiếp sau. Từ tham, sân, si sinh ra nghiệp ái và tham ái kiếp sau, do ba thứ tương tục này, khiến chúng sinh luân hồi tương tục trong sáu đường. Đại Tuệ! Nếu “tương tục” đoạn dứt thì chẳng có tướng tương tục và bất tương tục.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Chấp trước ba duyên hòa hợp làm phương tiện thì sinh thức ấm tương tục chẳng ngừng, vì chấp trước nơi phương tiện nên có tương tục. Nếu ba duyên hòa hợp và thức ấm đoạn dứt thì thấy được ba giải thoát, tất cả tương tục đều chẳng sinh.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Vọng tưởng chẳng chân thật
Nói là tướng tương tục.
Nếu thấu tỏ chân thật
Thì lưới tương tục dứt.
Vì chúng sinh vô tri
Tùy ngôn thuyết thâu nhận.
Ví như con tằm kia
Nhả tơ để tự trói.
Vọng trói của phàm phu
Tương tục cũng như thế.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã thuyết giảng, vì chấp trước nơi mỗi mỗi nghĩa, mỗi mỗi vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sinh. Thế thì mỗi mỗi vọng tưởng phân biệt, mỗi mỗi các pháp vốn chẳng thật tánh, chỉ là hư vọng phân biệt mà thôi. Bạch Thế Tôn! Nếu chỉ có vọng tưởng tự tánh, chẳng phải có pháp tự tánh khác làm đối đãi mà khởi thì các pháp đều chẳng có tự tánh, há chẳng phải Thế Tôn nói: “Tập khí phiền não với thanh tịnh Niết-bàn thảy đều vô tánh chăng?” Nếu nhiễm tịnh đều hoại, há chẳng phải có cái lỗi cho các pháp là đoạn diệt chăng? Vì sao Thế Tôn nói tất cả pháp chỉ là tự tánh vọng tưởng, là phi tánh, chẳng có thật thể? Há chẳng phải thành kiến chấp đoạn diệt chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đúng thế! Đúng thế! Như ông đã nêu. Đại Tuệ! Như Thánh trí có tánh của tự tánh là: Thánh tri, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn, như thế, tánh của tự tánh tự tri, chẳng như tánh chấp của phàm phu, cho vọng tưởng tự tánh là chân thật. Cái vọng tưởng tự tánh này chẳng phải có tánh tướng của tự tánh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Giả sử bậc Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn tự tri, chẳng như Thiên nhãn và Nhục nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà nhận biết. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể kiến tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu lìa được vọng tưởng ấy? Chỉ có cảnh giới giác tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được vọng thức, xa lìa vọng tưởng phân biệt. Bạch Thế Tôn! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Vì sao? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.

Bạch Thế Tôn! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướng là cảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới nơi chính nẻo hành hóa của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới tự tướng là cảnh giới, do cảnh giới của phàm phu mà tự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhất là vô tướng, bản thể của vô tướng là pháp thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng tự tánh, cũng thấy có pháp thể nơi tự tánh, nơi tướng của tự tánh phân biệt pháp thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện tự tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là hữu, chẳng nói vô nhân mà gọi là vô, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì rơi vào kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh “chẳng rơi vào nơi hữu và vô” như thế này là chẳng rơi vào nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì rơi vào nơi hữu hoặc thấy cho là vô nhân thì rơi vào nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Vì sao? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể.

Bạch Thế Tôn! Do vọng tưởng tự tánh phân biệt, chẳng thể thấy được tánh tướng của tự tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng? Làm sao mà biết đúng như thật về vọng tưởng? Bạch Thế Tôn! Tướng vọng tưởng và tướng tự tánh có khác hay chẳng khác? Nếu nói tướng vọng tưởng và tướng tự tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng biết đúng như thật chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp? Nếu nói là chúng sinh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sinh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trước có cảnh giới của bậc Thánh, rơi vào nơi hữu kiến? Sao chẳng nói pháp không tịch tĩnh phi tánh, mà lại nói sự Thánh trí tự tánh?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải ta chẳng thuyết giảng pháp không phi tánh, cũng chẳng phải rơi vào nơi hữu kiến, nói sự Thánh trí tự tánh. Vì muốn khiến chúng sinh lìa sự kinh sợ, do chúng sinh từ vô thủy đến nay chấp trước tánh tướng của tự tánh và sự Thánh trí tự tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp không thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của tự tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp không như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh phi tánh do tự tâm hiện đắc ba giải thoát, đúng như pháp ấn thật tướng đã ấn chứng nơi tánh của tự tánh do tự giác quan sát, lìa tướng thấy hữu và vô.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát chẳng nên lập “Tất cả pháp bất sinh” làm tông. Vì sao? Vì tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sinh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói “Lập tông phải hoại” là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng vô sinh chẳng hoại, nên “Tất cả pháp chẳng thể lập tông thì hoại”. Đại Tuệ! Hữu và vô chẳng sinh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô không thể nắm bắt. Đại Tuệ! Giả sử tông kia chẳng sinh, đem “tất cả tánh chẳng sinh” mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sinh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận có rất nhiều lỗi (luận nhân minh nhập chánh lý ghi có ba mươi ba lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có chỗ tạo tác, do đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sinh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp không có tự tánh thì chẳng nên lập tông.

Này Đại Tuệ! Nhưng Đại Bồ-tát thuyết giảng tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Tuệ! Vì phàm phu rơi vào kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ, phải tùy cơ thuyết pháp, chớ khiến họ sinh tâm sợ hãi, xa lìa pháp Đại thừa.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Vô thuyết, vô tự tánh
Vô sự, vô tương tục.
Phàm phu vọng chấp thật
Như xác chết có giác.
Tất cả pháp bất sinh
Chẳng như tông ngoại đạo
Các pháp vốn vô sinh
Do nhân duyên thành tựu.
Tất cả pháp bất sinh
Bậc trí chẳng phân biệt
Việc do lập tông sinh
Kẻ giác phải diệt trừ.
Ví như bệnh nhặm mắt
Vọng thấy tướng hoa đốm.
Tánh chấp trước cũng thế
Do phàm phu vọng tưởng.
Phân biệt hiện ba cõi
Sự tự tánh chẳng có.
Mà lập sự tự tánh
Vì tư duy khởi vọng.
Tùy sự lập ngôn giáo
Vọng tưởng rất lăng xăng.
Phật tử hãy siêu thoát
Xa lìa các vọng tưởng.
Phi nước tưởng là nước
Do khát nước vọng sinh.
Phàm phu mê như thế
Bậc Thánh chẳng thấy vậy.
Bậc Thánh thấy trong sạch
Chánh định ba giải thoát.
Xa lìa nơi sinh diệt
Dạo đi cõi vô sinh.
Tu hành không chốn tu
Cũng chẳng tánh phi tánh.
Tánh phi tánh bình đẳng
Do đó sinh quả Thánh.
Thế nào tánh phi tánh?
Thế nào pháp bình đẳng?
Tâm tri tâm bất tri
Trong ngoài và động tịnh.
Nếu người được đoạn dứt
Ắt thấy tâm bình đẳng.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã thuyết giảng, trí tuệ quan sát tiền cảnh duyên dựa nơi các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, đối tượng được thâu nhận và chủ thể thâu nhận phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể thâu nhận cái thuyết “Phân biệt bất sinh”, ấy gọi là trí. Vậy cái tên trí này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào? Bạch Thế Tôn! Vì chẳng giác ngộ được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng trí chăng? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí chăng? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí chăng? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí chăng? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu do chẳng giác ngộ được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng trí, thì chẳng nên nói trí, nên nói vô trí, vì có sự “chẳng đắc” vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là vô trí, chẳng phải trí. Bạch Thế Tôn! Do có Nhĩ diệm (mẹ của trí) nên trí sinh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của Nhĩ diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí, vậy là vô trí, cũng chẳng phải trí, vì sự “có trí” không thủ đắc.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải nghĩa vô trí như ông nói mà cho là trí. Ta chẳng nói sự duyên dựa ẩn lấp như thế, trí tuệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác ngộ được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà “sự” chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên trí ở nơi Nhĩ diệm chẳng sinh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí thấu tỏ các tập khí hư dối tánh phi tánh từ vô thủy, cái tri này phàm phu ngoại đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với xứ sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước sự thâu nhận, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, chẳng biết tự tâm hiện lượng nơi trí Nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quan sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Chẳng trụ sự duyên dựa
Và trí tuệ quan sát
Vô trí tức chánh trí
Vọng cho là phi trí.
Nơi tánh tướng chẳng khác
Nếu chấp theo quan sát
Những chướng ngại xa gần
Ấy gọi là tà trí.
Do sáu căn chẳng đủ
Nói trí tuệ chẳng sinh.
Thật thì có Nhĩ diệm
Ấy cũng gọi tà trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chẳng khéo thấu tỏ, chấp tướng ngoài tánh tự tâm hiện, bị vọng tưởng tà ác hư dối từ vô thủy xoay chuyển. Lúc xoay chuyển thì chẳng thể đạt đến tự tông thông và thuyết thông, nên chấp cái thuyết phương tiện mà chẳng khéo phân biệt bốn luận chứng của tự tông thông và thuyết thông trong sạch.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đúng như Phật dạy! Cúi xin Thế Tôn vì chúng con phân biệt về thuyết thông và tông thông, khiến con và các Đại Bồ-tát thấu rõ hai thứ thông, cũng khiến cho các phàm phu, Thanh văn và Duyên giác đời vị lai chẳng mắc lỗi lầm.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ba đời chư Như Lai có hai thứ pháp thông, là thuyết thông và tự tông thông. Nói thuyết thông, là tùy sự thích ứng của tâm chúng sinh mà thuyết mỗi mỗi pháp ghi đủ trong khế kinh (khế lý, khế cơ), gọi là thuyết thông. Nói tự tông thông, là nói người tu hành lìa mỗi mỗi vọng tưởng do tự tâm hiện, chẳng rơi vào kiến chấp nhị biên nhất hay dị, đồng hay chẳng đồng, siêu thoát tất cả tâm, ý, ý thức. Đối với cảnh giới của Thánh trí tự giác, lìa kiến chấp nhân duyên và kiến chấp tương ưng do công hạnh tạo tác mà thành. Tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, người rơi vào nhị biên đều chẳng thể biết, ta gọi là pháp tự tông thông. Đại Tuệ! Tướng Tự tông thông và thuyết thông này, ông và các Đại Bồ-tát cần nên tu học.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ta nói hai thứ thông
Tông thông và thuyết thông.
Thuyết thông dạy sơ cơ
Tông thông là giải thoát.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn có khi nghĩ rằng: “Đối với mỗi mỗi lập luận của thế gian chớ nên gần gũi học tập. Nếu gần gũi học tập là thâu giữ tham dục, chẳng thâu nhận giáo pháp.” Vì sao Thế Tôn nói như thế?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Mỗi mỗi nghĩa cú nơi ngôn luận của thế gian theo nhân duyên tích tập, những nhân duyên thí dụ giống như trang nghiêm để dụ dẫn, dối gạt những phàm phu ngu si, chẳng thể vào tự thông chân thật, chẳng biết tất cả pháp vọng tưởng điên đảo. Phàm phu mê hoặc, rơi vào nơi tà kiến nhị biên, tự phá hoại chánh kiến chánh pháp, luân hồi sáu nẻo, chẳng thể giải thoát. Do vọng tưởng chấp trước, chẳng thể giác ngộ được tự tâm hiện lượng, chẳng lìa ngoài tánh của tự tánh. Do đó, mỗi mỗi lập luận của thế gian chẳng thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, dối gạt và mê hoặc.

Này Đại Tuệ! Xưa kia Thích Đề-hoàn Nhân rộng hiểu các luận, tự tạo thanh luận. Bọn Thế luận kia có một người đệ tử hiện hình tượng rồng, đến Thiên cung Đế Thích kiến lập tông chỉ Thế luận và hẹn nhau với Thích Đề-hoàn Nhân: “Nay ta cùng ngươi biện luận, nếu ta thắng thì ta sẽ hoại bánh xe ngàn căm của ngươi, nếu ngươi thắng thì sẽ chém đầu ta để tạ lỗi cho ngươi.” Hẹn xong bèn dùng thế pháp lật đổ Thanh luận của Đế Thích, liền phá hủy bánh xe rồi trở về thế gian. Đại Tuệ! Như con rồng là súc sinh cũng có thể dùng mỗi mỗi nghĩa cú, ngôn luận thế gian, nhân duyên thí dụ trang nghiêm để mê hoặc chư Thiên và A-tu-la, khiến vướng mắc vào kiến chấp sinh diệt, huống hồ là loài người chăng. Do đó, ngôn luận thế gian cần nên xa lìa, vì hay làm nhân sinh ra quả khổ, chớ nên gần gũi học tập.

Này Đại Tuệ! Bọn Thế luận chỉ nói cảnh giới của thân giác mà thôi. Đại Tuệ! Có trăm ngàn Thế luận kia, sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, sẽ phá hoại sự kết tập kinh điển, do giác ác họ thịnh hành nơi thế gian, có nhiều đệ tử ác ham thọ pháp họ. Đại Tuệ! Họ dùng đủ thứ nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm thuyết giảng việc ngoại đạo dùng Thế luận để phá hoại sự kết tập kinh điển, vì tự chấp nhân duyên, chẳng có tự thông. Đại Tuệ! Đám ngoại đạo kia chẳng có Tự thông luận, lập ra Thế luận, rộng thuyết giảng vô lượng trăm ngàn sự môn, chẳng thể tự thông, cũng chẳng tự biết là ngu si, chấp Thế luận là chân lý.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu ngoại đạo thuyết giảng mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm của Thế luận, do tự chấp trước, có tự thông, thì Thế Tôn cũng thuyết giảng thế luận vì mỗi mỗi Trời, Người và A-tu-la từ các phương đến tụ hội, Phật cũng rộng thuyết vô lượng nghĩa cú, há cũng chẳng phải không có tự thông chăng! Lẽ nào cũng lọt vào số ngôn thuyết trí tuệ của tất cả ngoại đạo sao?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta chẳng thuyết Thế luận, chẳng thuyết khứ lai, chỉ thuyết bất khứ bất lai. Đại Tuệ! Lai là tụ họp, khứ là tan rã, chẳng khứ chẳng lai là bất sinh bất diệt. Cái nghĩa của ta thuyết chẳng rơi vào nơi số vọng tưởng của Thế luận. Vì sao? Vì chẳng chấp trước ngoài tánh phi tánh, vọng tưởng nhị biên nơi tự tâm hiện chẳng thể xoay chuyển, là cảnh tướng phi tánh. Giác ngộ được tự tâm hiện thì vọng tưởng của tự tâm hiện chẳng sinh. Vọng tưởng chẳng sinh thì vào ba cửa giải thoát: Không, Vô tướng, Vô tác, gọi là giải thoát.

Này Đại Tuệ! Ta nhớ xưa kia cư trú tại một nơi có Bà-la-môn theo Thế luận đến chỗ ta ở, chẳng màng đến ta có rảnh hay không, bèn hỏi: “Cù-đàm! Tất cả pháp là được tạo tác chăng?” Ta đáp ngay: “Bà-la-môn! Nói tất cả pháp được tạo tác là thuộc về Thế luận thứ nhất.” Họ lại hỏi: “Tất cả pháp là không chỗ tạo tác chăng?” Ta cũng đáp: “Tất cả pháp phi chỗ tạo tác thuộc Thế luận thứ hai.” Họ hỏi tiếp: “Tất cả pháp thường chăng? Tất cả pháp vô thường chăng? Tất cả pháp sinh chăng? Tất cả pháp bất sinh chăng?” Ta liền đáp: “Ấy là Thế luận từ thứ ba đến thứ sáu.”

Này Đại Tuệ! Họ lại hỏi: “Tất cả pháp là nhất chăng? Tất cả pháp là dị chăng? Tất cả pháp đồng chăng? Tất cả pháp chẳng đồng chăng? Tất cả pháp do mỗi mỗi thọ sinh mà hiện chăng?” Ta trọn đáp: “Ấy là Thế luận từ thứ bảy đến thứ mười một.” Đại Tuệ! Họ lại hỏi: “Tất cả pháp là vô ký chăng? Tất cả pháp là ký chăng? Hữu ngã chăng? Vô ngã chăng? Có đời này chăng? Chẳng đời này chăng? Có đời khác chăng? Chẳng đời khác chăng? Có giải thoát chăng? Không giải thoát chăng? Tất cả là sát-na chăng? Tất cả chẳng là sát-na chăng? Là hư không chăng? Là chẳng phải số diệt chăng? Là Niếtbàn chăng? Là do Cù-đàm tác chăng? Chẳng phải tác chăng? Có thân trung ấm chăng? Chẳng thân trung ấm chăng?” Đại Tuệ! Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Những câu hỏi như thế đều là Thế luận của ngươi, chẳng phải là chỗ thuyết giảng của ta. Ta chỉ thuyết giảng mỗi mỗi nghiệp ác tập khí vọng tưởng hư dối từ vô thủy là nhân của ba cõi, những người chẳng thể biết rõ tự tâm hiện lượng mà sinh vọng tưởng duyên dựa ngoài tự tánh như pháp của ngoại đạo nói: “Do ngã và căn, cảnh ba duyên hòa hợp mà có cái biết sinh khởi.” Ta thì chẳng như thế. Bà-la-môn! Ta chẳng thuyết nhân, chẳng thuyết vô nhân, chỉ thuyết cái tánh vọng tưởng về chủ thể thâu nhiếp, đối tượng được thâu nhiếp giả lập pháp duyên khởi, chẳng phải ngươi và những người chấp ngã tương tục có thể biết được.” Đại Tuệ! Nói Niết-bàn, hư không và tịch diệt chẳng phải có ba thứ, chỉ là số lượng có ba mà thôi.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Khi ấy Bà-la-môn theo Thế luận lại hỏi ta: “Do si ái nghiệp làm nhân mà có ba cõi chăng? Hay vô minh là nhân chăng?” Ta đáp: “Hai thứ này cũng là Thế luận thôi”. Họ lại hỏi: “Tất cả pháp đều vào tự tướng cộng tướng chăng?” Ta lại đáp: “Đây cũng là Thế luận. Bà-la-môn! Nói tóm lại, từ những câu hỏi của ngươi cho đến dòng suối ý thức vọng chấp theo ngoại trần, tất cả đều là Thế luận.”

Lại nữa, này Đại Tuệ! Khi ấy Bà-la-môn theo Thế luận lại hỏi ta: “Mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm là tông chỉ của tất cả ngoại đạo, đều thuộc Thế luận, vậy còn có pháp nào chẳng phải là Thế luận?” Ta đáp: “Bà-la-môn! Có, mà chẳng phải ngươi có, phi tác phi tông, phi thuyết phi bất thuyết, phi bất nhân duyên thí dụ trang nghiêm.” Bà-la-môn hỏi: “Thế nào là phi Thế luận, phi phi tông chỉ phi phi thuyết?” Ta đáp: “Bà-la-môn! Có phi Thế luận mà ngoại đạo các ngươi chẳng thể biết, vì vọng tưởng chẳng thật, hư dối chấp trước nơi ngoài tánh. Nói vọng tưởng chẳng sinh, nếu giác ngộ về pháp hữu vô và tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sinh, chẳng nhiễm ngoại trần, dứt hẳn vọng tưởng, ấy gọi là phi Thế luận. Đây là pháp của ta, chẳng phải ngươi có.” Khi ấy, Bà-la-môn lại lược thuyết sự nhận thức của họ, hoặc khứ hoặc lai, hoặc sinh hoặc tử, hoặc vui hoặc khổ, hoặc chìm hoặc nổi, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc hòa hợp hoặc tương tục, hoặc ái hoặc nhân ái, chấp trước đủ thứ tướng. Ta nói: “Bà-la-môn! So đo như thế đều là Thế luận của các ngươi, chẳng phải ta có.” Đại Tuệ! Bà-la-môn Thế luận hỏi như thế, ta đáp như thế, họ liền im lặng chẳng từ giã mà lui ra, lại còn suy tư chỗ tự thông mà nghĩ: “Sa-môn Thích tử vượt ra ngoài tướng thông, nói vô sinh, vô tướng, vô nhân, giác ngộ được tướng hiện của tự vọng tưởng thì vọng tưởng chẳng sinh.” Đại Tuệ! Đây tức là chỗ ông hỏi ta: “Tại sao nói gần gũi học tập Thế luận đủ thứ biện luận, là thâu giữ tham dục, chẳng thâu nhận giáo pháp?” Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thâu giữ tham dục và pháp có nghĩa cú gì? Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Ông khéo vì chúng sinh đời vị lai mà tư duy nêu hỏi về nghĩa cú như thế. Ta sẽ vì ông mà thuyết giảng, hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đối với nghĩa tham, có thủ có xả, hoặc ham tiếp xúc hoặc ham mùi vị, vướng mắc ngoại trần, rơi vào nhị biên tà kiến, do đó luân hồi tương tục, lại sinh năm ấm, sinh, lão, bệnh, tử, lo buồn, khổ não, các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sinh khởi, đều do gần gũi nhiễm tập Thế luận, thành kẻ Thế luận. Ta và chư Phật nói là tham, ấy gọi là thâu nhận tham dục mà chẳng thâu nhận giáo pháp.

Này Đại Tuệ! Thế nào là thâu nhận pháp? Là khéo thấu rõ tự tâm hiện lượng, thấy tướng nhân vô ngã và pháp vô ngã thì vọng tưởng chẳng sinh, khéo biết từng bậc tiến lên các Địa của Bồ-tát, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật trí tuệ nhận pháp quán đảnh, thâu nhận trọn vẹn cú thập vô tận, nơi tất cả pháp cũng chẳng có mở mang tự tại, ấy gọi là pháp, nghĩa là chẳng rơi vào tất cả kiến chấp, tất cả hư dối, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh tướng, tất cả nhị biên…

Này Đại Tuệ! Có nhiều hạng si mê ngoại đạo rơi vào nơi nhị biên, hoặc thường hoặc đoạn, chẳng phải người có trí tuệ. Chấp thọ vô nhân luận thì sinh khởi thường kiến, chấp ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh thì sinh khởi đoạn kiến. Ta chẳng thấy sinh, trụ, diệt, nên nói là pháp. Đại Tuệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ông và các Đại Bồ-tát cần nên tu học.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tất cả luận thế gian
Là ngoại đạo vọng thuyết.
Vọng thấy tác, sở tác
Thuyết họ chẳng tự thông.
Duy nhất tự tông ta
Lìa nơi tác, sở tác.
Vì các đệ tử thuyết
Xa lìa những thế luận.
Tâm lượng chẳng thể thấy
Nhiếp, sở nhiếp phi tánh.
Chẳng quan sát hai tâm
Đoạn thường thảy đều lìa.
Ngoại đạo tâm lưu chuyển
Ta gọi là thế luận.
Người vọng tưởng chẳng chuyển
Người ấy thấy tự tâm.
Lai thì có sự sinh
Khứ thì sự chẳng hiện.
Thấu rõ việc khứ lai
Thì vọng tưởng chẳng khởi.
Hữu thường và vô thường
Năng tác và sở tác
Đời này hay đời sau
Đều là thế luận thông.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật nói Niết-bàn, pháp nào gọi là Niết-bàn? Mà các ngoại đạo đối với pháp Niết-bàn mỗi mỗi sinh khởi vọng tưởng khác nhau?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Như vọng tưởng Niết-bàn của các ngoại đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết-bàn. Hoặc có ngoại đạo diệt ấm, giới, nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sinh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ ấm hết như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sinh, nghĩ những cảnh giới này cho là Niết-bàn. Đại Tuệ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Hoặc có ngoại đạo cho “từ phương này đến phương kia” gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng ấm diệt cũng như gió ngưng. Hoặc thấy chủ thể giác ngộ, đối tượng được giác ngộ đoạn diệt, gọi là giải thoát; hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sinh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà thấy vô sinh, sinh tâm ưa thích, tưởng là Niết-bàn; hoặc có tưởng mà thấy vô sinh, sinh tâm ưa thích, tưởng là Niết-bàn; hoặc có ngoại đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng hoại, cho là Niết-bàn; hoặc đối với ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết-bàn; hoặc có ngoại đạo, trí tuệ bị ác kiến thiêu đốt, chấp có ngã kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánh và sĩ phu, giữa hai có chút ngăn cách, nói thần ngã của sĩ phu hay sinh tự tánh, vì do sĩ phu sinh ra, gọi là tự tánh, ví như minh sơ, Cầu-na là y theo thần ngã ban sơ sinh giác. Cầu-na dụ cho vi trần, cho Cầu-na là tác giả, nói từ vi trần sinh bốn đại, cũng như từ sĩ phu sinh tự tánh, rồi chấp có thần ngã, chấp cõi mười phương, cho là Niết-bàn.

Hoặc có ngoại đạo nói hết phước và phi phước, hoặc nói các phiền não chẳng do tu trí tuệ mà tự dứt, hoặc thấy cõi trời tự tại là kẻ chân thật tạo tác sinh tử, cho là Niết-bàn. Hoặc nói chúng sinh ở nơi này chết thọ sinh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến nay, vô nhân tự có, do đó chấp trước sinh tử chẳng có nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân, tưởng là Niết-bàn. Hoặc nói từ tự tánh sinh bốn đại, bốn đại sinh ý, ý sinh trí, trí sinh năm phần, năm phần sinh năm tri căn, năm tri căn sinh năm nghiệp căn, năm nghiệp căn sinh năm đại, gọi là hai mươi lăm minh đế của tự tánh, hay sinh các pháp rồi trở về tự tánh thì lìa tất cả sinh tử. Chấp minh đế này cho là đắc đạo chân đế, tưởng là Niết-bàn.

Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng chẳng đồng hòa hợp sinh khởi công đức (như vi trần sinh khởi thế giới, vi trần là chủ thể tạo tác, thế giới là đối tượng được tạo tác, tức là công đức), cho là Niết-bàn. Hoặc thấy vạn vật như cây gai ngọn, như sự lộng lẫy của con công và đủ thứ bảo vật, chẳng có kẻ tác, vô nhân tự có, cho là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Hoặc cho hai mươi lăm minh đế là chân thật và cho Lục Đức luận:

  1. Thật.
  2. Đức.
  3. Nghiệp.
  4. Bốn đại.
  5. Hòa hợp.
  6. Đồng dị.

Đó là nhân sinh ra các pháp, nói giữ được hai pháp này hộ trì quốc độ chúng sinh, khiến được an lạc tức là Niết-bàn. Hoặc cho thời gian là kẻ tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ biết như thế, tưởng là Niếtbàn. Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là tánh phi tánh, thấy có giác này với Niết-bàn sai biệt mà chẳng khác, tưởng là Niết-bàn. Đủ thứ vọng tưởng so đo chấp trước của ngoại đạo đã thuyết giảng nơi lý chẳng thành, bậc Trí nên bỏ những thuyết này.

Này Đại Tuệ! Niết-bàn vọng tưởng của ngoại đạo, tất cả đều rơi vào kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết-bàn. Mỗi mỗi Niết-bàn của ngoại đạo họ tự lập luận, bậc Trí tuệ quan sát vọng tưởng của họ, tâm ý khứ lai, trôi giạt lưu động, hoặc sinh hoặc diệt, lập như không chỗ lập, thật thì chẳng có kẻ đắc Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Pháp Niết-bàn của ta thuyết là khéo giác ngộ về tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi bốn luận chứng thấy chỗ như thật, chẳng rơi vào tự tâm hiện lượng và vọng tưởng nhị biên, chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp là không nắm giữ, tất cả đo lường chẳng thấy chỗ tạo thành, đối với vọng chấp chân thật của phàm phu chẳng nên thâu nhận. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Thánh trí tự giác, biết hai vô ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sinh tử, dần dần tiến lên các Địa, đến quả vị Như Lai, các Tam-muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết-bàn. Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát cần nên tu học, mau xa lìa tất cả kiến chấp về Niết-bàn của ngoại đạo.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Niết-bàn của ngoại đạo
Mỗi mỗi sinh vọng tưởng.
Vọng tưởng từ tâm khởi
Chẳng cách nào giải thoát.
Không dây mà tự trói
Xa lìa phương tiện khéo.
Dù tưởng là giải thoát
Thật chẳng thể giải thoát.
Tướng thông của ngoại đạo
Nhiều loại trí khác nhau.
Vì ngu si vọng tưởng
Giải thoát chẳng có phần.
Tất cả ngoại đạo kia
Vọng thấy tác, sở tác.
Chấp hữu, vô lập luận
Thảy đều chẳng giải thoát.
Phàm phu ham vọng tưởng
Chẳng nghe pháp chân thật.
Chân thật diệt nhân khổ
Ba cõi gồm ba khổ:
Khổ khổ, vui, hoại khổ
Hành khổ ba nẻo ác.
Ví như ảnh trong gương
Dù hiện mà chẳng thật.
Vọng tưởng nơi tâm gương
Phàm phu sinh nhị kiến.
Chẳng biết tâm và duyên
Sinh vọng tưởng nhị biên.
Rõ tâm và cảnh giới
Thì vọng tưởng chẳng sinh.
Tâm thể tức vạn pháp
Sự hiện mà chẳng hiện.
Xa lìa tướng, sở tướng
Như phàm phu phân biệt.
Vọng tưởng sinh ba cõi
Vọng hiện đủ thứ tướng.
Đều chẳng có nghĩa thật
Mà kẻ ngu chẳng biết.
Chư kinh nói vọng tưởng
Chẳng ra ngoài giả danh.
Nếu lìa nơi ngôn thuyết
Phật nói vô sở thuyết.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì chúng sinh mà giảng nói về Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, khiến con và các Đại Bồtát đối với tự tánh của Như Lai, khéo tự giác và giác tha.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Cho ông tùy ý hỏi, ta sẽ tùy sự hỏi ông mà thuyết giảng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là tác hay chẳng tác? Là sự chăng? Là nhân chăng? Là tướng chăng? Là sở tướng chăng? Là thuyết chăng? Là giác chăng? Là sở giác chăng? Những từ ngữ như thế là khác hay chẳng khác?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đối với những từ ngữ này phi sự cũng phi nhân. Vì sao? Vì đều có lỗi. Đại Tuệ! Nếu Như Lai là sự, hoặc tác hoặc vô thường; nếu nói vô thường thì tất cả sự đều là Như Lai, ta và chư Phật chẳng cho như thế. Nếu chẳng phải là chỗ được tạo tác, là không chỗ nắm giữ, pháp phương tiện thành không, đồng như sừng thỏ, như con của Thạch nữ, vì chẳng có gì cả. Đại Tuệ! Nếu vô sự, vô nhân thì phi hữu phi vô. Nếu phi hữu phi vô thì lọt vào bốn luận chứng; bốn luận chứng là ngôn thuyết của thế gian, nếu lìa bốn luận chứng thì chẳng rơi vào bốn luận chứng, vì chẳng rơi vào đấy là chứng đắc của bậc Trí, nghĩa cú của tất cả Như Lai cũng như thế. Đại Tuệ! Nên biết, như ta đã thuyết giảng tất cả pháp vô ngã. Nếu biết nghĩa vô ngã là tánh vô ngã. Tất cả pháp có tự tánh, chẳng tha tánh như trâu ngựa. Đại Tuệ! Ví như con trâu chẳng có tánh ngựa, con ngựa chẳng có tánh trâu. Kỳ thật phi hữu phi vô, nghĩa ấy chẳng phải không có tự tánh. Như thế, này Đại Tuệ! Tất cả các pháp chẳng phải không có tự tướng, có tự tướng nhưng vô ngã, chẳng phải phàm phu dùng vọng tưởng có thể biết. Nói tất cả pháp không, vô sinh, vô tự tánh, nên biết nghĩa như trên.

Như Lai nói năm ấm chẳng phải khác chẳng phải không khác. Nếu chẳng khác tức là vô thường, nếu khác thì phương tiện thành không. Nếu cho là hai thì phải có khác, như sừng trâu, mỗi mỗi tương tự nên chẳng khác; có dài ngắn sai biệt nên có khác, tất cả pháp cũng như thế. Đại Tuệ! Như sừng trâu bên phải khác với sừng trâu bên trái, sừng bên trái khác với sừng bên phải, đủ thứ sắc tướng dài, ngắn mỗi mỗi khác nhau cũng như thế. Đại Tuệ! Như Lai nói ấm, giới, nhập chẳng phải khác hay không khác. Do đó, pháp đã thuyết giảng của Như Lai gọi là giải thoát. Nếu Như Lai khác với giải thoát, ắt phải do sắc tướng tạo thành. Nếu do sắc tướng tạo thành thì vô thường, nếu chẳng khác thì người tu hành được tướng giải thoát không thể phân biệt, mà người tu hành thấy có phân biệt, cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác, cũng như trí và Nhĩ diệm (đối tượng của trí) chẳng phải khác hay chẳng khác.

Này Đại Tuệ! Nói “Trí và Nhĩ diệm chẳng phải khác hay chẳng khác” là phi thường phi vô thường, phi tạo tác phi đối tượng được tạo tác, phi hữu vi phi vô vi, phi giác phi đối tượng của giác, phi tướng phi đối tượng của tướng, phi ấm phi khác với ấm, phi thuyết phi đối tượng được thuyết, phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng. Vì phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng, nên lìa tất cả lượng. Lìa tất cả lượng thì vô ngôn thuyết, vô ngôn thuyết thì vô sinh, vô sinh thì vô diệt, vô diệt thì tịch diệt, tịch diệt là tự tánh Niết-bàn, tự tánh Niết-bàn là vô sự vô nhân, vô sự vô nhân thì chẳng có duyên dựa, chẳng có duyên dựa thì siêu việt tất cả hư dối; vượt qua tất cả hư giả tức là Như Lai, Như Lai tức là Vô thượng Chánh đẳng giác. Đại Tuệ! Vô thượng Chánh đẳng giác của Phật-đà là lìa tất cả căn lượng.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Pháp lìa mọi căn lượng
Vô sự cũng vô nhân.
Đã lìa giác, sở giác
Cũng lìa tướng, sở tướng.
Ấm duyên đồng chánh giác
Nhất, dị chẳng thể thấy.
Nếu thật chẳng thể thấy
Thì làm sao phân biệt?
Phi tác, phi bất tác
Phi sự cũng phi nhân.
Phi ấm phi lìa ấm
Cũng chẳng có pháp khác.
Chẳng phải có các tánh
Như vọng tưởng họ thấy.
Mỗi mỗi pháp cũng thế
Phi hữu cũng phi vô.
Vì hữu nên nói vô
Vì vô nên nói hữu.
Nếu vô chẳng thể lập
Thì hữu làm sao có!
Hoặc nơi ngã, phi ngã
Vướng mắc nơi ngôn thuyết.
Chìm đắm nơi nhị biên
Tự hoại, hoại thế gian.
Tạo lỗi chướng giải thoát
Tướng thông ta quan sát.
Chẳng báng Đại Đạo Sư
Ấy gọi là chánh quán.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn thuyết giảng nơi khế kinh, nói thâu nhận bất sinh bất diệt; Thế Tôn cũng nói bất sinh bất diệt là biệt danh của Như Lai. Vì sao Thế Tôn vì vô tánh mà nói bất sinh bất diệt cho là biệt danh của Như Lai?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta nói tất cả pháp bất sinh bất diệt là chẳng hiện pháp hữu và vô.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bất sinh thì pháp thâu nhận là không thể thủ đắc, vì pháp được thâu nhận là bất sinh. Nếu tất cả pháp bất sinh thì làm sao trong danh tự có pháp? Cúi xin Phật thuyết giảng rõ.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta nói Như Lai chẳng phải vô tánh, cũng chẳng phải bất sinh bất diệt, thâu tóm tất cả pháp, cũng chẳng đợi duyên mà bất sinh bất diệt, cũng chẳng phải vô nghĩa. Đại Tuệ! Ta nói ý sinh Pháp thân là danh hiệu của Như Lai, nói bất sinh kia, chẳng phải cảnh giới của tất cả ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác, cho đến Bồ-tát bảy trụ. Nghĩa bất sinh kia tức biệt hiệu của Như Lai. Ví như lưới báu Nhân-đà-la của Đế Thích và bất Nhân-đà-la, các vật ấy mỗi mỗi có nhiều tên gọi, nhưng chẳng phải do nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải không có tự tánh.

Như thế, này Đại Tuệ! Ta ở nơi thế giới Ta-bà này có a-tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu, phàm phu thảy đều nghe, mỗi mỗi xưng danh hiệu ta mà chẳng biết là biệt danh của Như Lai ta. Đại Tuệ! Hoặc có chúng sinh biết ta là Như Lai, hoặc biết ta là Nhất Thiết Trí, hoặc biết là Phật, hoặc biết là Bậc Cứu Đời, hoặc biết là Người Tự Giác, hoặc biết là Đạo Sư, hoặc biết là Quảng Đạo, hoặc biết là Tất Cả Đạo, hoặc biết là Tiên Nhân, hoặc biết là Phạm (người thanh tịnh), hoặc biết là Trời, hoặc biết là Tự Tại, hoặc biết là Thù Thắng, hoặc biết là Tiên Nhân Tóc Vàng, hoặc biết là Chân Thật, hoặc biết là

Mặt Trăng, hoặc biết là Mặt Trời, hoặc biết là Chúa Tể, hoặc biết là Vô Sinh, hoặc biết là Vô Diệt, hoặc biết là Tánh Không, hoặc biết là Như Như, hoặc biết là Chân Đế, hoặc biết là Thật Tế, hoặc biết là Pháp Tánh, hoặc biết là Niết-bàn, hoặc biết là Thường, hoặc biết là Bình Đẳng, hoặc biết là Bất Nhị, hoặc biết là Vô Tướng, hoặc biết là Giải Thoát, hoặc biết là Đạo, hoặc biết là Sinh… này Đại Tuệ! Ba atăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, thế giới này và thế giới khác thảy đều biết ta, như mặt trăng trong nước chẳng xuất chẳng nhập. Phàm phu chẳng thể biết ta, vì rơi vào nơi nhị biên, nhưng đều cung kính cúng dường ta, mà chẳng khéo biết từ ngữ danh cú, chẳng có tự thông, chẳng phân biệt được tên và nghĩa, lại chấp trước mỗi mỗi văn tự ngôn thuyết, nơi bất sinh bất diệt cho là Vô tánh, chẳng biết danh hiệu sai biệt của Như Lai dù nhiều mà nghĩa vốn chẳng sai biệt, như một Đế Thích cũng có nhiều danh hiệu. Vì chẳng biết tự thông hội về căn bản, nên đối với tất cả pháp, đuổi theo ngôn thuyết mà chấp trước.

Này Đại Tuệ! Hạng ngu tối kia nói như vầy: “Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với ngôn thuyết chẳng khác. Vì sao? Vì nghĩa chẳng tự thân, ngoài ngôn thuyết chẳng có nghĩa khác, chỉ là ngôn thuyết thôi.” Đại Tuệ! Họ bị ác kiến đốt trí, chẳng biết ngôn thuyết tự tánh, chẳng biết ngôn thuyết là sinh diệt, nghĩa thì chẳng sinh diệt. Tất cả ngôn thuyết rơi vào nơi văn tự, nghĩa thì chẳng rơi vào, vì lìa tánh phi tánh, nên chẳng thọ sinh, cũng chẳng tự thân. Đại Tuệ! Như Lai chẳng thuyết pháp rơi vào văn tự, vì văn tự hữu và vô đều không thể nắm bắt.

Này Đại Tuệ! Nếu có ai nói Như Lai thuyết pháp rơi vào văn tự, ấy là vọng ngữ, vì pháp lìa văn tự. Cho nên, này Đại Tuệ! Ta cùng chư Phật và các Bồ-tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ. Vì sao? Vì pháp lìa văn tự chứ chẳng phải ta thuyết cái nghĩa không tạo lợi ích cho chúng sinh. Ta chỉ nói ngôn thuyết là vọng tưởng của chúng sinh. Đại Tuệ! Nếu ta chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ hoại, nếu giáo pháp hoại thì chẳng có chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn, Duyên giác, vậy còn ai thuyết pháp cho ai?

Cho nên, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát chớ chấp vào ngôn thuyết mà theo phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp. Do chúng sinh phiền não hy vọng chẳng đồng, nên ta và chư Phật vì mỗi mỗi hiểu biết khác nhau của chúng sinh mà thuyết pháp các pháp, khiến họ lìa tâm, ý, ý thức, chẳng thuyết chỗ đắc Thánh trí tự giác.

Này Đại Tuệ! Nơi tất cả pháp vốn vô sở hữu, nếu giác ngộ được tự tâm hiện lượng thì lìa được hai thứ vọng tưởng, chư Đại Bồ-tát dựa theo nghĩa này mà chẳng dựa theo văn tự. Nếu thiện nam, tín nữ dựa theo văn tự, là tự hoại Đệ nhất nghĩa, chẳng thể tự giác cũng chẳng thể giác tha, rơi vào nơi ác kiến tương tục mà vì chúng thuyết pháp, chẳng khéo thấu tỏ tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, cũng chẳng biết nghĩa cú. Nếu khéo biết tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, thông đạt nghĩa cú, tánh nghĩa đầy đủ thì họ được dùng sự vui vô tướng của chánh pháp mà tự thọ sự vui, kiến lập Đại thừa bình đẳng cho chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Người thâu nhận pháp Đại thừa thì thâu nhận chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. Vì thâu nhận chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác thì thâu nhận tất cả chúng sinh, thâu nhận tất cả chúng sinh thì thâu nhận chánh pháp, thâu nhận chánh pháp thì Phật tánh chẳng dứt, Phật tánh chẳng dứt thì hay thấu đạt chỗ chứng đắc hội nhập thù thắng. Thấu đạt chỗ đắc, nhập thù thắng ấy là Đại Bồ-tát thường được ý sinh hóa thân, tùy nghi kiến lập pháp Đại thừa bình đẳng, dùng diệu lực nơi thập tự tại hiện nhiều sắc tướng, thông đạt hình loại phiền não, các tướng hy vọng của chúng sinh mà thuyết pháp như thật. Nói như thật tức là chẳng có khác biệt, tướng như thật là bất khứ, bất lai, tất cả hư dối đều dứt, gọi là như thật. Đại Tuệ! Thiện nam, tín nữ chẳng nên thâu nhận sự tùy ngôn thuyết chấp trước, vì nghĩa chân thật lìa nơi văn tự.

Này Đại Tuệ! Cũng như phàm phu dùng ngón tay chỉ vật, mà Chỉ quán theo ngón tay thì chẳng được nghĩa thật. Cũng thế, nếu phàm phu tùy theo ngôn thuyết của ngón tay mà thâu nhận chấp trước thì rốt cuộc chẳng thể đắc Đệ nhất nghĩa thật lìa ngón tay ngôn thuyết. Đại Tuệ! Ví như nuôi trẻ nhỏ, nên cho ăn đồ chín, không nên cho ăn đồ sống, nếu cho ăn đồ sống thì có thể khiến nó phát bệnh. Người đuổi theo ngôn thuyết vì chẳng biết thứ lớp phương tiện của nghĩa pháp chín mùi cũng như thế. Do đó, đối với pháp bất sinh bất diệt, người tu chẳng biết phương tiện là chẳng khéo tu, cho nên hành giả phải khéo tu phương tiện, chớ tùy theo ngôn thuyết như xem ngón tay mà chẳng thấy chỗ ngón tay chỉ. Cho nên, người tu nên khéo biết phương tiện nơi nghĩa chân thật, nghĩa chân thật là nhân của Niết-bàn vi diệu tịch tĩnh, ngôn thuyết là vọng tưởng hòa hợp, vọng tưởng là tích tụ sinh tử.

Này Đại Tuệ! Nghĩa chân thật là từ người đa văn mà đạt được. Nói đa văn là thấu nơi nghĩa, chẳng phải ở nơi ngôn thuyết. Nói thấu nghĩa là chẳng theo kinh luận của tất cả ngoại đạo, tự thân chẳng theo, cũng chẳng khiến người khác theo, ấy gọi là Đại đức đa văn. Cho nên, người muốn cầu nghĩa nên thân cận bậc Đa văn thì thấu được nghĩa. Trái với nghĩa này tức là chấp trước ngôn thuyết, nên phải xa lìa.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại thừa oai thần của Phật mà bạch:

–Bạch Thế Tôn! Pháp bất sinh bất diệt của Thế Tôn hiển thị chẳng có gì lạ. Vì sao? Vì lập cái nghĩa nhân của tất cả ngoại đạo, cũng nói bất sinh bất diệt, Thế Tôn cũng nói chẳng phải số lượng duyên diệt, là Niết-bàn bất sinh bất diệt. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo nói nhân duyên sinh thế gian, Thế Tôn cũng nói do vọng tưởng, vô minh, nghiệp ái làm duyên sinh khởi thế gian. Họ nói nhân, đây nói duyên, ấy chỉ là danh từ sai biệt thôi. Nhân duyên các vật cũng như thế, Thế Tôn với ngoại đạo lập luận chẳng có sai biệt. Ngoại đạo nói vi trần, thắng diệu, tự tại, chúng sinh, chúa… có chín sự vật bất sinh bất diệt; Thế Tôn cũng nói tất cả tánh bất sinh bất diệt, hữu và vô không thể thủ đắc. Ngoại đạo cũng nói bốn đại chẳng hoại, tự tánh bất sinh bất diệt, bốn đại thường là bốn đại, cho đến luân hồi nơi sáu nẻo mà chẳng xa lìa tự tánh; Thế Tôn thuyết giảng cũng như thế. Cho nên con nói chẳng có gì lạ. Nay cúi xin Thế Tôn vì đại chúng thuyết pháp đặc biệt, kỳ lạ hơn các pháp ngoại đạo. Nếu pháp chẳng sai biệt thì tất cả ngoại đạo cũng đều là Phật, vì cùng nói bất sinh bất diệt. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nói nơi một thế giới mà có nhiều Phật ra đời là chẳng có chỗ đúng, nếu theo lời đã thuyết giảng trên thì trong một thế giới phải có nhiều Phật, vì pháp ngoại đạo với Phật chẳng sai biệt.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta nói bất sinh bất diệt chẳng đồng bất sinh bất diệt của ngoại đạo. Vì sao? Vì các ngoại đạo họ chấp có tánh của tự tánh để đắc tướng bất sinh bất diệt, ta chẳng như thế mà rơi vào hữu và vô. Đại Tuệ! Pháp ta nói lìa hữu và vô, lìa sinh diệt, phi tánh phi vô tánh, mỗi mỗi pháp như mộng huyễn hiện, nên phi vô tánh. Nói vô tánh là sắc tướng chẳng có tự tánh thâu nhận, hiện như chẳng hiện, thâu tóm như chẳng thâu tóm. Do đó nên nói tất cả tánh vô tánh, cũng phi vô tánh. Hễ giác ngộ được tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sinh, yên ổn an lạc, dứt hẳn việc thế gian.

Phàm phu ngu si, dùng vọng tưởng làm việc, chẳng phải Thánh hiền, biết vọng tưởng chẳng thật như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa. Đại Tuệ! Như trong thành Càn-thát-bà, có người huyễn hóa, người buôn bán, đủ thứ chúng sinh ra vào, phàm phu vọng tưởng cho có người chân thật ra vào, nhưng thật thì chẳng có kẻ ra người vào. Như thế, Đại Tuệ! Phàm phu ngu si, khởi tưởng mê hoặc bất sinh bất diệt, thật cũng chẳng có hữu vi vô vi, hoặc sinh hoặc diệt của người huyễn, kỳ thật người huyễn vốn chẳng có. Tất cả pháp cũng như thế, lìa nơi sinh diệt, tánh và vô tánh đều vô sở hữu. Phàm phu ngu si rơi vào kiến chấp bất như thật, khởi vọng tưởng sinh diệt, bất như thật của các bậc Thánh hiền thì chẳng như vậy. Nhưng tánh và phi tánh với vọng tưởng cũng chẳng có khác, nếu khác với vọng tưởng, chấp trước tất cả tánh của tự tánh thì chẳng thấy tịch tĩnh. Nếu chẳng thấy tịch tĩnh thì rốt cuộc chẳng thể lìa vọng tưởng. Cho nên, Đại Tuệ! Chẳng có thấy tướng mà thấy vô tướng mới đúng. Thấy tướng là cái nhân thọ sinh nên chẳng đúng, vô tướng thì vọng tưởng chẳng sinh, chẳng khởi chẳng diệt, ta nói là Niết-bàn.

Đại Tuệ! Nói Niết-bàn là thấy nghĩa chân thật, lìa pháp tâm, tâm số của vọng tưởng, cho đến đắc Như Lai Thánh trí tự giác, ta nói là Niết-bàn.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Diệt trừ sinh luận kia
Kiến lập nghĩa bất sinh.
Pháp ta thuyết như thế
Phàm phu chẳng thể biết.
Tất cả pháp bất sinh
Vô tánh, vô sở hữu.
Như thành Càn-thát-bà
Và mộng huyễn vô nhân.
Vô sinh, chẳng tự tánh
Pháp không có nhân gì?
Vì lìa nơi hòa hợp
Tánh giác tri chẳng hiện.
Nên pháp không, bất sinh
Ta nói chẳng tự tánh.
Vì mỗi mỗi hòa hợp
Dù hiện chẳng thật có.
Phân tích chẳng hòa hợp
Kiến chấp của ngoại đạo.
Như mộng, huyễn, hoa đốm
Và thành Càn-thát-bà.
Mỗi mỗi việc thế gian
Vô nhân mà tướng hiện.
Hàng phục luận hữu nhân
Hiển bày nghĩa vô sinh.
Pháp vô sinh hiển bày
Thì dòng pháp chẳng dứt.
Vô sinh tức vô nhân
Các ngoại đạo kinh sợ.

Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi:

Thế nào là sở nhân
Do nhân nào có sinh
Ở nơi nào hòa hợp
Mà lập vô nhân luận?
Thế Tôn dùng kệ đáp
Quan sát pháp hữu vi
Chẳng nhân chẳng vô nhân.
Ngoại đạo sinh diệt luận
Kiến chấp từ đây diệt.

Bồ-tát Đại Tuệ lại thuyết kệ hỏi:

Thế nào là vô sinh
Ấy là vô tánh chăng
Hoặc vì quán các duyên
Có pháp gọi vô sinh?
Tên chẳng lẽ không nghĩa
Cúi xin phân biệt thuyết.

Thế Tôn lại dùng kệ đáp:

Phi vô tánh, vô sinh
Cũng phi quán các duyên
Phi hữu tánh, đặt tên
Có tên phi vô nghĩa.
Phi cảnh giới ngoại đạo
Thanh văn và Duyên giác.
Cho đến hàng Thất trụ
Đây gọi tướng vô sinh.
Xa lìa các nhân duyên
Cũng lìa tất cả việc.
Vì do tâm kiến lập
Tưởng, sở tưởng đều lìa.
Sắc thân tùy nghiệp chuyển
Ta nói là vô sinh.
Vô tánh, vô ngoài tánh
Cũng chẳng tâm thâu nhận.
Dứt tất cả kiến chấp
Ta nói là vô sinh.
Phân biệt nhiều nghĩa không
Phi không nên nói không.
Vô sinh nên nói không
Vô tự tánh như thế.
Do nhân duyên hòa hợp
Thì có sinh có diệt.
Lìa các số nhân duyên
Vốn chẳng có sinh diệt.
Lìa bỏ số nhân duyên
Thì chẳng có tánh khác.
Nếu nói nhất và dị
Là vọng tưởng ngoại đạo.
Tánh hữu, vô bất sinh
Phi hữu cũng phi vô.
Ngoại trừ số chuyển biến
Thảy đều không thể đắc.
Chỉ có số thế tục
Duyên nhau thành xiềng xích.
Lìa nhân duyên xiềng xích
Phàm phu chẳng thể hiểu.
Nếu lìa duyên xiềng xích
Nghĩa sinh không thể đắc.
Tánh vô sinh chẳng khởi
Lìa các lỗi ngoại đạo.
Chỉ nói duyên xiềng xích
Phàm phu chẳng thể hiểu.
Nếu lìa duyên xiềng xích
Mà có tánh sinh khác.
Ấy là vô nhân luận
Phá trừ nghĩa xiềng xích.
Như đèn hiển sắc tướng
Xiềng xích hiện cũng thế.
Nếu lìa nghĩa xiềng xích
Lại còn có các tánh.
Tánh ấy đều vô tánh
Như tánh của hư không.
Lìa xiềng xích cũng thế
Bậc trí chẳng phân biệt.
Vô sinh chẳng pháp khác
Là pháp của Thánh hiền.
Người đắc pháp vô sinh
Là chứng nhẫn vô sinh.
Giả sử trong thế gian
Người quan sát xiềng xích.
Lìa tất cả xiềng xích
Do đó đắc chánh định.
Nghiệp ái tham, sân, si
Là xiềng xích nội tâm.
Đất sình, cây dùi lửa
Là chủng tử bên ngoài.
Trong ngoài duyên nhau sinh
Giả sử có tánh khác
Chẳng phải nghĩa xiềng xích
Pháp ấy chẳng thành tựu.
Nếu sinh chẳng tự tánh
Ai làm nghĩa xiềng xích.
Vì lần lượt sinh nhau
Nên gọi nghĩa nhân duyên.
Phàm phu vọng tưởng sinh
Pháp địa, thủy, hỏa, phong.
Lìa số chẳng pháp khác
Là cái thuyết vô tánh.
Như thầy thuốc chữa bệnh
Vì bệnh có sai biệt
Nên lập đủ thứ luận
Để trị mỗi mỗi bệnh.
Ta vì các chúng sinh
Đoạn dứt phiền não họ.
Tùy trình độ cao thấp
Thuyết môn độ cho họ.
Gốc phiền não chẳng khác
Mà có đủ thứ pháp.
Đây thuyết pháp Nhất thừa
Cũng gọi là Đại thừa.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả ngoại đạo đều khởi vọng tưởng vô thường, Thế Tôn cũng thuyết tất cả hành là vô thường, là pháp sinh diệt. Bạch Thế Tôn! Nghĩa này thế nào? Là tà hay chánh? Có mấy thứ vô thường?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tất cả ngoại đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp ta thuyết giảng. Thế nào là bảy? Họ hoặc nói tạo rồi lại bỏ gọi là vô thường, hoặc nói hình xứ hoại gọi là vô thường, hoặc nói ngay sắc thể đó là vô thường, hoặc nói giữa quá trình biến chuyển gọi là vô thường, các vật tự thể tan hoại chẳng gián đoạn, như sự chuyển biến của sữa tô thành tô lạc, ngay giữa chuyển biến chẳng thể thấy, tất cả tánh chuyển biến vô thường hủy hoại cũng như thế. Hoặc nói tánh, vô thường, hoặc nói tánh, vô tánh, vô thường, hoặc nói tất cả pháp bất sinh, vô thường… Họ đem những kiến chấp vô thường này vào tất cả pháp.

1. Đại Tuệ! Ngoại đạo nói tạo rồi liền bỏ là vô thường. Ta nói lìa kẻ bắt đầu tạo ra vô thường thì chẳng phải bốn đại. Vì bốn đại bất sinh là nghĩa thường, nếu còn có pháp khác với bốn đại, mỗi mỗi tự tướng khác nhau thì chẳng có sai biệt để đắc, vì sai biệt ấy đều chẳng thể tạo nữa. Hai thứ phân biệt chẳng thể tạo (chẳng có kẻ bắt đầu tạo vô thường, cũng chẳng có kẻ bất đầu tạo thường), nên biết vô thường tức là thường.

2. Ngoại đạo nói hình xứ hoại là vô thường. Ta nói bốn đại và bốn đại tạo sắc chẳng hoại, cứu cánh chẳng hoại, nói cứu cánh là phân tích cho đến vi trần, quan sát sự hoại của bốn đại và bốn đại tạo sắc, thấy hình xứ dài ngắn và khác biệt đều không thể thủ đắc thì chẳng phải bốn đại, nên nói bốn đại chẳng hoại. Hiện hình xứ hoại là rơi vào nơi số luận.

3. Ngoại đạo nói ngay sắc thể tức là vô thường, ấy cũng là hình xứ vô thường, chẳng phải bốn đại. Nếu bốn đại vô thường thì chẳng phải ngôn thuyết thế tục, vì ngôn thuyết thế tục phi tánh. Thấy tất cả tánh chỉ có ngôn thuyết, chẳng thấy tự tướng sinh, là rơi vào nơi thế luận.

4. Ngoại đạo nói chuyển biến vô thường, ta nói sắc thể hiện khác với tánh, chẳng phải bốn đại có khác. Như vàng làm ra nhiều đồ trang sức, hiện chuyển biến khác nhau nhưng chẳng phải tánh vàng có khác, chỉ là những đồ trang sức khác nhau thôi. Vậy các tánh kia chuyển biến cũng như thế.

5. Đại Tuệ! Nói tánh vô thường là tự tâm vọng tưởng, chấp tánh phi thường là vô thường. Vì sao? Nói vô thường của tự tánh bất hoại. Đại Tuệ! Đây là tất cả tánh vô tánh, là sự vô thường. Ngoài sự vô thường, chẳng có gì có thể khiến tất cả pháp tánh vô tánh; như gậy, ngói, đá, dù có tướng khác biệt, hủy hoại rồi thì thấy mỗi mỗi chẳng khác, ấy là sự tánh vô thường, chẳng phải chủ thể tạo tác đối tượng được tạo tác có sai biệt, đây là sự vô thường. Vì chủ thể tạo tác đối tượng được tạo tác chẳng khác thì tất cả tánh vô nhân. Tánh vô nhân là thường. Đại Tuệ! Tất cả tánh vô tánh hữu nhân, chẳng phải phàm phu có thể biết. Phi nhân thì sự bất tương tự sinh khởi (như cây lý có thể sinh ra cây đào, cây đào có thể sinh ra cây xoài…), nếu sinh khởi thì nói tất cả tánh thảy đều vô thường là có lỗi.

Việc bất tương tự này, chủ thể tạo tác đối tượng được tạo tác chẳng có sai biệt mà lại thấy có khác. Nếu nói tánh vô thường thì rơi vào tánh tướng có nhân, tác, có tác thì tất cả tánh chẳng cứu cánh. Nếu tất cả tánh rơi vào tướng có chủ thể tạo tác, thì chủ thể tạo tác vô thường, đối tượng được tạo tác cũng vô thường; chủ thể vô thường, đối tượng vô thường thì tất cả tánh chẳng vô thường, vì vô thường thường sinh vô thường, tức là thường.

Nếu chấp vô thường vào tất cả tánh thì hoại nghĩa của ba đời. Như sắc quá khứ vô thường ắt chẳng lìa hoại, nếu đã hoại thì vị lai bất sinh, nếu sắc bất sinh thì tướng sắc hiện tại cũng đồng như hoại. Nói sắc là do bốn đại tích tụ, có tánh sai biệt, bốn đại và bốn đại tạo sắc tự tánh chẳng hoại, lìa khác và chẳng khác. Tất cả ngoại đạo đối với nghĩa chẳng hoại, bốn đại và bốn đại tạo sắc nơi tất cả ba cõi chẳng thể biết tánh vốn chẳng hoại, nên có sinh diệt. Nếu lìa bốn đại tạo sắc, thì tất cả ngoại đạo dựa vào đâu mà suy nghĩ tánh vô thường chăng? Tướng tự tánh bất hoại thì tướng tự tánh bất sinh.

1. Đại Tuệ! Nói tánh vô tánh vô thường, là lìa bốn đại và chỗ tạo tác của bốn đại, khi tự tướng hoại, tự tánh bốn đại là không thể nắm bắt, tức là bất sinh.

2. Nói bất sinh vô thường, là phi thường vô thường. Tất cả pháp hữu và vô bất sinh, phân tích cho đến vi trần thì chẳng thể thấy, ấy là nghĩa bất sinh, phi sinh, gọi là tướng vô thường bất sinh. Nếu chẳng giác ngộ được nghĩa này thì rơi vào ngoại đạo sinh nghĩa vô thường.

Mỗi mỗi ngoại đạo vọng tưởng có kiến chấp vô thường như thế, như lúc bốn đại bị cháy mà tự tướng chẳng cháy. Nếu tướng của mỗi mỗi tự tướng thiêu hoại thì mỗi mỗi tạo sắc phải đoạn dứt, mà thật thì chẳng như thế.

Này Đại Tuệ! Pháp ta giảng nói phi thường phi vô thường. Vì sao? Vì ngoài tánh chẳng thể quyết định, nên chỉ nói ba cõi duy tâm, chẳng nói mỗi mỗi tướng có sinh có diệt. Bốn đại hòa hợp có sai biệt là do bốn đại và bốn đại tạo sắc sinh ra vọng tưởng phân biệt. Có hai thứ chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp, nếu biết hai thứ đều là vọng tưởng, lìa hai thứ kiến chấp ngoài tánh phi tánh, giác ngộ được vọng tưởng của tự tâm hiện lượng do tự tướng tác hành sinh khởi phân biệt mới có, chỗ tạo tác nghiệp tướng gọi là vọng tưởng sinh, chẳng phải không có tư tưởng tác hành mà gọi là vọng tưởng. Lìa vọng tưởng của tâm, tánh, vô tánh, tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, cho đến siêu việt xuất thế gian, đều phi thường phi vô thường. Nếu chẳng biết tự tâm hiện lượng, thì rơi vào nơi ác kiến nhị biên tương tục. Tất cả ngoại đạo do tự vọng tưởng, chẳng biết ba thứ pháp tướng thế gian, pháp tướng xuất thế gian và thắng (siêu việt) pháp tướng xuất thế gian, dựa theo ngôn ngữ vọng tưởng thuyết mỗi mỗi pháp. Ta nói cảnh giới phi thường phi vô thường, chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết, vì họ chẳng giác ngộ được tự tâm hiện lượng.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Lìa chỗ bắt đầu tạo
Và hình xứ khác biệt.
Nói tánh sắc vô thường
Là vọng tưởng ngoại đạo.
Các tánh chẳng thể hoại
Tự trụ tánh bốn đại.
Ngoại đạo tưởng vô thường
Là chìm nơi kiến chấp.
Pháp hoặc sinh hoặc diệt
Tánh bốn đại tự thường.
Tại sao các ngoại đạo
Lại sinh tưởng vô thường?
Năng nhiếp và sở nhiếp
Tất cả từ tâm tạo.
Theo hai tâm lưu chuyển
Vô ngã và ngã sở.
Nói gốc cây Phạm thiên (ngã)
Nhánh lá khắp thế gian (ngã sở).
Theo pháp ta thuyết giảng
Chỉ do tâm họ tạo.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng thứ lớp tương tục định diệt tận của tất cả Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. Nếu khéo biết tướng thứ lớp tương tục định diệt tận, thì khiến con và các Bồ-tát chẳng vọng xả sự vui của pháp môn định diệt tận, cuối cùng chẳng rơi vào chỗ ngu si của tất cả ngoại đạo Thanh văn và Duyên giác.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ! Ta sẽ vì ông mà giảng thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Từ Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu, Bồ-tát ở Địa thứ sáu đắc nhân vô ngã, nhập định diệt tận với Thanh văn, Duyên giác chẳng khác; vì nơi định có xuất có nhập, chưa thể niệm niệm nhập. Bồ-tát Địa thứ bảy nhập định diệt tận lìa tất cả tướng hữu vô. Dù có tánh Niết-bàn mà chẳng trụ, chẳng như Nhị thừa có thâu nhận sự vui của chánh định, cho chánh định là thiện, duyên theo hữu vi nhập định diệt tận, rơi vào cảnh giới của chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp và có hành có giác. Cho nên Bồ-tát Địa thứ bảy niệm niệm nhập định diệt tận mà chẳng nghĩ định diệt tận là thiện, đắc tất cả pháp tướng chẳng sai biệt, chẳng phân biệt pháp hữu, pháp vô, pháp thiện, pháp bất thiện.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát Địa thứ tám xả lìa tạng thức chẳng những đối với tất cả pháp mỗi mỗi tướng diệt, cho đến tâm, ý, ý thức, hư vọng phân biệt của Thanh văn, Duyên giác cũng diệt. Từ Địa thứ nhất cho đến Bồ-tát Địa thứ bảy với chỗ tu tập về quán hạnh, thấy tất cả các pháp nơi ba cõi chỉ do tâm, ý, ý thức sở hiện tâm lượng, lìa ngã và ngã sở… cũng chuyển diệt luôn, chẳng thấy ngoài pháp có mỗi mỗi các tướng. Ngoại đạo ở nơi tự tâm khởi vọng tưởng phân biệt, hư vọng tu tập, thấy ở ngoài pháp có tướng để đắc, thì rơi vào mỗi mỗi tướng ngoài tánh. Ấy là hai thứ chấp trước của phàm phu ngoại đạo, dùng tự tâm thâu tóm tự tâm, thấy có pháp chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp bèn nói tất cả đoạn diệt, chẳng biết là rơi vào nơi cảnh giới cõi vô tưởng, chẳng biết do tập khí hư dối từ vô thủy huân tập mà đoạn diệt chủng tánh Phật.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát Địa thứ tám đạt được Tam-muội với Thanh văn, Duyên giác dù hơi giống nhau, nhưng Bồ-tát nơi Tam-muội có chánh giác gia trì, nên dù có sự vui của Tam-muội mà chẳng nhập Niết-bàn. Nếu chẳng có chánh giác gia trì thì như Nhị thừa tự yên ổn, chẳng thể trọn vẹn bằng địa Như Lai, mà tự chứng Niết-bàn, xả bỏ tất cả chúng sinh, chẳng vì chúng sinh thuyết giảng về pháp hữu vi để dần dần dẫn dắt chúng sinh vào tri kiến Như Lai thì Phật tánh ắt phải đoạn dứt. Chư Phật Thế Tôn vì muốn khiến hàng Nhị thừa nối tiếp Phật tánh, nên hiển thị vô lượng công đức không thể nghĩ bàn của Như Lai, nhưng hàng Thanh văn, Duyên giác ham trụ sự vui của Tam-muội, chẳng chịu hồi tâm tiến lên Đại thừa, lại tự cho là đã chứng Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Ta sở dĩ nhấn mạnh ở Địa thứ bảy là muốn hành giả khéo tu phương tiện, xa lìa các tướng tâm, ý, ý thức và kiến chấp ngã, ngã sở, thâu nhận nhân vô ngã, pháp vô ngã và biện tài bốn vô ngại, đắc sức quyết định nơi môn Tam-muội, từ những đạo phẩm tương tục từ trước đến đây lần lượt tiến lên Địa thứ tám cho đến Địa thứ mười. Vì e sợ các Bồ-tát chẳng khéo thấu tỏ về tự tướng cộng tướng và sự thứ lớp tương tục của các Địa mà rơi vào nơi ác kiến của ngoại đạo, nên kiến lập thứ lớp của các Địa. Đại Tuệ! Ngoại trừ tự tâm hiện lượng, thật chẳng có pháp sinh pháp diệt, chư Địa thứ lớp tương tục và đoạn dứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc nơi ba cõi, chỉ vì phàm phu chẳng giác ngộ, nên ta và chư Phật thuyết chư Địa thứ lớp tương tục và thuyết pháp đoạn dứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc nơi ba cõi.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát nơi Địa thứ tám vì muốn diệt ham trụ sự vui nơi Tam-muội của Thanh văn, Duyên giác, biết họ chẳng khéo giác ngộ tự tâm hiện lượng của tự tướng cộng tướng, bị rượu tập khí say mê nơi chỗ chướng ngại rơi vào kiến chấp thâu nhận nhân pháp vô ngã, vọng tưởng cho là Niết-bàn, chẳng phải trí tuệ tịch diệt của tự giác. Đại Tuệ! Bồ-tát thấy sự vui của môn Tam-muội tịch diệt, do bản nguyện đại Bi thành tựu thương xót chúng sinh, phân biệt thấu tỏ thập cú vô tận, chẳng trụ vọng tưởng Niết-bàn. Vì bậc họ biết vốn đã Niết-bàn, nên vọng tưởng chẳng sinh, lìa chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp của vọng tưởng, giác ngộ tự tâm hiện lượng nơi tất cả các pháp, vì vọng tưởng chẳng sinh nên chẳng rơi vào nơi tâm, ý, ý thức và tướng vọng tưởng chấp trước ngoài tánh của tự tánh.

Đối với Phật pháp chẳng có cái nhân bất sinh, là tùy theo trí tuệ mà sinh, nên chứng đắc địa Như Lai tự giác.

Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, nhưng chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà, hoặc phi chánh phi tà. Người ấy do tưởng nhớ mỗi mỗi tập khí của kiến văn giác tri từ vô thủy, nên ở mỗi mỗi hình xứ rơi vào tướng hữu và vô, thành có giấc mơ hiển hiện nơi tâm, ý, ý thức nên suy nghĩ như thế.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nơi Địa thứ tám thấy chỗ vọng tưởng sinh, từ Địa thứ nhất tiến đến Địa thứ bảy, thấy tất cả pháp như huyễn, dùng phương tiện độ thoát cái tâm vọng tưởng chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp xong, dùng phương tiện của Phật pháp khiến người chưa chứng đắc được chứng đắc. Đại Tuệ! Đây là phương tiện chẳng đoạn dứt nơi Niết-bàn của Bồ-tát, lìa tâm, ý, ý thức, đắc pháp Nhẫn vô sinh. Đại Tuệ! Nơi Đệ nhất nghĩa chẳng có thứ lớp tương tục, nói vọng tưởng vô sở hữu là pháp tịch diệt.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ba đời chư Phật giảng
Tâm lượng vô sở hữu.
Bậc trụ địa Bồ-tát
Được đến quả vị Phật.
Tâm lượng nơi tạng thức
Bảy địa chưa diệt sạch.
Tám địa mới diệt hết
Hai địa bảy và tám
Đều gọi là trụ địa.
Phật địa gọi tối thắng.
Trí tự giác trong sạch
Chỗ tự tại tối thắng
Chiếu soi như lửa hồng
Quang minh khắp mọi nơi
Sáng lòa chẳng chói mắt.
Giáo hóa lúc hiện tại
Hoặc giáo hóa lúc trước
Đến đây diễn Nhất thừa.
Đều vào địa Như Lai.
Nhất thừa lập các Địa
Thật thì chẳng thứ lớp
Địa mười là thứ nhất
Thứ nhất là Địa tám
Thứ chín là Địa bảy
Thứ bảy lại là tám.
Địa hai là thứ ba
Thứ tư là thứ năm
Thứ ba là thứ sáu
Thông nhau chẳng thứ lớp.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là thường hay vô thường?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi vô thường, vì cả hai đều có lỗi. Nếu nói thường thì có cái lỗi chủ thể tạo tác, tất cả ngoại đạo đều nói “thường có kẻ tác”, thường do tác mà thành thì chẳng phải chân thường. Như Lai đối với chân thường còn chẳng thấy có tướng thường để đắc, huống gì là do tạo tác mà thành thường chăng? Nên nói có lỗi.

Nếu nói Như Lai vô thường thì có cái lỗi của đối tượng được tạo tác vô thường. Ngoại đạo cho năm ấm là đối tượng được tạo tác, nhưng tướng chủ thể thấy và đối tượng được thấy của năm ấm đều chẳng tự tánh, cuối cùng phải đoạn diệt, mà Như Lai thì chẳng đoạn diệt. Đại Tuệ! Tất cả chỗ tạo tác đều vô thường, như cái bình, y áo… tất cả đều có cái lỗi vô thường. Thế thì tất cả công đức phương tiện dùng để độ chúng sinh của Nhất thiết trí tạo nên đều thành vô nghĩa, vì có chỗ tạo tác. Nếu có nghĩa thì tất cả chỗ tạo tác của thế gian đều đồng như chỗ tạo tác của Như Lai, vì chẳng có tánh sai biệt. Cho nên Như Lai nói phi thường phi vô thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Như Lai chẳng phải như hư không thường. Nếu như hư không thường thì thành không vô tri, mà Thánh trí tự giác thì đầy đủ linh giác. Vậy nói như hư không thường thì có cái lỗi vô nghĩa. Đại Tuệ! Ví như hư không phi thường phi vô thường, lìa thường, vô thường, nhất, dị, đồng, chẳng đồng, nên không thể thuyết giảng, cho nên Như Lai phi thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Như Lai là vô sinh thường thì như sừng của thọ, ngựa, cũng là vô sinh thường, vậy thì pháp phương tiện thành vô nghĩa, vì có cái lỗi vô sinh thường, nên Như Lai phi thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Còn có việc khác biết Như Lai là thường. Vì sao? Vì trí của đối tượng được chứng đắc thường nên Như Lai thường.

Này Đại Tuệ! Như Lai hoặc ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp cố định thường trụ. Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như Lai thường trụ chẳng gián đoạn, cũng chẳng phải vô tri như hư không thường trụ, cũng chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết. Đại Tuệ! Trí được chứng đắc của Như Lai là do Bát-nhã huân tập, chẳng như chỗ tâm, ý, ý thức của ngoại đạo kia do ấm, giới, nhập đã huân tập. Đại Tuệ! Tất cả ba cõi đều do vọng tưởng chẳng thật nơi sinh. Như Lai thì chẳng từ vọng tưởng chẳng thật nơi sinh. Đại Tuệ! Vì hai pháp đối đãi nên có thường và vô thường, chẳng phải pháp bất nhị. Pháp bất nhị là tịch tĩnh, vì tất cả pháp chẳng có hai tướng sinh. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi vô thường. Đại Tuệ! Nếu sinh ngôn thuyết phân biệt thì có cái lỗi thường và vô thường. Nếu cái nhận biết phân biệt diệt thì xa lìa kiến chấp thường, vô thường của phàm phu. Kiến chấp của phàm phu hư vọng phân biệt mỗi mỗi pháp thường, pháp vô thường, phi thường phi vô thường, huân tập theo pháp sinh diệt, dẫu có trí tuệ cũng chẳng thể tịch tĩnh.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Nói đủ thứ vô nghĩa
Sinh lỗi thường, vô thường.
Từ đó kiến lập tông
Có nhiều nghĩa hỗn tạp.
Nếu chẳng sinh phân biệt
Lìa hẳn thường, vô thường.
Cùng quán lượng tự tâm
Ngôn thuyết không thể đắc.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết giảng sự sinh diệt của ấm, giới, nhập, nếu những việc ấy chẳng có tự tánh (ngã) thì ai sinh ai diệt? Phàm phu là dựa theo nẻo sinh diệt, chẳng biết Niết-bàn, chẳng thể hết khổ.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tạng của Như Lai là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, phổ biến tạo ra các loài chúng sinh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các loại người huyễn hóa, lìa ngã và ngã sở. Ngoại đạo chẳng biết do ba duyên căn, cảnh, thức hòa phương tiện sinh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, ấy là do ác kiến tập khí hư dối từ vô thủy huân tập, gọi là tạng thức, do đó sinh vô minh trụ địa, cùng với thức thứ bảy sinh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt. Nếu lìa lỗi vô thường và lìa nơi thần ngã chấp thường luận của ngoại đạo thì thấy tự tánh vô nhiễm, bản lai trong sạch.

Còn các thức kia thì có sinh có diệt, nơi ý thức niệm niệm tạo cái nhân vọng tưởng chẳng thật, chấp lấy các cảnh giới đủ thứ hình xứ danh tướng, chẳng biết sắc tướng do tự tâm sở hiện, chẳng lìa khổ vui, chẳng đến giải thoát, bị danh tướng trói buộc, tham sinh rồi sinh tham. Nếu nhân duyên các căn thâu nhận diệt thì tương tục chẳng sinh, nếu lìa tự tâm vọng tưởng, chẳng thọ khổ vui, hoặc nhập định diệt tận, hoặc nhập cõi tứ thiền, hoặc khéo tu chân đế giải thoát, chỉ chứng lý thiên không, người tu cho là giải thoát, ham trụ Niết-bàn, chẳng lìa chẳng chuyển, gọi là Như Lai tạng thức tạng (là tạng thức trong Như Lai tạng).

Ngoại đạo do thức thứ bảy chấp thức thứ tám làm thần ngã thì lưu chuyển chẳng diệt, do đó các thức duyên dựa chẳng phải cảnh giới tu hành của Thanh văn, Duyên giác, vì chẳng giác ngộ được vô ngã, có tự tướng cộng tướng thâu nhận, sinh ấm giới nhập. Nếu thấy tánh Như Lai tạng thì năm pháp tự tánh và nhân pháp vô ngã đều diệt.

Từng Địa thứ lớp tương tục tiến lên, chẳng bị kiến chấp ngoại đạo lay động, ấy gọi là trụ nơi địa Bất Động của Bồ-tát, chứng đắc mười thứ đạo môn an vui của Tam-muội mà tự nguyện chẳng thọ môn vui của Tam-muội, do tuệ giác của Tam-muội nhận biết, quan sát Phật pháp không thể nghĩ bàn và thật tế hướng lên Thánh trí tự giác, chẳng cùng lối tu hành của tất cả Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo, đắc mười thứ chủng tánh Hiền thánh, lìa hạnh Tam-muội, vào nơi Như Lai ý sinh thân của trí thân. Cho nên, Đại Tuệ! Đại Bồ-tát muốn cầu thắng tiến, nên tẩy sạch danh tướng Như Lai tạng và thức tạng.

Này Đại Tuệ! Nếu chẳng có danh tướng thức tạng và Như Lai tạng thì chẳng có sinh diệt, nhưng các bậc phàm phu, Hiền thánh đều có sinh diệt. Người tu hành Thánh trí tự giác chẳng xả phương tiện mà hiện pháp lạc trụ. Đại Tuệ! Cái Như Lai tạng và thức tạng này là do tâm tưởng của tất cả Thanh văn, Duyên giác được thấy, dù tự tánh thanh tịnh, nhưng bị khách trần che lấp, vẫn thấy bất tịnh, chẳng phải sự thấy của Như Lai. Đại Tuệ! Cảnh giới hiện tiền của Như Lai, cũng như xem trái Yêm-ma-la trong bàn tay.

Này Đại Tuệ! Ta ở nơi nghĩa này dùng thần lực kiến lập, khiến phu nhân Thắng Man và chư Bồ-tát trí sáng đầy đủ… diễn thuyết tuyên dương danh tướng Như Lai tạng với thức tạng và sự cùng sinh của bảy thức kia. Vì hàng Thanh văn chấp trước, còn thấy có nhân, pháp vô ngã, nên phu nhân Thắng Man thừa oai thần Phật thuyết giảng cảnh giới Như Lai chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa và ngoại đạo. Đối với Như Lai tạng và thức tạng, chỉ có Phật và bậc Bồ-tát dựa nơi nghĩa lợi trí có cảnh giới trí tuệ này. Cho nên ông và các Đại Bồtát nơi Như Lai tạng và thức tạng nên siêng tu học, chớ nên chỉ nghe biết được cho là đủ.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Như Lai tạng thâm diệu
Ma cùng với bảy thức
Sinh hai thứ thâu nhận
Bậc trí nên xa lìa.
Vô thủy huân tập khí
Như tượng hiện tâm gương.
Người quan sát như thật
Hữu sự như vô sự.
Kẻ ngu quán mặt trăng
Quán chỉ chẳng quán trăng.
Chấp trước theo văn tự
Chẳng thấy nghĩa chân thật.
Tâm làm nghề ảo thuật
Ý là người giúp nghề.
Năm thức bạn diễn viên
Vọng tưởng là khán giả.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết giảng năm pháp tự tánh thức, hai thứ vô ngã và cứu cánh phân biệt tướng, khiến con và các Đại Bồ-tát nơi tất cả Địa thứ lớp tương tục phân biệt pháp này, vào tất cả Phật pháp. Nếu vào được tất cả Phật pháp thì đến địa tự giác của Như Lai.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nay ta thuyết giảng năm pháp tự tánh thức, hai thứ vô ngã và phân biệt trí tướng. Năm pháp tự tánh là: danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. Nếu người tu hành tu theo pháp này thì vào Thánh trí tự giác của Như Lai, lìa những kiến chấp đoạn thường hữu vô…, hiện tiền trụ nơi chánh định, hiện thọ pháp lạc. Đại Tuệ! Nếu chẳng biết năm thứ tự tánh thức, hai thứ vô ngã và ngoài tánh tự tâm hiện, là phàm phu vọng tưởng, chẳng phải Thánh hiền.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là sinh khởi vọng tưởng phàm phu, chẳng phải Thánh hiền?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Phàm phu chấp trước danh tướng thế tục, tùy tâm lưu chuyển. Lúc lưu chuyển thì hiện đủ thứ tướng mạo, rơi vào kiến chấp ngã và ngã sở, chấp trước hy vọng diệu sắc rồi thành vô tri, bị vô tri chướng ngại nên sinh nhiễm chấp. Đã nhiễm chấp thì tham, sân, si sinh nghiệp tích tụ, đã tích tụ thì sinh vọng tưởng tự trói, như con tằm nhả tơ làm kén tự trói vậy. Chúng sinh rơi vào nơi biển sinh tử, dạo nơi đồng hoang là sáu nẻo, như bánh xe xoay chuyển chẳng ngừng. Vì ngu si, chẳng biết từ tự tâm vọng tưởng sinh khởi các tướng sinh, trụ, diệt, như huyễn hóa, như bụi trần lăng xăng, như mặt trăng trong nước, chẳng do tự tại, thời tiết, vi trần, sự thắng diệu mà sinh.

Nói danh, là phàm phu ngu si tùy theo dòng nước danh tướng sinh khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, đặt ra đủ thứ tên gọi, ấy gọi là danh.

Nói tướng, là do nhãn thức chiếu soi gọi là sắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, ý thức phân biệt gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ấy gọi là tướng.

Nói vọng tưởng, là giả lập nhiều danh để hiển thị các tướng, do vọng tưởng suy nghĩ, vọng lập các tên gọi: voi, ngựa, xe cộ, nam nữ… gọi là vọng tưởng.

Nói chánh trí, là tìm danh tướng không thể nắm bắt, cũng như khách đi đường chẳng có chỗ trụ. Các thứ phân biệt chẳng sinh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng rơi vào nơi tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, ấy gọi là chánh trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói như như, là Đại Bồ-tát dùng chánh trí này chẳng lập danh tướng, cũng chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ kiến lập với phủ định và nhị kiến đối đãi thì danh tướng chẳng sinh, gọi là như như.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát trụ nơi như như rồi, chứng đắc cảnh giới vô sở hữu, chứng đắc địa Hoan hỷ của Bồ-tát. Đắc địa Hoan hỷ của Bồ-tát rồi, lìa hẳn ác kiến của tất cả ngoại đạo, chính thức trụ bậc xuất thế gian, pháp tướng thành thục, phân biệt tướng huyễn của tất cả pháp. Tự giác pháp tướng lìa các vọng tưởng, thấy tánh của các tướng khác biệt, thứ lớp tiến lên địa Pháp vân. Giữa lúc đó sức Tammuội thần thông được mở mang khắp nơi, chứng đắc địa Như Lai. Đắc địa Như Lai rồi, viên chiếu hiển thị đủ thứ biến hóa để thành tựu cho chúng sinh mà chẳng trụ nơi chúng sinh, như bóng trăng trong nước, nên cứu cánh đầy đủ thập cú vô tận, vì mỗi mỗi chúng sinh phân biệt thuyết pháp. Pháp thân lìa ý tạo tác này, gọi là Bồ-tát nhập như như sở đắc.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là ba thứ tự tánh gom vào năm pháp chăng? Hay là mỗi mỗi có tự tướng chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã thảy đều gom vào năm pháp. Đại Tuệ! Nói danh và tướng là vọng tưởng tự tánh. Đại Tuệ! Nếu dựa theo vọng tưởng sinh tâm, tâm pháp, gọi là đồng thời sinh, như ánh sáng mặt trời đồng thời chiếu soi mỗi mỗi tướng sai biệt. Do thức thứ sáu phân biệt, thức thứ bảy chấp trì duyên khởi lẫn nhau, gọi là duyên khởi tự tánh. Đại Tuệ! Nói chánh trí như như là tánh chẳng thể hoại, gọi là Thành tự tánh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Vọng tưởng tự tâm hiện tám thứ thức khác nhau, ấy là: Tạng thức (thức thứ tám), ý (thức thứ bảy), ý thức (thức thứ sáu) và tiền ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân), nếu diệt hẳn tướng ngã, ngã sở, chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp và tất cả vọng tưởng chẳng thật, thì hai thứ vô ngã sinh khởi. Cho nên, Đại Tuệ! Nói năm pháp này là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai, thánh trí tự giác, chư Địa thứ lớp tương tục, tất cả pháp Phật thảy đều bao gồm trong đó.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nay ta tóm tắt lại năm pháp tướng, danh, vọng tưởng, như như và chánh trí. Nghĩa tướng là xứ sở, hình tướng, sắc tượng… hiện ra tướng khác biệt, gọi là tướng. Nghĩa danh là theo tướng đặt tên, như bình tên là bình, y áo tên là y áo… chẳng phải cái khác, gọi là danh. Nghĩa vọng tưởng là giả lập nhiều tên để hiển thị các tướng, như phân biệt bình, y áo… hiện trong tâm, tâm pháp, gọi là vọng tưởng. Nghĩa như như là danh này tướng kia chẳng có tri giác, nơi các pháp cũng chẳng thể lần lượt sinh nhau, lìa vọng tưởng chẳng thật, cuối cùng không thể nắm giữ, ấy gọi là như như. Nghĩa chánh trí là sự quyết định chân thật, tự tánh cứu cánh không thể nắm giữ, chỉ là như như, ta và chư Phật tùy thuận chỗ nhập của chúng sinh phổ biến thuyết pháp, giả lập phương tiện, hiển bày nghĩa như thật cho họ, khiến họ theo đó đi vào chánh giác, biết pháp phi đoạn phi thường, vọng tưởng chẳng khởi, tùy thuận Thánh trí tự giác. Pháp tướng này tất cả ngoại đạo và Thanh văn, Duyên giác chẳng thể chứng đắc, ấy gọi là chánh trí. Đại Tuệ! Gọi chung là năm pháp. Thật ra ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã, tất cả Phật pháp thảy đều gom vào trong năm pháp này. Cho nên Đại Tuệ! Nên theo phương tiện tu học, cũng dạy người khác theo đúng chánh pháp này, chớ theo pháp khác.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Năm pháp, ba tự tánh
Cùng với tám thứ thức.
Và hai thứ vô ngã
Thảy thâu trong Đại thừa.
Tướng, danh và vọng tưởng
Thuộc về pháp thế gian.
Như như cùng chánh trí
Thuộc pháp xuất thế gian.
Hai tánh chẳng thể hoại
Nên gọi là thành tự tánh.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn thuyết giảng về nghĩa cú, hằng

sa chư Phật quá khứ và hiện tại, vị lai cũng thuyết giảng như thế. Thế nào? Thế Tôn, là tất cả như thuyết tín thọ chăng? Hoặc còn có nghĩa khác chăng? Cúi xin Như Lai rủ lòng thương xót mà giải thích cho.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chớ nói như thuyết tín thọ. Số lượng của chư Phật ba đời chẳng phải như hằng sa. Vì sao? Vì siêu việt mọi hy vọng của thế gian, dùng thí dụ chẳng thể thí dụ. Vì phàm phu ngoại đạo vọng tưởng chấp trước, nuôi dưỡng ác kiến, rơi vào nơi sinh tử vô cùng tận, vì muốn khiến họ nhàm chán sinh tử luân hồi, siêng năng tinh tấn tu hành giải thoát, nên giả lập phương tiện nói với họ: “Chư Phật dễ thấy, chẳng như Ưu-đàm-bát hoa khó gặp.” Như lập ra hóa thành, chỉ là phương tiện để thỏa mãn sự mong cầu của họ. Có khi quán theo căn cơ của người thọ giáo hóa, lại nói: “Phật rất khó gặp như hoa Ưuđàm. Thật ra, hoa Ưu-đàm chẳng ai đã thấy, nay thấy và sẽ thấy, mà Như Lai thì khắp thế gian thảy đều được thấy.” Chẳng vì kiến lập tự thông mà nói Như Lai ra đời như hoa Ưu-đàm. Đại Tuệ! Kiến lập tự thông, siêu việt mọi hy vọng của thế gian, phàm phu chẳng thể tin nổi, cảnh giới Thánh trí tự giác chẳng có gì để ví dụ, vì chân thật Như Lai siêu việt tướng về chỗ thấy biết của tâm, ý, ý thức, nên chẳng thể thí dụ. Đại Tuệ! Nhưng ta nói thí dụ “Phật như hằng sa” chẳng có lỗi lầm.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng, mặc cho tất cả con cá, con ba ba, cho đến sư tử, voi, ngựa, người, thú giẫm đạp, cát ấy cũng chẳng nghĩ rằng họ nhiễu loạn ta mà sinh vọng tưởng. Cũng thế, thánh trí tự giác dụ là sông Hằng, sức thần thông tự tại dụ là cát, tất cả ngoại đạo và người, thú… dụ cho kẻ nhiễu loạn, Như Lai chẳng do đó mà khởi niệm sinh vọng tưởng. Vì Như Lai tịch diệt chẳng có niệm tưởng, do bản nguyện của Như Lai dùng Tam-muội khiến chúng sinh đoạn dứt tham sân, được sự an lạc, chẳng có nhiễu loạn trong đó. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác tự tánh trong sạch chẳng có cáu bẩn, cũng như cát sông Hằng chẳng có sai biệt.

Ví như cát sông Hằng là tự tánh của địa, khi hỏa kiếp đến thiêu

hết tất cả địa đại mà địa đại chẳng xả bỏ tự tánh. Vì địa đại với hỏa đại cùng sinh nơi bốn đại, nhưng phàm phu vọng tưởng cho là địa đại bị thiêu, mà thật thì chẳng bị thiêu, vì hỏa với địa đồng một nhân trong bốn đại. Như thế, Đại Tuệ! Như hằng sa chẳng hoại, vì cùng Như Lai ở trong một Pháp thân. (Vì Pháp thân Như Lai cùng khắp hư không).

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng chẳng có hạn lượng, ánh sáng Như Lai cũng như thế, chẳng có hạn lượng, vì thành tựu cho chúng sinh nên phổ chiếu tất cả đại chúng trong cõi Phật. Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng, ngoài cát muốn cầu cát khác trọn không thể nắm bắt. Như thế, Đại Tuệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chẳng có sinh tử sinh diệt, vì đã đoạn dứt nhân duyên sinh diệt.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng thêm bớt đều chẳng thể biết. Như thế, Đại Tuệ! Trí tuệ của Như Lai thành tựu cho chúng sinh chẳng thêm chẳng bớt, vì chẳng phải sắc thân. Sắc thân thì có hoại, mà Pháp thân của Như Lai chẳng phải là sắc thân nên chẳng thể hoại. Như ép cát sông Hằng chẳng thể được dầu. Cũng thế, Như Lai độ tất cả khổ não chúng sinh, do Tam-muội bản nguyện khởi tâm đại Bi, chẳng xả pháp giới, dù chúng sinh chưa chứng Niết-bàn bức bách Như Lai đến mức nào cũng chẳng nổi sân hận.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng trôi theo dòng nước, cát chẳng thể không có nước mà tự trôi được. Các pháp của Như Lai thuyết giảng trôi theo dòng nước Niết-bàn cũng như thế, pháp chẳng thể lìa Niết-bàn mà tự ra, cũng như cát chẳng thể lìa nước mà tự trôi. Niết-bàn là bản tế của sinh tử, là tướng tịch diệt nên chẳng thể biết. Biết còn chẳng được, làm sao nói nghĩa đoạn diệt?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu bản tế của sinh tử chẳng thể biết thì tại sao sự giải thoát của chúng sinh có thể biết?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nếu cái nhân của vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thủy diệt thì biết được ngoài nghĩa tự tâm hiện, thân vọng tưởng chuyển thành giải thoát, giải thoát bất diệt tức là tịch diệt, tịch diệt chẳng có biên vực cho nên vô biên, chẳng phải vô sở hữu, như vọng tưởng ngoại đạo lại cho là có nhiều tên gọi khác biệt vô lượng, vô biên… Theo bậc Trí quan sát nội tâm ngoại cảnh, lìa nơi vọng tưởng thì chúng sinh chẳng có khác biệt, trí và Nhĩ diệm, tất cả các pháp thảy đều tịch tĩnh, vì chẳng biết vọng tưởng do tự tâm hiện, nên có vọng tưởng sinh khởi, hễ biết được thì tất cả tịch diệt, gọi là giải thoát.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Quan sát chư Đạo sư
Cũng như cát sông Hằng.
Chẳng hoại, chẳng khứ lai
Cũng chẳng có cứu cánh.
Ấy tức là bình đẳng
Quan sát chư Như Lai.
Cũng như cát sông Hằng
Thảy lìa tất cả lỗi.
Lưu luyến mà tánh thường
Ấy là chánh giác Phật.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết giảng tướng sát-na hoại của tất cả các pháp. Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng sát-na của tất cả các pháp?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.

Này Đại Tuệ! Nói tất cả pháp là những pháp thiện, bất thiện, vô ký, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, vô tội, hữu lậu, vô lậu, thọ bất thọ… Đại Tuệ! Lược thuyết tâm, ý, ý thức và tập khí, là nhân của năm thứ thọ ấm, cũng là tập khí của tâm, ý, ý thức nuôi dưỡng phàm phu sinh vọng tưởng thiện và bất thiện.

Này Đại Tuệ! Người tu Tam-muội, Tam-muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ, gọi là Thánh hiền, thuộc về pháp thiện vô lậu. Đại Tuệ! Nói thiện, bất thiện có tám thứ thức. Thế nào là tám? Ấy là Như Lai tạng, gọi là thức tạng, tâm, ý, ý thức và tiền ngũ thức, chẳng phải như ngoại đạo đã thuyết giảng.

Này Đại Tuệ! Tiền ngũ thức và tâm, ý, ý thức đều hay phân biệt cảnh trần, tướng thiện hay bất thiện; hễ tâm động thì duyên khởi, duyên hội thì tâm sinh, lần lượt chuyển biến, tiền ngũ thức chuyển biến theo thức thứ sáu thì có phân biệt thiện ác, chuyển biến theo thức thứ bảy thì có tánh chấp trước, chuyển biến theo thức thứ tám thì có chủng tử. Bảy thức trước tương tục thì có hoại, thức thứ tám lưu chú thì chẳng hoại. Nhưng thức thứ tám cùng bảy thức kia thể chẳng có khác, nên bảy thức kia sinh diệt thì thức thứ tám cũng theo đó hoặc sinh hoặc diệt. Vì chẳng biết cảnh trần do tự tâm hiện, vốn chưa từng sinh diệt mà chúng sinh thấy cảnh giới hư vọng, sinh tưởng chấp lấy, nên theo thứ lớp diệt rồi sinh, sinh rồi diệt, thấy hình tướng sai biệt là do ý thức thâu nhận, cùng tiền ngũ thức tương ưng, sinh thời gian sát-na chẳng trụ, gọi là sát-na.

Này Đại Tuệ! Nói sát-na là tạng thức trong Như Lai tạng, đồng sinh tập khí ý thức sát-na, tập khí vô lậu thì chẳng phải sát-na, sát-na này chẳng phải phàm phu có thể biết. Ngoại đạo chấp trước sát-na luận, chẳng biết tất cả pháp sát-na là phi sát-na, chấp đoạn kiến, phá hoại pháp vô vi. Đại Tuệ! Nhị thừa đã dứt phiền não chướng nên thức thứ bảy chẳng lưu chuyển, chẳng thọ khổ vui mà chẳng phải cái nhân của Niết-bàn. Đại Tuệ! Nói Như Lai tạng là có thọ sự khổ vui, cùng với nhân kia hoặc sinh hoặc diệt, ngoại đạo say đắm rượu của bốn trụ địa vô minh, phàm phu chẳng biết là do vọng tưởng huân tập nơi tâm, nên thấy có sát-na.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Như vàng ròng, kim cương, xá-lợi của Phật có tánh đặc biệt, trọn chẳng thể hoại. Đại Tuệ! Người chứng Thánh trí tự giác, đắc chánh pháp vô gián chẳng có tướng sát-na sinh diệt. Nếu có sát-na thì bậc Thánh chẳng phải Thánh, mà bậc Thánh luôn luôn là Thánh, như vàng ròng, kim cương, dù trải qua vô số kiếp mà chất lượng chẳng giảm. Do phàm phu chẳng khéo hiểu pháp thuyết vi diệu ẩn mật của ta, đối với tất cả pháp trong và ngoài tưởng có sát-na sinh diệt.

Này Đại Tuệ! Lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói “Sáu ba-la-mật đầy đủ thì được thành Chánh giác.” Thế nào là sáu?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ba-la-mật chia làm ba loại là: Thế gian, xuất thế gian và siêu việt xuất thế gian. Đại Tuệ! Nói Ba-la-mật thế gian là chấp trước ngã và ngã sở, thâu nhận nhị biên, là chỗ đủ thứ thọ sinh, ham sắc, thanh, hương, vị, xúc, đầy đủ bố thí Ba-la-mật và trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng như thế. Phàm phu do đó đắc thần thông và sinh cõi trời Phạm Thiên.

Này Đại Tuệ! Nói Ba-la-mật xuất thế gian, là vì Thanh văn, Duyên giác rơi vào nơi thâu nhận Niết-bàn, dù hành sáu Ba-la-mật mà ham trụ sự vui nơi Niết-bàn của chính mình.

Nói Ba-la-mật siêu việt xuất thế gian, là giác ngộ được vọng tưởng thâu nhận nơi tự tâm hiện và biết tự tâm bất nhị, nên chẳng sinh vọng tưởng, đối với sự thâu nhận của các loài đều chẳng có phần. Chẳng chấp trước sắc tướng của tự tâm, nhưng vì khiến tất cả chúng sinh được an lạc mà tùy duyên giáo hóa, gọi là Bố thí ba-lamật. Tạo phương tiện khéo léo, tùy duyên giữ giới thì vọng tưởng chẳng sinh, là Trì giới ba-la-mật. Ngay nơi bị nhục mà vọng tưởng chẳng sinh, biết chủ thể thâu nhiếp đối tượng được thâu nhiếp đều chẳng thật, là Nhẫn nhục ba-la-mật. Ngày đêm tinh tấn, siêng năng tu hành, tùy thuận phương tiện mà vọng tưởng chẳng sinh, là Tinh tấn ba-la-mật. Vọng tưởng dứt sạch, chẳng trụ Niết-bàn của Thanh văn, là Thiền định ba-la-mật. Trí tuệ quan sát tự tâm vọng tưởng phi tánh, chẳng rơi vào kiến chấp nhị biên, chuyển thân này thù thắng hơn trước mà chẳng đoạn dứt, đắc thánh trí tự giác, là Bát-nhã bala-mật.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tánh không chẳng sát-na
Phàm phu vọng chấp có.
Như dòng sông, tim đèn
Và chủng tử nẩy mầm.
Dời đổi rất nhanh chóng
Đều do hành ấm chuyển.
Nghĩa sát-na ta thuyết
Tịch tĩnh lìa sở tác.
Sát-na dứt phiền não
Tất cả pháp chẳng sinh.
Có sinh thì có diệt
Chẳng vì kẻ ngu thuyết.
Tánh tương tục chẳng dừng
Do vọng tưởng huân tập.
Vì vô minh làm nhân
Vọng tâm từ đó sinh.
Khi sắc tướng chưa sinh
Có gì để phân biệt?
Thấy sinh diệt tương tục
Theo đó chấp tâm khởi.
Nếu chẳng trụ nơi sắc
Theo duyên gì để sinh?
Sinh từ vật khác sinh
Thì nhân sinh chẳng thật.
Chẳng thật thì chẳng thành
Sao có sát-na hoại?
Người tu hành chánh định
Như kim cương, xá-lợi.
Việc đời còn chẳng hoại
Huống là đắc chánh pháp!
Như Lai đầy đủ trí
Cùng Tỳ-kheo bình đẳng.
Sao còn thấy sát-na?
Tất cả cảnh huyễn hóa
Sắc tướng chẳng sát-na
Nơi sắc tướng chẳng thật
Xem cho là chân thật.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn thọ ký A-la-hán sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bằng với các Bồ-tát chẳng có sai biệt? Nếu Phật vì độ tất cả chúng sinh mà chẳng nhập Niết-bàn thì ai đến Phật đạo? Tại sao nói “Từ lúc mới thành Phật cho đến nhập Niết-bàn, ở nơi khoảng giữa chẳng thuyết một chữ chẳng đáp một chữ?” Nói “Như Lai thường định” thì chẳng có niệm lự quan sát, tức là vô ngôn vô thuyết thì chẳng thể giáo hóa, sao lại nói Hóa Phật để làm Phật sự? Tại sao nói các thức sát-na chẳng trụ mà có tướng lần lượt biến hoại? Nói “Như Lai thường định” tại sao lại cần có kim cang lực sĩ thường theo hộ vệ? Bản tế tịch diệt thì xa lìa phiền não, tại sao còn hiện đủ thứ quả báo của nghiệp ma nghiệp ác như ngoại đạo Chiên-giá-ma-nạp giả có thai và Tôn-đà-lợi giết con gái để báng Phật, khất thực thì chẳng ai bố thí, bát không mà trở về…? Như Lai đã đắc Nhất thiết chủng trí, sao chẳng lìa được những lỗi này?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta thuyết Niết-bàn Vô dư để khuyến dụ phàm phu tiến đến bậc Bồ-tát, cũng khuyên các bậc tu hạnh Bồ-tát trong cõi này cõi kia và những người ham Niết-bàn của Thanh văn thừa, khiến lìa Thanh văn thừa tiến lên Đại thừa, nên Hóa Phật thọ ký cho hàng Thanh văn, chứ chẳng phải pháp Phật thọ ký. Do đó, sự thọ ký Thanh văn với thọ ký Bồ-tát chẳng khác. Đại Tuệ! Nói “chẳng khác” là Nhị thừa, chư Phật Như Lai đoạn dứt phiền não chướng, cùng là một vị giải thoát, chẳng phải nói đoạn dứt trí chướng. Đại Tuệ! Nói “Trí chướng” là thấy pháp vô ngã, thù thắng thanh tịnh; nói “Phiền não chướng” là do trước kia tu tập thấy nhân vô ngã. Nghĩa là: Dứt phiền não chướng thì chuyển được thức thứ bảy diệt, ý thức chẳng hành; nếu pháp chướng giải thoát thì chuyển được sự huân tập trong tạng thức diệt, cứu cánh thanh tịnh, vì pháp bản trụ nên trước sau đều phi tánh.

Vì bản nguyện vô tận nên Như Lai vô suy xét, vô quan sát mà thuyết pháp, dùng chánh trí giáo hóa thì niệm chẳng vọng, nên vô suy xét, vô quan sát. Vì tập khí của bốn trụ địa và vô minh trụ địa dứt thì hai thứ phiền não dứt, lìa hai thứ sinh tử, giác ngộ được nhân và pháp vô ngã đồng thời cũng đoạn dứt hai chướng ngại.

Này Đại Tuệ! Vì lìa cái nhân sát-na tập khí của bảy thứ thức trước, là pháp thiện vô lậu thì chẳng còn luân hồi. Đại Tuệ! Nói Như Lai tạng, là phàm phu ngoại đạo chấp nơi không, do chấp không mà nhiễu loạn ý thức, dù đắc không tuệ nhưng chẳng biết không là vô tri, vô tri thì chẳng có tuệ, theo cái nhân khổ vui lưu chuyển. Nếu giác ngộ được không mà chẳng không, ấy là cái nghĩa sát-na chân thật của Như Lai tạng. Phàm phu ngoại đạo chẳng thể giác ngộ được, lại cho là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Nói Kim cang lực sĩ thường theo hộ vệ, ấy là Hóa Phật thôi, chẳng phải Chân Như Lai. Đại Tuệ! Nói Chân Như Lai là lìa tất cả căn lượng, nghĩa là tất cả căn lượng của phàm phu, Nhị thừa và ngoại đạo thảy đều diệt hết, chứng đắc hiện pháp trụ lạc, vô gián pháp trí nhẫn, chẳng phải chỗ Kim cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả Hóa Phật chẳng từ nghiệp sinh, nhưng Hóa Phật chẳng phải Phật mà chẳng lìa Phật, như thợ gốm làm ra các đồ gốm, đồ gốm chẳng phải đất nhưng chẳng lìa đất, theo tướng được tạo tác của chúng sinh mà thuyết pháp, chẳng phải chỗ tự thông mà thuyết giảng cảnh giới tự giác.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu dựa theo thức thứ bảy chuyển diệt mà sinh khởi đoạn kiến, do chẳng giác ngộ được tạng thức mà sinh khởi thường kiến, tất cả đều do tự tâm vọng tưởng chẳng biết bản tế. Nếu tự tâm vọng tưởng diệt thì được giải thoát, giải thoát thì tất cả lỗi tập khí của bốn trụ địa và trụ địa vô minh thảy đều đoạn dứt.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Ba thừa cũng phi thừa
Như Lai chẳng nhập diệt.
Tất cả Phật sở ký
Lìa các lỗi nhiễm tịnh.
Vì khuyến dụ hạ căn
Nên thuyết pháp ẩn lấp.
Vì bậc Vô gián trí
Thuyết Niết-bàn Vô dư.
Chư Phật giả lập trí
Tùy cơ phân biệt thuyết.
Nếu chư thừa phi thừa
Thì chẳng có Niết-bàn.
Dục, sắc, hữu, kiến ái
Gọi là bốn trụ địa.
Do ý thức sinh khởi
Chủng tử trụ tạng thức.
Căn, trần, sáu thứ thức
Đoạn diệt nói vô thường.
Hoặc thấy có Niết-bàn
Lại cho là thường trụ.
Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi:
Các bậc Bồ-tát kia
Lập chí cầu Phật đạo.
Rượu thịt và ngũ tân
Ăn uống như thế nào?
Cúi xin Phật thương xót
Vì đại chúng giải thích.
Do phàm phu tham dục
Tham ăn đồ bất tịnh.
Sở thích như cọp sói
Đồ gì mới nên ăn?
Ăn thứ nào có lỗi?
Cúi xin vì con nói.
Người ăn hoặc không ăn
Có những tội phước gì?

Bồ-tát Đại Tuệ thuyết kệ xong, lại bạch:

–Cúi xin Thế Tôn vì chúng con nói công đức và tội lỗi của người ăn thịt và không ăn thịt. Con và các Bồ-tát nơi hiện tại, vị lai sẽ vì những chúng sinh ham thích ăn thịt phân biệt thuyết pháp, khiến họ hướng về tâm Từ. Đắc tâm Từ rồi, đối với các trụ địa phiền não, thanh tịnh thấu hiểu, chóng đắc cứu cánh Vô thượng Bồ-đề. Thanh văn, Duyên giác nơi địa tự chứng ngưng nghỉ rồi, cũng được tiến lên mau thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Đám ngoại đạo tác ác lập luận, chấp kiến đoạn thường, điên đảo so đo, còn có Pháp giá (như giá giới của Phật) không cho ăn thịt, huống nữa là Như Lai thành tựu chánh pháp, cứu hộ thế gian mà ăn thịt chăng?

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có vô lượng nhân duyên chẳng nên ăn thịt, nay ta sẽ vì ông sơ lược giải thích. Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay, lần lượt theo nhân duyên làm sáu thân quyến thuộc với nhau, suy nghĩ thịt này là người thân kiếp trước của mình, do đó không nên ăn thịt.

Thịt lừa, la, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú… vì nhiều hàng thịt bán lẫn lộn, do đó không nên ăn thịt.

Như thợ săn, đồ tể, cầm thú ngửi mùi họ liền sinh kinh sợ, chó thấy oán ghét sủa vang, do đó không nên ăn thịt.

Vì khiến người tu hành chẳng sinh khởi tâm Từ, do đó không nên ăn thịt. Phàm phu ham thích sự bất tịnh, có tiếng tăm xấu xa, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người trì chú chẳng thành tựu, do đó không nên ăn thịt.

Vì người sát sinh thấy hình súc sinh khởi thức phân biệt, ham đắm mùi vị, do đó không nên ăn thịt. Kẻ ăn thịt bị chư Thiên chê bỏ, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến miệng hôi hám, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người có nhiều ác mộng, do đó không nên ăn thịt.

Vì đến chỗ rừng hoang vắng lặng, cọp, sói ngửi được mùi hương gây sự nguy hiểm, do đó không nên ăn thịt. Vì làm cho ăn uống thất thường, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng sinh chán lìa, do đó không nên ăn thịt. Ta thường nói rằng: Khi muốn ăn uống, nên nghĩ đây là thịt của con mình, hoặc nghĩ là thuốc độc, do đó không nên ăn thịt. Cho Phật tử ăn thịt là không có chỗ đúng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Xưa kia có vua tên Sư Tử Đô-đà-sa, ăn đủ thứ thịt, dần dần cho đến ăn thịt người, dân chúng chịu không nổi, tụ tập chống lại, vua liền bị lật đổ, người ăn thịt có lỗi như thế, do đó không nên ăn thịt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Những người sát sinh vì tham tài lợi mà sát sinh buôn bán cá thịt, bọn ngu si ăn thịt chúng sinh, dùng tiền làm lưới mà bắt lấy các thứ thịt. Người sát sinh ăn thịt, hoặc dùng tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt lấy những chúng sinh bay trên trời, lội dưới nước và đi trên bờ, đủ thứ giết hại, mua bán cầu lợi, gieo nhân chịu quả, sẽ thọ báo ác. Đại Tuệ! Ta dạy Phật từ nên dùng pháp thật, không dạy ăn thịt, cho đến không mong cầu, không nghĩ tưởng đến những cá thịt, do nghĩa này không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Ta có khi phương tiện nói Giá Pháp, cho ăn năm thứ tịnh nhục hoặc là mười thứ, nay ở kinh này xóa bỏ tất cả phương tiện, bất cứ lúc nào, chủng loại nào, phàm thuộc loài thịt chúng sinh, thảy đều đoạn dứt. Đại Tuệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác còn chẳng ăn phi thời và tạp thực, huống gì là ăn cá thịt chăng? Tự không ăn cũng chẳng bảo người khác ăn. Dùng tâm đại Bi dẫn đầu, xem tất cả chúng sinh như con một của mình, do đó chẳng ăn thịt con.

Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ:

Tất cả thịt chúng sinh
Xưa kia là quyến thuộc.
Hoặc hôi thối hỗn tạp
Sinh trưởng nơi bất tịnh.
Hoặc ngửi mùi kinh sợ
Uống rượu với giết hại
Và ngũ tân vân vân
Tu hành nên xa lìa.
Rượu thị sinh buông lung
Buông lung sinh mê đắm.
Mê đắm sinh tham dục
Do đó không nên ăn.
Do ăn sinh tham dục
Tham dục khiến tâm mê.
Say mê nuôi ái dục
Sinh tử chẳng giải thoát.
Vì lợi giết chúng sinh
Dùng tài bắt cá thịt.
Hai thứ gây nghiệp ác
Chết đọa ngục Khiếu hoán.
Ta thường dạy Phật tử
Nên dùng những pháp thực.
Chẳng dạy ăn chúng sinh
Chẳng do nhân tự có.
Ăn thịt gây thù oán
Do đó không nên ăn.
Giết hại, ăn chúng sinh
Người tu nên xa lìa.
Mười phương chư Như Lai
Đều quở trách việc này.
Nếu người tin nhân quả
Chớ ăn nuốt lẫn nhau.
Chết đọa loài cọp, sói
Thọ sinh thường ngu si.
Đồ tể và thợ săn
Khiến cầm thú kinh sợ.
Ắt phải chịu quả ác
Có tánh tham ăn thịt
Phải đọa loài súc sinh
Cũng như mèo chồn kia.
Trong các kinh Đại Thừa
Như Phược Tượng, Đại Vân.
Cho đến kinh Niết-bàn
Và kinh Lăng-già này.
Ta đều khuyến người tu
Nên đoạn dứt ăn thịt.
Bồ-tát và Thanh văn
Chư Phật đều quở trách.
Người giết hại ăn thịt
Ăn thịt chẳng hổ thẹn.
Đời đời thường ngu dốt
Trước nói kiến văn nghi.
Đã dứt tất cả thịt
Người vọng tưởng chẳng biết.
Thọ sinh loài ăn thịt
Do lỗi họ tham dục.
Chướng ngại sự giải thoát.
Rượu thịt và ngũ tân
Thảy đều chướng Thánh đạo.
Chúng sinh đời vị lai
Ngu si mới ăn thịt.
Hoặc có người chấp trước
Ăn tịnh nhục vô tội
Vì Phật đã cho ăn.
Họ lại quên lời Phật
Ghi trong nhiều kinh điển.
Có lời nói như thế:
Ăn thịt như ăn con.
Cũng như uống thuốc độc.
Khiến người tu chán lìa.
Thường theo hạnh khất thực
An trụ nơi tâm Từ.
Những thú dữ cọp sói
Có thể cùng dạo chơi.
Nếu ăn loài máu thịt
Chúng sinh đều kinh sợ.
Cho nên người tu hành
Tâm từ chẳng ăn thịt.
Ăn thịt mất trí tuệ
Trái hẳn chánh giải thoát.
Nghịch tướng mạo bậc Thánh
Do đó không nên ăn.
Được sinh dòng Phạm chí
Và các chỗ tu hành
Nhà giàu sang trí tuệ
Đều do chẳng ăn thịt.
Lời ta thường giảng thuyết.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.