Chân Tâm Trực Thuyết Giảng Giải

Chân Tâm Trực Thuyết Chánh Văn



1. Chánh Tín Chân tâm

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của các công đức hay nuôi lớn tất cả căn lành”. Trong Duy Thức cũng nói: “Tín như hạt châu thủy thanh, hay làm cho nước dơ được sạch”. Cho nên, muôn điều thiện phát sanh là tín dẫn đầu. Vì thế kinh Phật trước hết lập “Như thị ngã văn” là cốt để sanh lòng tin vậy.

HỎI: Chữ tín của Giáo môn (Kinh) và chữ tín của Tổ môn (Thiền) có gì sai khác?

ĐÁP: Có nhiều loại sai khác nhau: Giáo môn khiến người, trời tin ở nhân quả. Như có người thích phước lạc tin thập thiện là diệu nhơn, cõi người cõi trời là lạc quả. Có người thích không tịch, tin nhân duyên sanh diệt là chánh nhơn, khổ tập diệt đạo là Thánh quả. Có người thích Phật quả, tin ba kiếp sáu độ làm đại nhơn, Bồ-đề Niết-bàn làm chánh quả.

Tổ môn chánh tín chẳng đồng như trên. Tổ môn chẳng tin tất cả pháp hữu vi nhân quả. Chỉ tin ở tự mình xưa nay là Phật, tự tánh thiên chân người người đều đầy đủ. Diệu thể của Niết-bàn mỗi mỗi đều viên thành, chẳng nhờ cầu nơi người khác, từ xưa đến nay nó tự đầy đủ. Tam Tổ nói: “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư. Bởi do thủ xả, vì thế chẳng như“. Ngài Chí Công nói: “Trong thân có tướng là thân không tướng, trên đường vô minh là đường vô sanh”. Ngài Vĩnh Gia nói: ” Vô minh thật tánh tức Phật tánh, huyễn hoá không thân tức Pháp thân”. Cho nên chúng sanh xưa nay là Phật.

Đã sanh chánh tín cần phải thêm hiểu biết nữa mới được. Ngài Vĩnh Minh nói: “Tin mà chẳng hiểu biết thì thêm lớn vô minh. Hiểu biết mà chẳng tin thì thêm lớn tà kiến”. Cho nên, tin hiểu gồm hai thì mau vào đạo.

HỎI: Mới phát lòng tin chưa được vào đạo, có lợi ích chăng?

ĐÁP: Trong Luận Khởi Tín nói: “Nếu nghe pháp này mà chẳng sanh khiếp nhược, thì nên biết người này nhất định sẽ nối hạt giống Phật và được chư Phật thọ ký cho. Thí như có người giáo hóa chúng sanh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, khiến họ hành thập thiện, chẳng bằng có người đối với pháp này khoảng một niệm chánh tư duy thì công đức cũng hơn người trước không thể thí dụ được”. Trong Kinh Bát-nhã nói: “Cho đến người chỉ sanh một niệm tịnh tín, Như Lai trọn thấy biết các chúng sanh này được vô lượng phước đức như vậy”. Cho nên muốn đi ngàn dặm, bước đầu cần phải chánh; bước đầu nếu sai, ngàn dặm đều sai. Vào nước vô vi, niềm tin ban đầu phải chánh; niềm tin ban đầu đã mất, muôn thiện đều lui. Cho nên Tổ sư nói: “Mảy may nếu sai, trời đất ngăn cách”. Đấy là lý này vậy.

2. Tên Khác Của Chân Tâm

HỎI: Đã sanh chánh tín, nhưng chưa biết thế nào gọi là Chân tâm?

ĐÁP: Lìa vọng gọi là chân. Linh giám gọi là tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm đã nói rõ tâm này.

HỎI: Chỉ gọi Chân tâm thôi, hay có tên riêng khác nữa chăng?

ĐÁP: Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Phật dạy trong Bồ-tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay phát sanh muôn việc thiện. Kinh Bát-nhã gọi là Bồ-đề, vì lấy giác làm thể. Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới, vì giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến. Kinh Bát-nhã gọi là Niết-bàn, vì là chỗ qui hướng của chư Thánh. Kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như, vì chân thường bất biến. Kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân, vì là chỗ nương của báo thân và hoá thân. Luận Khởi Tín gọi là Chân như, vì chẳng sanh chẳng diệt. Kinh Niết-bàn gọi là Phật tánh, vì là bản thể của ba thân. Kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì, vì mọi công đức từ đó mà lưu xuất. Kinh Thắng Man gọi là Như Lai tạng, vì ẩn phú và hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác, vì hay chiếu phá mờ tối.

Do đây nên ngài Vĩnh Minh Thiền sư trong Duy Tâm Quyết nói: “Một pháp có ngàn tên, tùy theo duyên mà lập hiệu”. Tất cả còn đầy đủ trong các Kinh, không thể kể ra hết được.

HỎI: Phật dạy đã biết, Tổ dạy như thế nào?

ĐÁP: Cửa Tổ sư dứt tuyệt danh ngôn, danh còn chẳng lập, sao lại có nhiều tên? Chỉ vì ứng theo cơ duyên nên tên cũng lắm. Có lúc gọi là Tự Kỷ, vì là bản tánh của chúng sanh. Có lúc gọi là Chánh Nhãn, vì hay soi tướng của muôn loài. Có lúc gọi là Diệu tâm, vì hư linh và tịch chiếu. Có lúc gọi là Chủ Nhơn Ông, vì xưa nay từng gánh vác. Có lúc gọi là Bát không đáy, vì tùy chỗ sanh nhai. Có lúc gọi là Đờn không dây, vì hiện ra điệu vận. Có lúc gọi là Vô tận đăng, vì hay chiếu phá mê tình. Có khi gọi là Cây không rễ, vì gốc rễ bền chắc. Có khi gọi là Suy mao kiếm, vì hay chặt đứt căn trần. Có lúc gọi là Nước vô vi, vì sóng êm bể lặng. Có lúc gọi là Mâu ni châu, vì hay giúp đỡ người nghèo khó. Có lúc gọi là Vô nhu tỏa, vì sáu cửa tình đóng. Cho đến nào là trâu đất, ngựa gỗ, tâm nguyên, tâm ấn, tâm cảnh, tâm nguyệt, tâm châu, v.v… nhiều tên khác nhau không thể ghi ra cho hết. Nếu đạt được Chân tâm thì các tên đều hiểu cả. Bằng mê muội Chân tâm thì còn bị trệ nơi các tên. Cho nên đối với Chân tâm cần yếu nên xét kỹ.

3. Diệu Thể Của Chân Tâm

HỎI: Chân tâm đã biết tên, còn thể nó như thế nào?

ĐÁP: Trong Kinh Phóng Quang Bát-nhã nói: “Bát-nhã không có tướng có và tướng sanh diệt”. Luận Khởi Tín nói: “Tự thể của Chân như, tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát và chư Phật đều không thêm bớt, cũng chẳng phải trước sanh sau diệt, mà rốt ráo thường còn. Từ xưa tới nay tánh nó tự đầy đủ tất cả công đức”.

Căn cứ theo các Kinh Luận thì bản thể Chân tâm siêu xuất nhân quả, thông suốt cổ kim, chẳng lập phàm, Thánh và không có các đối đãi, như hư không rộng lớn biến khắp tất cả. Diệu thể ngưng tịch, dứt hết các hý luận, chẳng sanh chẳng diệt, phi hữu phi vô, chẳng động chẳng lay, trạm nhiên thường trụ. Gọi là Chủ Nhơn Ông ngày xưa, là người ở mé kia của Phật Oai Âm, gọi là Tự Kỷ trước Không Kiếp. Một giống thường hằng không một mảy may tì vết, tất cả sơn hà đại địa, cỏ cây rừng bụi, vạn tượng sum la, các pháp nhiễm tịnh, đều từ trong ấy mà ra.

Cho nên Kinh Viên Giác nói: “Này các Thiện nam, Vô Thượng Pháp Vương có một pháp môn đại đà-la-ni gọi là Viên Giác, từ đó lưu xuất tất cả thanh tịnh Chân như, Bồ-đề, Niết-bàn và Ba-la-mật, dạy dỗ cho các Bồ-tát”.

Ngài Khuê Phong nói: “Tâm ấy rỗng rang mà thuần diệu, rực rỡ mà mầu sáng, chẳng đến chẳng đi, thông suốt cả ba mé, chẳng phải trong ngoài, suốt khắp mười phương. Chẳng sanh chẳng diệt, bốn núi nào có thể hại. Lìa tánh lìa tướng, nào bị năm sắc làm mờ”.

Ngài Vĩnh Minh trong Duy Tâm Quyết nói: “Xét về tâm này là cái diệu trong lẽ mầu mà hội khắp, là vua của muôn pháp. Ba thừa năm tánh đều thầm về, hay làm mẹ của nghìn bậc Thánh. Độc tôn độc quý không gì sánh bằng. Thật là nguồn của đại đạo, là chân pháp yếu vậy. Tin tâm này, nên ba đời Bồ-tát đồng học là học tâm này. Ba đời chư Phật đồng chứng là chứng tâm này. Một đại tạng giáo giải rõ là hiển tâm này. Tất cả chúng sanh mê vọng là mê tâm này. Tất cả hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm này. Chư Tổ truyền nhau là truyền tâm này. Chư Tăng trong thiên hạ đều tham học là tham học tâm này. Đạt tâm này thì mỗi mỗi đều phải, vật vật đều toàn bày. Mê tâm này thì nơi nơi đều điên đảo, niệm niệm đều si cuồng”.

Thể này là Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh, là căn nguồn phát sanh của tất cả thế giới. Cho nên đức Thế Tôn ở ngọn Thứu Phong lặng thinh, ngài Thiện Hiện dưới ngọn núi quên lời, ngài Đạt Ma nơi Thiếu Thất ngó vách, ông cư sĩ thành Tỳ Da ngậm miệng. Tất cả đều phát minh diệu thể của tâm này. Cho nên, người mới vào cửa Tổ cần yếu trước tiên phải hiểu tâm thể này vậy.

4. Diệu Dụng Của Chân Tâm

HỎI: Diệu thể của Chân tâm đã biết. Diệu dụng của Chân tâm thế nào?

ĐÁP: Người xưa nói: “Gió động tâm lay cây, mây sanh tánh dấy bụi. Nếu sáng việc hôm naymê mất người xưa nay”. Đấy là diệu thể khởi ra tác dụng vậy. Diệu thể của Chân tâm xưa nay chẳng động, yên tịnh chân thường. Trên chân thể diệu dụng hiện tiền, chẳng ngại mọi trường hợp đều được diệu. Cho nên trong bài tụng của Tổ sư nói: “Tâm tùy muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật sâu xa, theo dòng nhận được tánh, không mừng cũng không lo”.

Cho nên trong tất cả thời, động dụng thi vi, đi đông đi tây, ăn cơm mặc áo… đều là diệu dụng của Chân tâm hiện tiền. Trái lại kẻ phàm phu mê lầm, khi mặc áo chỉ biết mặc áo, khi ăn cơm chỉ biết ăn cơm, tất cả sự nghiệp chỉ tùy tướng mà chuyển. Bởi dùng hằng ngày mà chẳng biết, ở trước mắt mà chẳng hay. Nếu người được tánh thì động dụng thi vi chẳng từng mê. Cho nên, Tổ sư nói: “Trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người, ở mắt thì thấy, ở tai thì nghe, ở mũi thì ngửi mùi, ở miệng thì đàm luận, ở tay thì nắm bắt, ở chân thì chạy nhảy. Khi biến hiện thì cùng khắp pháp giới, thu nhiếp lại thì chỉ trong hạt bụi. Người biết cho đó là Phật tánh, người chẳng biết gọi là tinh hồn”.

Thế nên Đạo Ngô múa hốt, Thạch Cũng dương cung, Bí Ma đập nạng, Câu Chi giơ ngón tay, Hân Châu đánh đất, Vân Nham sư tử. Đấy là phát minh ra những đại dụng lớn vậy. Nếu việc hằng ngày chẳng mê thì tự nhiên tung hoành tự tại.

5. Thể Dụng Của Chân Tâm Một Hay Khác?

HỎI: Thể dụng của Chân tâm chưa biết là một hay khác?

ĐÁP: Đứng về mặt tướng thì chẳng phải một. Đứng về mặt tánh thì chẳng phải khác. Cho nên thể dụng của tâm này chẳng phải một chẳng phải khác. Tại sao thế? Thử vì ông bàn đó:

Diệu thể thì bất động, dứt mọi đối đãi và lìa tất cả tướng. Người chưa đạt tánh khế chứng không thể lường được lý này.

Diệu dụng tùy duyên ứng khắp muôn loài, vọng lập ra hư tướng, giống như có hình trạng. Nhằm vào hữu tướng, vô tướng này nên chẳng phải một.

Lại, dụng từ thể phát ra, dụng không lìa thể. Thể hay phát dụng, thể chẳng lìa dụng. Nhằm vào cái lý bất tương ly này, nên chẳng phải khác. Như nước lấy tánh ướt làm thể, thể thì không động. Sóng lấy động làm tướng, vì nhơn gió mà dấy khởi. Tánh nước, tướng sóng, động với chẳng động, nên chẳng phải một.

Nhưng ngoài sóng không có nước, ngoài nước không có sóng. Tánh ướt là một nên chẳng phải khác. Xét trên thể dụng một hay khác có thể biết vậy.

6. Chân Tâm Trong Mê

HỎI: Thể dụng của Chân tâm mọi người đều có đủ. Vì sao nơi Thánh phàm chẳng đồng?

ĐÁP: Nơi Thánh phàm Chân tâm vốn đồng, vì phàm phu vọng tâm nhận vật, nên mất tự tánh thanh tịnh, do đây bị ngăn cách. Thế nên Chân tâm không được hiện tiền. Ví như bóng cây trong tối, dòng nước chảy ngầm dưới đất, có nhưng không biết.

Trong Kinh nói: “Này Thiện nam tử! Như viên Ma ni bảo châu thanh tịnh chiếu ra năm sắc, tuỳ chỗ mà hiện. Kẻ ngu si thấy ma ni châu kia thật có năm sắc. Thiện nam tử! Tánh tịnh viên giác hiện ở thân tâm, tuỳ loại mà có ứng hiện. Kẻ ngu si kia nói tánh tịnh viên giác thật có thân tâm như thế. Tự tánh cũng lại như vậy”.

Trong Triệu Luận nói: “Bên trong của càn khôn, khoảng giữa của vũ trụ, trong ấy có một vật báu ngầm giấu trong hình sơn”. Đấy là Chân tâm tại triền vậy.

Lại, Từ Ân nói: “Pháp thân sẵn có, chư Phật đều đồng. Phàm phu bị vọng che, nên có mà chẳng biết. Phiền não cột ở trong nên gọi Như Lai Tàng”.

Bùi Hưu nói: “Suốt ngày viên giác mà chưa từng viên giác, ấy là phàm phu vậy”.

Nên biết, Chân tâm tuy ở trần lao mà không bị trần lao làm nhiễm. Như bạch ngọc ném vào bùn, màu sắc không đổi.

7. Chân tâm Và Sự Dứt Vọng

HỎI: Chân tâm nơi vọng là phàm phu. Vậy làm thế nào thoát vọng để thành Thánh?

ĐÁP: Người xưa nói: “Vọng tâm không chỗ nơi tức là Bồ-đề, Niết-bàn và sanh tử vốn bình đẳng”.

Kinh nói: “Chúng sanh kia thân huyễn diệt, nên tâm huyễn cũng diệt. Tâm huyễn diệt nên huyễn trần cũng diệt. Huyễn trần diệt, nên huyễn diệt cũng diệt. Huyễn diệt diệt rồi, nên cái phi huyễn chẳng hề diệt. Ví như lau gương, bụi nhơ hết thì ánh sáng hiện”.

Ngài Vĩnh Gia nói: “Tâm là căn, pháp là trần. Cả hai như vết nhơ trên gương, vết nhơ hết, ánh sáng mới hiện. Tâm pháp đều quên, tánh ấy tức chân”.

Đấy là ra khỏi vọng thì thành chân.

HỎI: Trang Sinh nói: “Tâm ấy nóng thì cháy lửa, lạnh thì đóng băng, mau thì khoảng cúi ngước, lại hay vỗ về ngoài bốn bể, chỗ ở của nó sâu mà tĩnh. Khi nó động thì huyền mà thiên. Đấy là chỉ cho tâm của con người vậy”.

Trang Sinh nói cái tâm của kẻ phàm phu không thể trị phục như thế. Chưa biết nhà Thiền dùng phương pháp gì để điều phục vọng tâm?

ĐÁP: Lấy pháp vô tâm để trị vọng tâm.

HỎI: Người vô tâm chẳng khác cây cỏ. Xin lập bày phương tiện về thuyết vô tâm?

ĐÁP: Nay nói vô tâm ấy chẳng phải thể của nó vô tâm mà gọi là vô tâm. Chỉ trong tâm không vật nên gọi là vô tâm. Thí như nói: Bình không là do trong bình không có vật gì, nên gọi là bình không, chớ chẳng phải thể của bình là không nên gọi là bình không.

Cho nên Tổ sư nói: “Ngươi chỉ nơi tâm vô sự, nơi sự vô tâm, thì tự nhiên rỗng mà mầu, tịch mà diệu”. Đấy là yếu chỉ của tâm vậy.

Căn cứ đây mà xét thì không vọng tâm, chớ không phải không có Chân tâm diệu dụng. Từ xưa đến nay chư Tổ đã nói đến thực hành công phu vô tâm, chủng loại không đồng nhau. Nay đại khái tóm nêu ra mười loại.

7.1 Giác Sát: Nghĩa là khi hành công phu, bình thường phải dứt niệm và đề phòng niệm khởi. Một niệm vừa sanh liền dùng giác mà phá nó. Vọng niệm phá rồi, biết niệm sau chẳng sanh, cái giác trí này cũng không dùng tới nữa. Lúc ấy, vọng giác đều mất nên gọi là vô tâm. Nên Tổ sư nói: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Lại kệ rằng:

Chẳng dụng cầu chân,

Chỉ nên dứt kiến.

Đây là công phu dứt vọng.

7.2. Hưu Kiệt: Nghĩa là khi hành công phu chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tâm vừa khởi liền thôi, gặp duyên liền dứt. Người xưa nói: “Một mảnh lụa trắng đi! Lạnh như đất đi! Lò hương trong miếu cổ đi! Thẳng đến chỗ dứt lìa không còn một mảy may phân biệt, như ngây như dại mới có chút phần tương ưng”. Đấy là công phu dứt sạch vọng tâm vậy.

7.3. Dẫn tâm tồn cảnh: Nghĩa là khi hành công phu, nên dứt hết tất cả vọng niệm. Chẳng đoái đến ngoại cảnh, chỉ tự dứt tâm mình thôi. Vọng tâm đã dứt lo gì có cảnh. Đây là pháp môn mà người xưa gọi là “Đoạt nhơn bất đoạt cảnh”. Cho nên ngạn ngữ có câu: “Nơi đây đầy hoa thơm cỏ lạ mà người xưa không có”. Bàng Công nói: “Chỉ tự mình vô tâm với muôn vật, lo gì muôn vật thường khuấy phá”. Đây là công phu dứt vọng hết tâm còn cảnh.

7.4. Dẫn cảnh tồn tâm: Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả cảnh trong, cảnh ngoài đều quán là không-tịch, chỉ còn lại một tâm độc lập một mình. Cho nên người xưa nói: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, cũng chẳng cùng các trần đối đãi”. Tâm nếu chấp cảnh, tâm tức là vọng, nay đã không cảnh thì vọng nào có được? Đấy là Chân tâm độc chiếu chẳng chướng ngại nơi đạo. Tức người xưa gọi là pháp môn “Đoạt cảnh bất đoạt nhơn”. Cho nên có câu: “Vườn trên hoa đã rụng, xe ngựa vẫn còn đy”. Lại cũng có câu: “Ba ngàn kiếm khách nay đâu tá, chỉ kế Trang Chu định thái bình”. Đây là công phu dứt vọng hết cảnh còn tâm. 

7.5. Dẫn tâm dẫn cảnh: Nghĩa là khi hành công phu, trước quán ngoại cảnh đều không-tịch, kế đó diệt nội tâm. Khi nội tâm ngoại cảnh đều lặng thì vọng từ đâu mà có được. Cho nên Quán Khê nói: “Mười phương không vách đổ, bốn phía cũng không cửa, sạch trọi trơn, bày trơ trơ”. Tức pháp môn mà người xưa gọi Nhơn cảnh lưỡng câu đoạt. Cho nên có câu: “Mây tan nước trôi chảy, lặng lẽ trời đất không”. Lại có câu: “Người trâu đều chẳng thấy, chính lúc vầng trăng trong”. Đây là công phu dứt vọng tâm hết cảnh hết.

7.6. Tồn tâm tồn cảnh: Nghĩa là khi hành công phu, để tâm trụ trong vị trí của tâm, cảnh trụ vị trí của cảnh. Có khi tâm và cảnh đối nhau, thì tâm chẳng thủ cảnh, cảnh chẳng đến tâm, mỗi mỗi chẳng đến nhau, tự nhiên vọng niệm chẳng sanh, nơi đạo chẳng ngại. Cho nên Kinh nói: “Pháp ấy trụ nơi bản vị của nó. Tướng của thế gian thường trụ”. Tức là pháp môn Nhơn cảnh câu bất đoạt của Tổ sư. Cho nên có câu: “Một mảnh trăng rộng chiếu, bao nhiêu người lên lầu”. Lại cũng có câu: “Hoa núi ngàn muôn đóa, lãng tử chẳng biết về”. Đây là công phu diệt vọng còn tâm còn cảnh.

7.7. Nội ngoại toàn thể: Nghĩa là khi hành công phu, quán thấy sơn hà đại địa, trời trăng sao, nội thân ngoại thân, tất cả các pháp đều đồng một thể Chân tâm trạm nhiên hư minh, không tí sai khác. Đại thiên sa giới gồm thành một mảnh, lại ở chỗ nào khởi vọng tâm? Cho nên Triệu Pháp Sư nói: “Trời đất cùng ta đồng nguồn, muôn vật cùng ta đồng thể”. Đây là công phu diệt vọng nội ngoại toàn thể.

7.8. Nội ngoại toàn dụng: Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả thân tâm trong ngoài, các pháp trong thế giới và tất cả động dụng thi vi, trọn thấy là diệu dụng của Chân tâm. Tất cả tâm niệm vừa sanh là diệu dụng hiện tiền, vọng tâm chỗ nào mà an trí. Cho nên Vĩnh Gia nói: “Thật tánh vô minh là Phật tánh, thân không huyễn hóa tức Pháp thân”. Trong Chí Công Thập Nhị Thời Ca nói: “Thường buổi sớm, máy cuồng ẩn chứa Đạo Nhơn thân, ngồi nằm chẳng biết nguyên là đạo, chỉ thế luống mà chịu đắng cay”. Đây là công phu dứt vọng nội ngoại toàn dụng.

7.9. Tức thể tức dụng: Nghĩa là khi hành công phu, tuy thầm hợp với chân thể, chỉ một vị không-tịch nhưng mà nơi trong ẩn một cái linh minh, nên thể tức dụng. Trong cái linh minh ẩn cái không-tịch, nên dụng tức thể. Cho nên Vĩnh Gia nói: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng quấy. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, vô ký lặng lặng sai”. Đã trong cái lặng lẽ không dung vô ký, trong cái tỉnh táo không dung loạn tưởng, thì vọng tâm làm sao sanh được? Đây là công phu diệt vọng tức thể tức dụng.

7.10. Thấu xuất thể dụng: Nghĩa là khi hành công phu, chẳng phân trong ngoài, chẳng phân biệt đông tây, nam bắc. Đem bốn phương tám mặt, chỉ làm một môn “đại giải thoát viên đà đà địa”. Thể dụng chẳng phân, không một mảy may rỉ lậu. Suốt thân gồm thành một mảnh, vọng kia chỗ nào khởi được? Người xưa nói: “Suốt thân không đường nứt, trên dưới đều tròn trịa”. Đây là công phu diệt vọng thấu xuất thể dụng.

Mười phương pháp công phu trên chẳng nên dùng cả, mà chỉ một môn cho được thành tựu, thì cái vọng tâm kia tự nhiên tiêu diệt, Chân tâm hiện tiền. Tuỳ căn cơ đã huân tập từ trước, xem thích hợp với pháp nào, nên tập pháp đó.

Công phu ở đây là công mà không công, chẳng để tâm dụng sức. Cái pháp môn thôi dứt vọng tâm này rất tối trọng yếu. Pháp môn diệt vọng còn nhiều, sợ văn rườm nên chỉ lược thôi.

8. Chân Tâm Với Bốn Oai Nghi

HỎI: Trên đã nói cách dứt vọng, nhưng chưa biết chỉ ngồi tập hay thông cả bốn oai nghi?

ĐÁP: Các Kinh Luận phần nhiều nói ngồi tập, vì ngồi dễ thành công hơn, nhưng cũng thông cả bốn oai nghi, tập lần lần rồi từ từ được thuần thục.

Luận Khởi Tín nói: “Người tu Chỉ, nên ở chỗ tịnh ngồi ngay thẳng giữ ý chân chánh. Chẳng nương tựa vào hơi thở, chẳng nương vào hình sắc, chẳng nương vào không, chẳng nương vào đất nước gió lửa. Cho đến chẳng nương vào thấy, nghe, hay, biết. Tất cả các tưởng tùy niệm đều trừ, cũng nên dẹp luôn cái tưởng trừ, vì tất cả pháp xưa nay vốn vô tưởng, niệm niệm chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng chẳng được tùy tâm niệm cảnh giới bên ngoài. Sau rốt lấy tâm trừ tâm, tâm nếu chạy rong liền kéo về trụ nơi chánh niệm. Chánh niệm là chỉ có tâm chớ không có cảnh giới bên ngoài. Lại tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thật có. Nếu từ ngồi, đứng, đi lại, tới lui, tất cả động tác thi vi, trong tất cả thời thường nhớ phương tiện tùy thuận mà quán sát, tập lâu ngày được thuần thục thì tâm ấy được an trụ. Do tâm an trụ nên lần lần bén nhạy. Thuận theo đó mà được nhập vào Chân như Tam Muội. Dẹp sạch phiền não, lòng tin tăng trưởng, mau thành quả bất thối. Chỉ trừ hạng người nghi hoặc chẳng tin, bài báng, tội nặng, nghiệp chướng, ngã mạn, giải đãi. Những hạng người này chẳng đặng vào”.

Theo đây mà xét thì thông cả bốn oai nghi.

Kinh Viên Giác nói: “Trước nương theo hạnh Xa-ma-tha (Chỉ) của Như Lai, kiên trì cấm giới, yên ở trong đồ chúng, yên ngồi trong tịnh thất”. Đấy là mới tập.

Vĩnh Gia nói: “Đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền. Nói nín động tịnh thể an nhiên”. Đây là thông cả bốn oai nghi.

Tóm lại, dùng sức ngồi còn chẳng thể dứt được tâm, huống là đi đứng v.v… há hay vào đạo ư? Nếu là người dụng tâm thuần thục, thì ngàn Thánh đi đến còn chẳng đứng dậy, muôn loài ma kéo lại còn chẳng thèm nhìn. Huống là trong đi đứng… chẳng hay hành công phu sao? Như người oán thù kẻ khác, nhẫn đến đi đứng, nằm ngồi, ăn uống… trong tất cả thời còn không thể quên được. Sự thương mến kẻ khác cũng lại như thế. Vả lại, việc yêu ghét là việc hữu tâm, còn ở trong hữu tâm hiện tiền được. Nay hành việc công phu là việc vô tâm, lại nghi gì ở trong bốn oai nghi chẳng thường hiện tiền ư? Chỉ sợ chẳng tin chẳng làm, nếu làm nếu tin, thì ở trong các oai nghi đạo ắt hiện tiền.

9. Chỗ Ở Của Chân Tâm

HỎI: Dứt vọng tâm thì Chân tâm hiện. Nói thế thì thể dụng của Chân tâm nay ở chỗ nào?

ĐÁP: Diệu thể của Chân tâm khắp cả chỗ. Vĩnh Gia nói: “Chẳng rời hiện tại thường lặng lẽ. Còn tìm tức biết anh chưa thấy”. Kinh nói: “Tánh như hư không thường chẳng động, trong Như Lai Tạng chẳng khởi, chẳng diệt”. Đại Pháp Nhãn nói: “Nơi nơi đường Bồ-đề, chốn chốn rừng công đức”. Đây là chỗ ở của thể.

Diệu dụng của Chân tâm tuỳ cảm, tùy hiện, như vang theo tiếng. Pháp Đăng nói: “Xưa nay theo chẳng rời, rõ ràng nơi trước mặt. Cụm mây sanh hang tối. Cô hạc đáp trời xa”.

Ngụy Phủ Nguyên Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp ở chỗ việc hằng ngày, chỗ đi đứng ngồi nằm, chỗ ăn cơm uống trà, chỗ nói năng hỏi đáp. Các hành động ấy mà khởi tâm động niệm thì không phải”.

Cho nên, thể thì biến khắp mọi nơi, trọn hay khởi dụng. Chỉ vì nhân duyên có, không chẳng nhất định, cho nên diệu dụng cũng chẳng định, chớ chẳng phải không diệu dụng. Người tu tâm muốn vào biển vô vi vượt các sanh tử, chớ mê lầm chỗ ở của thể dụng Chân tâm.

10. Chân tâm Và Việc Sanh Tử

HỎI: Thường nghe người kiến tánh ra khỏi sanh tử, nhưng từ xưa chư Tổ là người kiến tánh sao đều có sanh tử? Nay hiện thấy người tu trong đời đều có chết sống. Thế sao nói rằng ra khỏi sanh tử?

ĐÁP: Sanh tử vốn không, do vọng nên thấy có. Như người đau mắt thấy trong hư không có hoa đốm. Người không đau nói trong hư không chẳng có hoa. Người đau mắt không tin. Nếu mắt hết đau thì cái thấy hoa trong hư không cũng tự hết. Lúc ấy mới tin rằng hoa vốn không. Lúc hoa chưa diệt, hoa kia cũng không. Chỉ người bệnh vọng chấp là hoa, chớ chẳng phải thể nó thật có.

Như người vọng nhận sanh tử là có thật. Nếu người không sanh tử bảo rằng: “Vốn không sanh tử”. Một mai người ấy vọng dứt, sanh tử tự trừ, mới biết việc sanh tử xưa nay vốn là không. Ngay lúc sanh tử chưa dứt cũng chẳng phải thật có. Do vọng nên nhận có sanh tử thôi.

Kinh nói: “Thiện nam tử, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều lớp. Như người mê bốn hướng đổi chỗ. Vọng nhận tứ đại làm tướng của tự thân, sáu trần duyên bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người đau mắt thấy hoa giữa hư không. Cho đến các hoa đốm ấy diệt trong hư không. Không thể nói quyết rằng có chỗ diệt. Vì sao? Vì không chỗ sanh vậy. Tất cả chúng sanh nơi vô sanh vọng thấy có sanh diệt. Cho nên gọi là luân chuyển sanh tử”.

Cứ theo Kinh này tin biết rằng đạt ngộ Chân tâm vốn không sanh tử. Nay biết không sanh tử mà không thể thoát sanh tử, vì công phu không đến vậy. Cho nên trong Kinh nói: “Am Bà Nữ hỏi Văn Thù rằng: Rõ biết sanh là pháp chẳng sanh, vì sao lại bị sanh tử cuốn trôi? Văn Thù đáp: Vì sức kia chưa đầy đủ”.

Sau này Tiến Sơn chủ hỏi Tu Sơn chủ rằng: “Rõ biết sanh là pháp chẳng sanh, vì sao lại bị sanh tử cuốn trôi?”. Tu Sơn chu đáp: “Măng trọn thành tre, như nay khiến làm phên được chăng?“. Thế nên Biết không sanh tử, chẳng bằng Thể không sanh tử. Thể không sanh tử chẳng bằng Khế không sanh tử. Khế không sanh tử chẳng bằng Dụng không sanh tử. Người nay còn chẳng biết không sanh tử, huống là thể không sanh tử, khế không sanh tử, dụng không sanh tử? Người nhận sanh tử, không tin pháp không sanh tử cũng vậy.

11. Chân Tâm Và Chánh Trợ

HỎI: Như trước đã nói dứt vọng thì Chân tâm hiện tiền. Khi vọng chưa dứt, thì chỉ hành công phu vô tâm để hết vọng. Lại còn có pháp nào khác có thể đối trị các vọng không?

ĐÁP: Có chánh tu và trợ tu sai khác nhau. Lấy vô tâm dứt vọng làm chánh, lấy các hành động lành làm trợ. Thí như gương sáng bị bụi che lấp, lấy sức tay lau chùi, nhưng cũng cần thêm thuốc để chùi thì ánh sáng mới dễ hiện. Bụi nhơ là phiền não. Sức tay là vô tâm. Thuốc là các việc lành. Ánh sáng của gương là Chân tâm.

Trong Luận Khởi Tín nói: “Lại nữa, có người do lòng tin thành tựu mà phát tâm, lại phát tâm gì? Lược có ba loại:

1. Trực tâm là pháp chánh niệm Chân như.

2. Thâm tâm là gồm các pháp lành.

3. Đại bi tâm là muốn nhổ tất cả khổ não cho chúng sanh.

HỎI: Trên đã nói pháp giới một tướng, Phật thể không hai, cớ sao chỉ một niệm Chân như, mà lại nhờ cầu học các việc lành nữa?

ĐÁP: Ví như có hạt ma ni báu lớn, sáng trong mà có lẫn quặng nhơ. Như người tuy biết nó có tánh quí, mà chẳng dùng phương tiện để mài giũa, trọn không thể trong sáng được. Vì nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả hạnh lành. Cũng như vậy, pháp Chân như thể tánh không lặng mà có vô lượng phiền não nhiễm nhơ. Nếu người tuy niệm Chân như màchẳng dùng các phương tiện để huân tập, cũng không được tịnh, vì nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả thiện hạnh để đối trị. Nếu người tu, hành tất cả pháp lành, thì tự nhiên quy thuận pháp Chân như.

Theo đây mà xét, lấy thôi hết vọng tâm làm chánh, tu các pháp lành làm trợ. Nếu khi tu thiện nên cùng với vô tâm khế hợp nhau, chẳng chấp trước nhân quả. Nếu chấp trước nhân quả bèn rơi vào phàm phu, trong phước báo nhơn thiên, khó chứng Chân như, chẳng thoát sanh tử. Nếu cùng vô tâm tương ưng ấy là chứng Chân như. Đây là thuật khéo làm phương tiện thoát sanh tử, lại gồm phước đức rộng rãi. Trong Kinh Kim Cang Bát-nhã nói: “Tu-bồ-đề, Bồ-tát không trụ tướng bố thí, thì phước đức vị ấy không nghĩ lường được”.

Nay thấy người đời có tham thiền học đạo. Vừa biết được bổn lai Phật tánh, bèn tự thị nơi thiên chân chẳng tập làm các việc lành. Như vậy, đâu chỉ chẳng đạt Chân tâm, mà trở lại thành giải đãi, đường ác còn chẳng khỏi, huống là thoát sanh tử? Cái chấp này rất lầm!

12. Công Đức Của Chân Tâm

HỎI: Hữu tâm tu nhơn công đức chẳng còn nghi. Vô tâm tu nhơn công đức từ đâu đến?

ĐÁP: Hữu tâm tu nhơn được quả hữu vi. Vô tâm tu nhơn được công đức hiển tánh. Các công đức này xưa nay tự đầy đủ, do vọng che cho nên không hiện, nay vọng đã trừ công đức hiện tiền. Cho nên Vĩnh Gia nói: “Ba thân bốn trí tròn trong thể, tám giải sáu thông ấn đất tâm”. Thế là trong thể tự nó đầy đủ tánh công đức. Trong cổ tụng có câu: “Nếu người tịnh toạ một tí thôi, hơn tạo hằng sa tháp bảy báu. Tháp báu trọn lại hoá vi trần, một niệm tịnh tâm thành chánh giác”. Cho nên vô tâm công đức lớn hơn hữu tâm.

Hòa thượng Thuỷ Lạo ở Hồng Châu đến thavấn Mã Tổ. Hỏi: “Ý chỉ của Tổ sư từ Ấn sang như thế nào?”. Bị Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Bỗng nhiên phát ngộ. Đứng dậy vỗ tay cười lớn nói rằng: “Lạ thay! Lạ thay! Trăm ngàn tam muội, vô lượng diệu nghĩa chỉ trên đầu một mảy lông”. Liền một lúc hiểu được căn nguyên, bèn làm lễ rồi lui. Cứ theo đây thì công đức không từ ngoài đến, mà nó vốn tự đầy đủ.

Tứ Tổ bảo Lại Dung Thiền sư(1)rằng: “Phàm trăm ngàn pháp môn chỉ đồng về trong gang tấc, công đức như hằng sa gồm lại nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới định huệ thần thông biến hoá, trọn tự đủ chẳng lìa tâm ông”. Cứ theo lời Tổ sư, vô tâm công đức rất nhiều. Chỉ có người thích công đức nơi sự tướng, nên công đức vô tâm họ không tự tin.

13. Kinh Nghiệm Chân Tâm

HỎI: Chân tâm hiện tiền, thế nào biết Chân tâm được thành thục vô ngại?

ĐÁP: Người học đạo khi đã được Chân tâm hiện tiền, nhưng tập khí chưa trừ, nếu gặp cảnh quen thuộc có lúc thất niệm. Như chăn trâu, tuy điều phục nó, dẫn dắt nó đến chỗ như ý rồi, mà còn chẳng dám buông dây dàm và roi. Đợi đến tâm nó điều phục, bước đi ổn thỏa, dù chạy vào lúa mạ cũng không hại đến lúa mạ, lúc ấy mới dám buông tay. Đến lúc này chú mục đồng không còn dùng dây dàm và roi nữa, tự nhiên con trâu không hại đến lúa mạ.

Như đạo nhân sau khi nhận được Chân tâm, trước lại dụng công bảo dưỡng, đến khi có lực dụng lớn, mới có thể lợi sanh. Nếu muốn kinh nghiệm Chân tâm này, thì trước đem những cảnh mà bình thường mình yêu thích, luôn tưởng ở trước mặt. Nếu nương theo cảnh đó khởi tâm yêu ghét, thì tâm đạo chưa thuần thục. Nếu chẳng khởi tâm yêu ghét thì tâm đạo đã thuần thục. Tuy nhiên được thuần thục như vậy, mà còn chưa phải tự nhiên chẳng khởi yêu ghét. Lại phải kinh nghiệm một lần nữa. Như khi gặp cảnh yêu ghét, lúc ấy khởi tâm yêu ghét và khiến thủ cảnh yêu ghét ấy. Nếu tâm chẳng khởi là tâm vô ngại. Như trâu trắng nằm sờ sờ chẳng tổn hại lúa mạ.

Xưa có vị mắng Phật mạ Tổ, ấy là cùng tâm này tương ưng. Nay thấy có người mới vào Tông môn này, chưa biết đạo gần hay xa, liền học mắng Phật mạ Tổ. Thật tính ra quá sớm vậy.

14. Chân tâm Vô Tri

HỎI: Chân tâm cùng vọng tâm khi đối cảnh làm sao phân biệt chân vọng?

ĐÁP: Vọng tâm đối cảnh có biết, nhưng mà biết nơi cảnh thuận nghịch rồi khởi tâm tham sân. Lại ở trong đó chứa cảnh rồi khởi tâm si. Nơi cảnh khởi ba độc tham sân si, đủ rõ là vọng tâm. Tổ sư nói: Nghịch thuận tranh nhau là tâm bệnh”. Cho nên, đối với cảnh phải hay chẳng phải đều là vọng tâm cả.

Còn Chân tâm không biết mà biết, chiếu khắp bình đẳng nên khác với cây cỏ. Chẳng sanh yêu ghét nên khác với vọng tâm. Tức đối cảnh rỗng sáng, chẳng yêu chẳng ghét, chẳng biết mà biết ấy là Chân tâm.

Trong Triệu Luận nói: Thánh tâm ấy vi diệu vô tướng nên chẳng có. Dụng nó thì đầy sự cần dùng nên chẳng thể là không. Cho đến, chẳng có, nên biết mà không biết; chẳng không, nên không biết mà biết. Vì thế nên không biết tức biết. Bất đắc dĩ nói khác với tâm của Thánh nhơn vậy”.

Lại vọng tâm nơi có chấp có, nơi không chấp không, thường ở hai bên chẳng biết trung đạo. Vĩnh Gia nói: “Bỏ vọng tâm giữ chân lý, tâm lấy bỏ thành xảo ngụy, người học chẳng rõ dụng tu hành, lâu thành nhận giặc lấy làm con”. Nếu là Chân tâm thì ở trong hữu vô mà không rơi vào hữu vô, thường ở trung đạo.

Tổ sư nói: “Chẳng đuổi hữu duyên, chớ trụ không nhẫn, một mực bình đẳng tuyệt nhiên tự sạch“.

Triệu Luận nói: “Thánh nhân làm việc có mà chẳng có. Ở trong không mà chẳng không. Tuy không chấp có không mà chẳng bỏ có không. Hoà mình trong trần lao, dạo khắp ngũ thú, lặng lẽ mà đi, rõ ràng mà đến, nhạt nhẽo không làm mà không gì chẳng làm”.

Đây là nói bậc Thánh nhơn duỗi tay vì người, đi khắp ngũ thú để tiếp dẫn giáo hóa chúng sanh. Tuy tới lui mà không ở trong tướng tới lui. Vọng tâm chẳng phải thế. Cho nên Chân tâm vọng tâm không đồng. Lại Chân tâm là tâm bình thường, vọng tâm là tâm bất bình thường.

HỎI: Sao gọi là tâm bình thường?

ĐÁP: Mọi người đều có đủ một điểm linh minh, trạm nhiên như hư không, biến khắp mọi nơi. Đối với việc thế tục tạm gọi là lý tánh. Đối với vọng thức quyền gọi là Chân tâm. Không một mảy may phân biệt, gặp duyên chẳng lầm. Không một niệm lấy bỏ, chạm vật đều khắp, chẳng theo cảnh dời đổi. “Giả sử theo dòng được diệu. Chẳng lìa hiện tại lặng yên. Còn tìm tức biết anh chưa thấy” Đấy tức là Chân tâm vậy.

HỎI: Sao gọi là tâm bất bình thường?

ĐÁP: Cảnh có Thánh phàm, nhiễm tịnh, đoạn thường, lý sự, sanh diệt, động tĩnh, khứ lai, tốt xấu, thiện ác, nhân quả. Nếu nhỏ nhặt mà kể ắt có ngàn sai muôn khác. Nay nêu ra mười đôi đều gọi là cảnh bất bình thường. Tâm theo cảnh bất bình thường này mà sinh, theo cảnh bất bình thường này mà diệt. Tâm cảnh bất bình thường đối với Chân tâm bình thường ở trước, nên gọi là vọng tâm bất bình thường. Chân tâm vốn đủ, chẳng theo cảnh bất bình thường mà khởi các sự sai biệt. Cho nên gọi là Chân tâm bình thường.

HỎI: Chân tâm bình thường không có các nhơn khác, thế sao Phật nói nhân quả thiện ác báo ứng?

ĐÁP: Vọng tâm chạy theo các cảnh, nhưng chẳng rõ các cảnh, nên khởi các tâm. Phật nói các pháp nhân quả để trị các vọng tâm, nên cần lập nhân quả. Nếu Chân tâm này chẳng đuổi theo các cảnh, do đó chẳng khởi các tâm, thì Phật cũng chẳng nói các pháp, làm sao có nhân quả?

HỎI: Chân tâm bình thường chẳng sanh ư?

ĐÁP: Chân tâm có lúc khởi dụng, nhưng chẳng phải theo cảnh mà sanh, chỉ là diệu dụng du hí, chẳng lầm nhân quả.

15. Chỗ Đến Của Chân Tâm

HỎI: Người chưa đạt Chân tâm, do mê Chân tâm nên làm nhơn thiện ác. Do làm thiện nhơn nên sanh trong thiện đạo. Do làm ác nhơn nên vào trong ác đạo, theo nghiệp thọ sanh, lý này chẳng nghi. Nếu người đạt Chân tâm, vọng tình cạn hết, khế chứng Chân tâm không nhơn thiện ác. Vậy điểm linh của thân sau gá nương vào chỗ nào?

ĐÁP: Chớ bảo có chỗ gá nương là hơn không chỗ gá nương. Lại cũng chớ cho không chỗ gá nương, đồng với phiêu linh lãng tử ở thế gian, giống như loài quỷ, cô hồn vô chủ. Đặc biệt nêu câu hỏi này là mong có sự gá nương chớ gì?

– Đúng thế.

– Người đạt tánh thì chẳng đúng, tất cả chúng sanh do mê giác tánh nên vọng tình ái niệm kết nghiệp làm nhơn, sanh trong lục thú thọ quả báo thiện ác. Giả như thiên nghiệp là nhơn chỉ được có thiên quả. Trừ chỗ phù hợp với nghiệp mà sanh, ngoài ra chẳng được thọ dụng. Các cõi đều như thế. Đã từ nghiệp kia nên chỗ phù hợp sanh cho là vui, chỗ chẳng phù hợp sanh cho là khổ. Bởi chỗ phù hợp sanh là chỗ tự mình gá nương, chỗ chẳng phù hợp là chỗ người khác gá nương. Cho nên có vọng tình thì có vọng nhơn. Có vọng nhơn thì có vọng quả, có vọng quả thì có gá nương. Có gá nương thì phân ra kia đây. Phân ra kia đây thì có thích hay không thích.

Nay đạt Chân tâm khế hợp với giác tánh không sanh diệt, khởi ra diệu dụng không sanh diệt. Diệu thể chân thường vốn không sanh diệt, diệu dụng tùy duyên như có sanh diệt. Nhưng từ thể sanh ra dụng nên dụng ấy tức là thể. Có gì là sanh diệt? Người đạt đạo tức là chứng chân thể, nên sự sanh diệt kia có can hệ gì? Như nước lấy tánh ướt làm thể, sóng mòi làm dụng. Tánh ướt nguyên không sanh diệt, nên tánh ướt trong sóng mòi nào sanh diệt ư? Nhưng sóng lìa tánh ướt cũng không riêng có, nên sóng cũng không sanh diệt. Người xưa nói: “Khắp cõi nước là mắt của Sa-môn, khắp cả nước là già lam”. Khắp mọi nơi là chỗ an thân lập mệnh của người ngộ lý. Người đạt Chân tâm thì tứ sanh lục đạo một chốc liền tiêu tan. Sơn hà đại địa đều là Chân tâm. Chẳng thể lìa Chân tâm này riêng có chỗ gá nương. Đã không ba cõi làm vọng nhơn, ắt không có sáu thú làm vọng quả. Vọng quả đã không nói gì gá nương? Không gá nương ắt không bỉ thử, đã không bỉ thử thì có gì là thích hay không thích?

Mười phương thế giới chỉ một Chân tâm, toàn thân thọ dụng không riêng gá nương. Lại đối với môn thị hiện thì tùy ý qua lại mà không chướng ngại. Trong Truyền Đăng có chép rằng: “Thượng Thơ Ôn Tháo hỏi Ngài Khuê Phong: Người ngộ lý một phen tuổi thọ hết, gá nương chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ cái linh minh giác tánh, cùng với chư Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh này tức là Pháp thân, vốn tự vô sanh có gì nương gá? Cái linh minh chẳng muội, rõ ràng thường biết, không chỗ đến cũng không chỗ đi. Chỉ lấy không-tịch làm tự thể, chớ nhận sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu dấy lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi ấy nghiệp tự nhiên không thể cột. Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự do. Cõi người cõi trời tùy ý gởi nương. Đây tức trước ngộ Chân tâm và chỗ đến của thân sau ấy vậy”.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.