Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa

19. Tổ Cưu-ma-la-đa



(Đầu thế kỷ thứ VIII sau Phật Niết-bàn)

Ngài dòng Bà-la-môn ở nước Nguyệt Chi. Gia đình Ngài trước kia giàu có, cha vì bệnh tham tiếc, chỉ một bề bo bo giữ của. Nhân việc con chó nằm ngoài rèm, gặp Tổ Già-da-xá-đa giải nghi, Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới.

Sau khi được Tổ Già-da-xá-đa phó chúc và truyền tâm pháp, Ngài đi vân du khắp nơi để hoằng pháp lợi sanh. Trên đường giáo hóa đến miền Trung Ấn, Ngài gặp một du khách tên Xà-dạ-đa đến lễ bái và thưa hỏi:

– Nhà con cha mẹ đều kính Tam Bảo, tu hành đúng pháp, mà sao nhiều bệnh hoạn, làm việc gì thất bại việc ấy. Hàng xóm gần nhà con, có người hung bạo giết hại làm ác càng ngày càng nhiều, mà thân thể khỏe mạnh, ra làm việc đều được như ý. Như vậy, nhân quả nghiệp báo đâu không phải nói suông ư? Con rất nghi lẽ này, mong Ngài giải nghi.

Ngài bảo:

– Phật nói nghiệp báo thông cả ba đời, bởi do đời trước tạo nghiệp lành nên đời này hưởng quả lành. Dù đời này có làm ác thì quả ác sẽ chịu ở đời sau. Cho nên, có người đời này tuy làm lành mà đời này không hưởng được quả lành, vì nghiệp ác trước mạnh hơn. Có người đời này tuy làm ác mà không chịu quả ác, vì nghiệp lành trước mạnh hơn. Nếu do đời này không được quả lành, rồi lại tạo ác, thì đời sau càng sa vào đường ác. Nếu do đời này được quả lành, rồi lại tạo lành, thì đời sau càng tiến trên đường lành.

Lại, có người đời trước làm lành được nửa đời, đổi sang làm ác, đến đời này, nửa đời trước hưởng phước, nửa đời sau mắc họa.

Hiện nay cha mẹ ông và người hàng xóm, lẽ báo ứng thiện ác cũng giống như thế, bởi nghiệp đời trước chiêu cảm nên vậy. Đâu thể căn cứ trong hiện đời mà hiểu được?

Xà-dạ-đa nghe giải liền tan hết nghi ngờ.

Ngài dạy thêm:

– Tuy ông đã tin nghiệp ba đời, mà chưa rõ nghiệp từ hoặc sanh, hoặc nhân thức có, thức y nơi bất giác, bất giác y nơi tâm. Song tâm vốn thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn kém, lặng lẽ linh thông. Ông nếu vào pháp môn này có thể đồng với chư Phật, tất cả thiện ác, hữu vi vô vi, đều như mộng huyễn.

Xà-dạ-đa nghe được lời này liền phát huệ đời trước, bèn xin xuất gia.

Ngài hỏi: – Ông người xứ nào? Cha mẹ còn chăng? Nếu thật tâm cầu đạo, nên trở về nhà xin với cha mẹ, xin xong trở lại cũng chẳng muộn.

Xà-dạ-đa thưa: – Con là người Bắc Ấn, cách đây hơn 3.000 dặm, đâu thể trở lại được. Xin thỉnh Ngài đến xứ con, cho gia đình con cúng dường và nhân đó con được xuất gia.

Ngài bằng lòng, thầy trò và đồ chúng đồng sang Bắc Ấn. Đến nhà, Xà-dạ-đa xin phép cha mẹ được xuất gia. Ngài làm lễ xuất gia và truyền giới Cụ túc cho Xà-dạ-đa tại một ngôi tháp cổ, nơi quê hương của Xà-dạ-đa.

Một hôm, Ngài gọi Xà-dạ-đa đến dặn dò:

– Xưa Phật ghi rằng ngươi sẽ làm Tổ thứ 20, nay ta trao pháp nhãn tạng cho ngươi, ngươi khéo giữ gìn và truyền bá. Nghe ta nói kệ:

Tánh thượng bản vô sanh,
Vị đối cầu nhân thuyết.
Ư pháp ký vô đắc,
Hà hoài quyết bất quyết.

Dịch:

Trên tánh vốn không sanh,
Vì đối người cầu, nói.
Nơi pháp đã không được,
Đâu cần giải chẳng giải.

Lại dặn:

– Kệ này là lời diệu, do Như Lai thấy tánh thanh tịnh nói ra, ngươi nên vâng giữ.

Xà-dạ-đa cung kính đảnh lễ vâng dạy.

Ngài ngồi ngay trên tòa chắp tay hở ra như hoa sen nở, phóng hào quang sáng suốt soi khắp trong chúng, rồi yên lặng thị tịch. Toàn chúng xây tháp phụng thờ.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.