Sư họ Ngô quê ở Phúc Xuyên. Ban đầu đến viện Sùng Phước trong bản châu xuất gia và thọ giới Cụ túc.
Năm ba mươi tuổi, Sư đi hành cước phương Nam đến chùa Khai Quốc, phủ Thiên Đức dừng lại trụ trì. Khoảng năm sáu năm chuyên tu hạnh đầu-đà, ngày chỉ dùng một ít đậu, một ít mè, ngồi hoài không ngủ. Mỗi khi Sư nhập định đến nhiều ngày mới xuất. Đàn thí bốn phương đem lễ vật cúng dường chất cao như núi. Những kẻ gian đến rình mò, Sư trông thấy bảo: “Tự do lấy đi.”
Bà công chúa Nam Khương ý muốn xuất gia, sắp soạn lễ vật định xin xuống tóc. Triều đình hay được, xuống chiếu bắt Sư vào triều. Vào đến cửa khuyết, thần sắc Sư vẫn bình thường, Vua thấy thế càng thêm kính nể, bái phong là bậc danh Tăng.
Một hôm, có một vị Thiền khách đến chùa Sư, hỏi thăm sự tu hành, biết Sư chưa đạt yếu chỉ Thiền tông, liền giới thiệu Sư đến tham vấn Thiền sư Đạo Huệ ở núi Tiên Du, Sư bèn giao chùa đi thẳng đến núi Tiên Du.
Đến nơi Sư hỏi Đạo Huệ:
– Nơi này có tông chỉ Thiền tông chăng?
Đạo Huệ đáp:
– Nơi đây tông chỉ chẳng phải không, nhưng Xà-lê làm sao đảm nhận?
Sư suy nghĩ trả lời. Đạo Huệ nạt:
– Ngay trước mặt đã lầm qua rồi!
Sư liền lãnh hội yếu chỉ. Sư ở lại đây hầu hạ thầy ba năm.
Sau, Sư về chùa cũ thu nhận đồ chúng. Một hôm Sư hội chúng nói kệ:
Trên không miếng ngói che,
Dưới không đất cắm dùi.
Hoặc đổi áo thẳng đến,
Hoặc xách trượng mà đi.
Khoảng chuyển động xúc chạm,
Tợ rồng vẫy đớp mồi.
(Thượng vô phiến ngõa giá,
Hạ vô trác chùy địa.
Hoặc dịch phục trực nghệ,
Hoặc sách trượng nhi chí.
Chuyển động xúc xứ gian,
Tợ long dước thôn nhĩ.)
Có vị Tăng đến hỏi:
– Từ trước chỉ thẳng là nói cái gì?
Sư đáp:
– Ngày ngày đi gặt lúa, giờ giờ kho lẫm không. (Nhật nhật khứ hoạch hòa, Thì thì không thương lẫm.)
– Con chẳng hội.
– Nhật nguyệt hằng sáng, mây nổi phủ che. (Nhật nguyệt trường minh, phù vân cái ấm.)
Sư nói kệ:
Người trí không ngộ đạo,
Ngộ đạo tức kẻ ngu.
Khách nằm thẳng duỗi chân,
Nào biết ngụy và chân.
(Trí nhân vô ngộ đạo,
Ngộ đạo tức ngu nhân.
Thân cước cao ngọa khách,
Hề thức ngụy kiêm chân.)
Tăng hỏi:
– Thế nào là Phật?
Sư đáp:
– Nhật nguyệt sáng trời trùm ức cõi,
Ai biết mây mù rơi núi sông.
(Nhật nguyệt lệ thiên hàm ức sát,
Thùy tri vân vụ lạc sơn hà.)
– Thế nào hội được?
– Mục đồng chỉ thích nằm lưng trâu,
Kẻ sĩ thường khoe được anh hùng.
(Mục đồng chí quán ngọa ngưu bối,
Thổ hữu anh hùng khóa đắc y.)
– Ý Tổ và ý kinh là đồng là khác?
– Muôn dặm nhờ thuyền đều đến triều vua.
– Hòa thượng có việc kỳ đặc, tại sao không nói cho con?
– Ngươi thổi lửa, ta hốt gạo, ngươi khất thực, ta giữ bát, ai mà cô phụ ngươi?
Tăng nghe xong liền khai ngộ.
Năm thứ tám niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1170) đời Lý Anh Tông, sắp tịch Sư từ giã chúng dặn:
– Các ngươi khéo tự gìn giữ như lúc ta còn, chớ nhiễm thế gian sanh ra quyến luyến.
Đến nửa đêm, Sư ngồi kiết-già mà tịch, thọ hơn tám mươi tuổi.