Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa

18. Tổ Già-da-giá-đa



(Cuối thế kỷ thứ VII sau Phật Niết-bàn)

Ngài họ Uất-đầu-lam ở nước Ma-đề, cha hiệu Thiên Cái, mẹ là Phương Thánh. Bà Phương Thánh thọ thai, một đêm mộng thấy có người cầm cái gương báu đến nói: “Tôi đến.” Bà chợt tỉnh giấc, nghe toàn thân nhẹ nhàn thanh thản, khác hơn ngày thường. Trong nhà có mùi hương lạ, vài lằn hào quang xuất hiện. Bảy ngày sau, Bà sanh ra Ngài.

Thân Ngài trong sáng giống như lưu-ly. Ngài thích chỗ vắng vẻ, nói ra những lời siêu việt. Nhà cha mẹ Ngài ở trên núi Bảo-lạc-ca. Sau khi Ngài ra đời, ngôi nhà này luôn luôn có áng mây tía che trên không. Tổ Tăng-già-nan-đề nhân thấy áng mây ấy, tìm đến gặp Ngài. Từ đó, Ngài theo làm đệ tử Tổ.

Về sau, Ngài được Tổ truyền tâm ấn và thống lãnh đồ chúng. Tùy duyên, Ngài đi vân du khắp nơi để giáo hóa làm lợi ích cho quần sanh.

Khi tuổi đã già, Ngài du hóa đến nước Nguyệt Chi. Trong nước này có người dòng Bà-la-môn tên Cưu-ma-la-đa 30 tuổi, tu theo ngoại đạo, chủ thuyết tự nhiên. Ông có nuôi một con chó, mỗi khi ăn xong, con chó ra hành lang dưới tấm rèm nằm. Có những khi mưa gió ướt cả mình, mà nó vẫn nằm đó. Người nhà sợ nó lạnh đuổi đi chỗ khác, rồi nó cũng trở lại chỗ đó nằm. Ông Cưu-ma-la-đa lấy làm lạ, đem việc đó hỏi thầy ông, nhưng không giải được điều gì. Ông mong có dịp gặp những bậc tu hành đạo đức cao cả để nhờ giải nghi.

Ngài cùng đồ chúng đi đến gần nhà người Bà-la-môn này, bỗng thấy khí Đại thừa xông lên. Ngài dừng lại bảo chúng:

– Khí này nếu vòng tròn như khoen đeo tai là có Bồ-tát bên cạnh. Nay khí này tương tợ vòng tròn ắt có Thánh nhân gần đây.

Thầy trò đi đến một đỗi, bỗng có người Bà-la-môn đến hỏi thị giả: – Thầy đây là người gì?

Thị giả đáp: – Là đệ tử Phật.

Người ấy liền chạy thẳng vào nhà đóng cửa lại. Ngài đi theo đến nơi gõ cửa. Trong nhà nói vọng ra rằng:

– Nhà này không có người.

Ngài hỏi: – Đáp không người đó là ai?

Cưu-ma-la-đa nghe nói có vẻ lạ, nghi là bậc đạo hạnh bèn mở cửa. Mở ra thấy Ngài, ông chào và thỉnh ngồi ghế giữa, đoạn đem nghi vấn về con chó ra hỏi.

Ngài giải thích:

– Con chó này là cha của ông, bởi có chút ít nghiệp nên đọa làm súc sanh. Xưa kia cha ông đem cả ngàn đĩnh vàng để trong cái hũ lén chôn dưới rèm. Đến khi người chết, chưa gặp ông trối lại, vì còn tiếc của này nên sanh ra làm chó để gìn giữ. Nếu ông đào lấy được, ắt nó sẽ bỏ đi.

Cưu-ma-la-đa liền cho người đào chỗ con chó nằm, quả nhiên được hũ vàng đúng như lời Ngài nói. Ông hết lòng kính phục, phát nguyện xuất gia. Ngài hoan hỷ chấp nhận, làm lễ xuất gia truyền giới và cho làm thị giả.

Thấy cơ duyên đã mãn, Ngài kêu Cưu-ma-la-đa dặn dò:

– Xưa Như Lai đem Đại pháp nhãn trao cho Tổ Ca-diếp, truyền lần đến ta, nay ta truyền lại cho ngươi. Ngươi nghe ta dạy:

Hữu chủng hữu tâm địa,
Nhân duyên năng phát manh.
Ư duyên bất tương ngại,
Đương sanh sanh bất sanh.

Dịch:

Có giống có đất tâm,
Nhân duyên hay nảy mầm.
Đối duyên chẳng ngại nhau,
Chính sanh, sanh chẳng sanh.

Cưu-ma-la-đa cung kính vâng dạy, đảnh lễ thọ lãnh. Ngài dùng 18 phép thần biến rồi viên tịch. Đồ chúng hỏa táng và thu xá-lợi xây tháp cúng dường.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.