Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

Hội thứ nhất 08. Phẩm Khuyến Học



Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát muốn mãn bố thí Ba la mật đa, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp sắc, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thọ tưởng hành thức, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhãn xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp sắc xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thanh hương vị xúc pháp xứ phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp địa giới, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thủy hỏa phong không thức giới, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp khổ thánh đế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp tập diệt đạo thánh đế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp vô minh, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, phải học Bát nhã Ba la mật đa. c, on the online ring Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn tham sân si, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn tát ca da kiến, giới cấm thủ, nghi, dục, tham sân nhuế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạn, điệu cử, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn tất cả triền kiết, thùy miên, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn thực, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn dòng bạo lưu ách thủ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn trái thân, bốn điên đảo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn ba lậu, ba bất thiện căn, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tập hành mười thiện nghiệp đạo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn niệm trụ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn được Phật mười lực, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được sáu thần thông tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, định diệt tận thứ lớp vượt lên thuận nghịch tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn nơi tất cả pháp môn đà la ni, pháp môn tam ma địa đều được tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được tam ma địa Đủ giác chi, tam ma địa Sư tử du hý, tam ma địa Sư tử phấn tấn, tam ma địa Sư tử tần thân, tam ma địa Sư tử xuy khư, tam ma địa Kiện hành, tam ma địa Bảo ấn, tam ma địa Diệu nguyệt, tam ma địa Nguyệt tràng tướng, tam ma địa Nhất thiết pháp ấn, tam ma địa Quán đỉnh ấn, tam ma địa Pháp giới quyết định, tam ma địa Quyết định tràng tướng, tam ma địa Kim cương dụ, tam ma địa Nhập nhất thiết pháp ấn, tam ma địa An trụ định vương, tam ma địa Vương ấn, tam ma địa Tinh tiến lực, tam ma địa Đẳng dũng, tam ma địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, tam ma địa Nhập nhất thiết danh tự quyết định, tam ma địa Quán phương, tam ma địa Đà la ni ấn, tam ma địa Vô vong thất, tam ma địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, tam ma địa Biến phủ hư không, tam ma địa Tam luân thanh tịnh, tam ma địa Thú hướng bất thối chuyển thần thông, tam ma địa Khí trung dũng xuất, tam ma địa Tối thắng tràng tướng, tam ma địa Thiêu chư phiền não, tam ma địa Hàng phục bốn ma, tam ma địa Đại trí huệ cự và tam ma địa Xuất sanh mười lực. Bồ tát Ma ha tát muốn được như thế thảy vô lượng trăm ngàn pháp môn tam ma địa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát muốn mãn tâm sở nguyện của tất cả hữu tình, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn mãn thù thắng thiện căn như thế, do nhờ thiện căn đây hẳn chẳng đọa ác thú, chẳng sanh nhà bần tiện, chẳng đọa Thanh văn và bậc Độc giác, với Bồ tát Đỉnh quyết chẳng lui đọa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao gọi là Bồ tát Đỉnh đọa? Thiện Hiện đáp: Nếu các Bồ tát không có phương tiện khéo léo mà hành sáu Ba la mật đa, không có phương tiện khéo léo trụ ba môn giải thoát, là đọa nơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác, chẳng vào được Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Như vậy gọi là Bồ tát Đỉnh đọa. Tức Đỉnh đọa này cũng gọi là Sanh đấy.

Tức thì Xá Lợi Tử lại hỏi nữa: Vì duyên gì Bồ tát Đỉnh đọa gọi Sanh? Thiện Hiện đáp: Sanh nghĩa là pháp ái. Nếu các Bồ tát thuận đạo pháp ái gọi là Sanh. Xá Lợi Tử hỏi: Bồ tát thuận đạo pháp ái nghĩa là gì? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa với sắc trụ không mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ không mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô tướng mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô tướng mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô nguyện mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô nguyện mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô thường mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô thường mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ khổ mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ khổ mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô ngã mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô ngã mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ bất tịnh mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ bất tịnh mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ tịch tĩnh mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ tịch tĩnh mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ viễn ly mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ viễn ly mà khởi tưởng đắm. Đấy gọi là Bồ tát thuận đạo pháp ái.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác khởi nghĩ này: Đây sắc phải dứt, đây thọ tưởng hành thức phải dứt; do đấy nên sắc cần dứt, do đấy nên thọ tưởng hành thức cần dứt. Đây khổ phải biết khắp, do đẩy nên khổ cần biết khắp. Đây tập phải dứt hẳn, do đấy nên tập cần dứt hẳn. Đây diệt phải tác chứng, do đấy nên diệt phải tác chứng. Đây đạo phải tu tập, do đấy nên đạo phải tu tập. Đây tạp nhiễm, đây thanh tịnh. Đây nên gần gũi, đây chẳng nên gần gũi. Đây nên hành, đây chẳng nên hành. Đây đạo, đây phi đạo. Đây nên học, đây chẳng nên học.

Đây là bố thí Ba la mật đa, đây chẳng phải bố thí Ba la mật đa. Đây là tịnh giới Ba la mật đa, đây chẳng phải tịnh giới Ba la mật đa. Đây là an nhẫn Ba la mật đa, đây chẳng phải an nhẫn Ba la mật đa. Đây là tinh tiến Ba la mật đa, đây chẳng phải tinh tiến Ba la mật đa. Đây là tĩnh lự Ba la mật đa, đây chẳng phải tĩnh lự Ba la mật đa. Đây là bát nhã Ba la mật đa, đây chẳng phải bát nhã Ba la mật đa. Đây là phương tiện khéo léo, đây chẳng phải phương tiện khéo léo. Đây là Bồ tát sanh, đây là Bồ tát ly sanh. B

Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa an trụ như thế mà sanh tưởng đắm, đấy là Bồ tát thuận đạo pháp ái. Pháp ái như thế gọi danh là Sanh. Như ăn đồ cách đêm năng sanh bệnh hoạn.

Lúc đó, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Bồ tát Ma ha tát vào Chánh tánh ly sanh là nghĩa ra sao? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy nội không, chẳng đợi nội không mà quán ngoại không. Chẳng thấy ngoại không, chẳng đợi ngoại không mà quán nội không; chẳng đợi ngoại không mà quán nội ngoại không. Chẳng thấy nội ngoại không, chẳng đợi nội ngoại không mà quán ngoại không; chẳng đợi nội ngoại không mà quán không không. Chẳng thấy không không, chẳng đợi không không mà quán nội ngoại không; chẳng đợi không không mà quán đại không. Chẳng thấy đại không, chẳng đợi đại không mà quán không không; chẳng đợi đại không mà quán thắng nghĩa không. Chẳng thấy thắng nghĩa không, chẳng đợi thắng nghĩa không mà quán đại không; chẳng đợi thắng nghĩa không mà quán hữu vi không. Chẳng thấy hữu vi không, chẳng đợi hữu vi không mà quán thắng nghĩa không; chẳng đợi hữu vi không mà quán vô vi không. Chẳng thấy vô vi không, chẳng đợi vô vi không mà quán hữu vi không; chẳng đợi vô vi không mà quán tất cảnh không. Chẳng thấy tất cảnh không, chẳng đợi tất cảnh không mà quán vô vi không; chẳng đợi tất cảnh không mà quán vô tế không. Chẳng thấy vô tế không, chẳng đợi vô tế không mà quán tất cảnh không; chẳng đợi vô tế không mà quán tán không. Chẳng thấy tán không, chẳng đợi tán không mà quán vô tế không; chẳng đợi tán không mà quán vô biến dị không. Chẳng thấy vô biến dị không, chẳng đợi vô biến dị không mà quán tán không; chẳng đợi vô biến dị không mà quán bổn tánh không. Chẳng thấy bốn tánh không, chẳng đợi bổn tánh không mà quán vô biến dị không; chẳng đợi bổn tánh không mà quán tự tưởng không. Chẳng thấy tự tướng không, chẳng đợi tự tưởng không mà quán bổn tánh không; chẳng đợi tự tướng không mà quán cộng tướng không. Chẳng thấy cộng tướng không, chẳng đợi cộng tướng không mà quán tự tướng không; chẳng đợi cộng tướng không mà quán nhất thiết pháp không. Chẳng thấy nhất thiết pháp không, chẳng đợi nhất thiết pháp không mà quán cộng tướng không; chẳng đợi nhất thiết pháp không mà quán bất khả đắc không. Chẳng thấy bất khả đắc không, chẳng đợi bất khả đắc không mà quán nhất thiết pháp không; chẳng đợi bất khả đắc không mà quán vô tánh không. Chẳng thấy vô tánh không, chẳng đợi vô tánh không mà quán bất khả đắc không; chẳng đợi vô tánh không mà quán tự tánh không. Chẳng thấy tự tánh không, chẳng đợi tự tánh không mà quán vô tánh không chẳng đợi tự tánh không mà quán vô tánh tự tánh không. Chẳng thấy vô tánh tự tánh không, chẳng đợi vô tánh tự tánh không mà quán tự tánh không. Xá Lợi Tử! Khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu Bồ tát Ma ha tát tác khởi quán này, gọi là vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa các Bồ tát Ma ha tát nên học như vầy: Sắc nên biết chẳng nên chấp, thọ tưởng hành thức nên biết chẳng nên chấp; danh sắc nên biết chẳng nên chấp, danh thọ tưởng hành thức nên biết chẳng nên chấp. Nhãn xứ nên biết chẳng nên chấp, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ nên biết chẳng nên chấp; danh nhãn xứ nên biết chẳng nên chấp, danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ nên biết chẳng nên chấp. Sắc xứ nên biết chẳng nên chấp, thanh hương vị xúc pháp xứ nên biết chẳng nên chấp; danh sắc xứ nên biết chẳng nên chấp, danh thanh hương vị xúc pháp xứ nên biết chẳng nên chấp.

Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên biết chẳng nên chấp. Nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên biết chẳng nên chấp. Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới nên biết chẳng nên chấp. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên biết chẳng nên chấp. Thân giới, xúc giới, thân thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh thân giới, xúc giới, thân thức giới nên biết chẳng nên chấp. Ý giới, pháp giới, ý thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh ý giới, pháp giới, ý thức giới nên biết chẳng nên chấp.

Địa giới nên biết chẳng nên chấp, thủy hỏa phong không thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh địa giới nên biết chẳng nên chấp, danh thủy hỏa phong không thức giới nên biết chẳng nên chấp.

Khổ thánh để nên biết chẳng nên chấp, tập diệt đạo thánh để nên biết chẳng nên chấp; danh khổ thánh đế nên biết chẳng nên chấp, danh tập diệt đạo thánh đế nên biết chẳng nên chấp.

Vô minh nên biết chẳng nên chấp; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não nên biết chẳng nên chấp; danh vô minh nên biết chẳng nên chấp, danh hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não nên biết chẳng nên chấp.

Bốn tĩnh lự nên biết chẳng nên chấp, bốn vô lượng, bốn vô sắc định nên biết chẳng nên chấp; danh bốn tĩnh lự nên biết chẳng nên chấp, danh bốn vô lượng, bốn vô sắc định nên biết chẳng nên chấp.

Năm nhãn nên biết chẳng nên chấp, sáu thần thông nên biết chẳng nên chấp; danh năm nhãn nên biết chẳng nên chấp, danh sáu thần thông nên biết chẳng nên chấp.

Bố thí Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp; danh bố thí Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp, danh tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp.

Bốn niệm trụ nên biết chẳng nên chấp; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi nên biết chẳng nên chấp. Danh bốn niệm trụ nên biết chẳng nên chấp, danh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi nên biết chẳng nên chấp.

Phật mười lực nên biết chẳng nên chấp; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí nên biết chẳng nên chấp. Danh Phật mười lực nên biết chẳng nên chấp, danh bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí nên biết chẳng nên chấp.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa các Bồ tát Ma ha tát nên học như vầy: Bồ đề tâm nên biết chẳng nên chấp, danh Bồ đề tâm nên biết chẳng nên chấp. Vô đẳng đẳng tâm nên biết chẳng nên chấp, danh vô đẳng đẳng tâm nên biết chẳng nên chấp. Quảng đại tâm nên biết chẳng nên chấp, danh quảng đại tâm nên biết chẳng nên chấp. Vì sao thế? Là tâm này phi tâm, vì bản tánh tịnh vậy.

Lúc ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm này vì sao bản tánh thanh tịnh? Thiện Hiện đáp: Bản tánh tâm này chẳng tương ưng với tham, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với sân, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với si, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với triền kiết, thùy miên, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các kiến, thú, lậu, bộc lưu ách thủ thảy, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các tâm Thanh văn, Độc giác thảy, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Xá Lợi Tử! Tâm này bản tánh thanh tịnh như thế.

Xá Lợi Tử hỏi: Tâm này là hữu tâm phi tâm tánh chăng? Thiện Hiện đáp: Trong phi tâm tánh, hữu tánh vô tánh là khá được chăng? Xá Lợi Tử nói: Chẳng phải vậy, thưa Ngài! Thiện Hiện đáp: Trong phi tâm tánh, hữu tánh vô tánh đã chẳng khá được, làm sao nói được tâm này là hữu tâm phi tâm tánh chăng!

Xá Lợi Tử hỏi: Những gì gọi là tâm phi tâm tánh? Thiện Hiện đáp: Đối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt, đấy gọi tâm phi tâm tánh. Xá Lợi Tử hỏi rằng: Như tâm không biến khác, không phân biệt; sắc cũng không biến khác, không phân biệt ư? Thiện Hiện đáp rằng: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thọ tưởng hành thức cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhãn xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; sắc xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thanh hương vị xúc pháp xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thân giới, xúc giới, thân thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; địa giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thủy hỏa phong không thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; khổ thánh đế cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tập diệt đạo thánh đế cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; vô minh cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn tĩnh lự cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt, năm nhãn cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt, sáu thần thông cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt, bố thí Ba la mật đa cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt, bốn niệm trụ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt, Phật mười lực cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng không biến khác, không phân biệt ư? Đáp: Như thế.

Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng: Hay thay! Hay thay! Thật như lời đã nói. Ngài là chơn Phật tử, từ tâm Phật sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh và từ pháp hóa sanh, nhận phần Phật pháp, chẳng nhận phần của cải; đối trong các pháp, thân tự làm chứng, huệ nhãn hiện thấy mới năng khởi nói. Đức Thế Tôn nói Ngài với trong chúng Thanh Văn an trụ định Vô tránh rất là đệ nhất, như lời Phật đã nói, chơn thật chẳng hư.

Thiện Hiện! Đối Bát nhã Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha tát nên như vậy mà học. Đối Bát nhã Ba la mật đa, nếu Bồ tát Ma ha tát năng học được như vậy, phải biết đã trụ bậc Bất thối chuyển, chẳng rời Bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện! Kẻ muốn học bậc Thanh Văn, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Độc giác, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Bồ tát, nên cần siêng năng nghe tập đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Và kẻ muốn học bậc Như Lai, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Vì sao thế? Vì trong Bát nhã Ba la mật đa như vầy, rộng thuyết khai thị pháp Tam thừa vậy. Nếu Bồ tát Ma ha tát học Bát nhã Ba la mật đa, thời là học khắp Tam thừa, cũng ở trong pháp Tam thừa đều được khéo léo.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.