Thiền Sư Trung Hoa

Đời Thứ Tư Sau Lục Tổ



∗ THIỀN SƯ ĐÀM THẠNH – Vân Nham (782-841)

Sư họ Vương, quê ở Kiến Xương, Chung Lăng. Lúc nhỏ, Sư xuất gia tại Thạch Môn. Ban đầu, Sư đến tham học với Bá Trượng Hoài Hải ngót hai mươi năm mà chưa ngộ huyền chỉ. Bá Trượng qui tịch, Sư đến tham học với Dược Sơn Duy Nghiễm.

Dược Sơn hỏi:- Ở đâu đến?

Sư thưa:- Ở Bá Trượng đến.

– Bá Trượng có ngôn cú gì để chỉ dạy đồ chúng?

– Thường ngày hay nói “ta có một câu đầy đủ trăm vị”.

– Mặn là vị mặn, lạt là vị lạt, không mặn không lạt là vị thường, thế nào một câu đầy đủ trăm vị?

Sư không đáp được.

*

Hôm khác, Dược Sơn hỏi:- Bá Trượng nói pháp gì?

Sư thưa:

– Có khi Thầy thượng đường đại chúng ngồi yên, cầm gậy đồng thời đuổi tan hết, lại gọi: “Đại chúng!” Chúng xoay đầu lại, Thầy bảo: “Ấy là gì?”

Dược Sơn bảo:

– Sao không sớm nói thế đó? Hôm nay nhân ngươi thuật lại, ta được thấy Hải huynh.

Ngay câu nói ấy Sư tỉnh ngộ, lễ bái.

*

Dược Sơn hỏi:- Ngoài chỗ Bá Trượng ngươi còn đến đâu chăng?

Sư thưa:- Con từng đến Quảng Nam.

– Ta nghe nói ngoài cửa thành Đông ở Quảng Châu có một hòn đá bị Châu chủ dời đi chăng?

– Chẳng những Châu chủ, dù họp tất cả người toàn quốc dời cũng chẳng động.

– Ta nghe ngươi biết làm sư tử múa phải chăng?

– Phải.

– Múa được mấy xuất?

– Múa được sáu xuất.

– Ta cũng múa được.

– Hòa thượng múa được mấy xuất?

– Ta múa được một xuất.

– Một tức sáu, sáu tức một.

*

Sư đến Qui Sơn Linh Hựu, Qui Sơn hỏi:

– Nghe Trưởng lão ở Dược Sơn làm sư tử múa phải chăng?

Sư đáp:- Phải.

– Thường múa hay có khi nghỉ?

– Cần múa thì múa, cần nghỉ thì nghỉ.

– Khi nghỉ sư tử ở chỗ nào?

– Nghỉ, nghỉ.

*

Sư nấu trà, Đạo Ngô hỏi:- Nấu trà cho ai?

Sư đáp:- Có một người cần.

– Sao không dạy y tự nấu?

– Nay có tôi ở đây.

*

Thạch Sương Khánh Chư đến.

Sư hỏi:- Ở đâu đến?

Thạch Sương thưa:- Qui Sơn đến.

– Ở trong ấy bao lâu?

– Vừa trải một Đông một Hạ.

– Như thế tức thành núi dài?

– Tuy ở trong đó mà chẳng biết.

– Người khác cũng chẳng hiểu chẳng biết.

Thạch Sương không đáp được.

*

Sau, Sư trụ trì núi Vân Nham huyện Du, Đàm Châu.

Một hôm, Sư bảo chúng:- Có đứa trẻ nhà kia, hỏi đến không có gì nói chẳng được.

Động Sơn Lương Giới hỏi: – Trong ấy có kinh sách nhiều ít?

– Một chữ cũng không.

– Sao được biết nhiều thế ấy?

– Ngày đêm chưa từng ngủ.

– Làm một việc được chăng?

– Nói được lại chẳng nói.

*

Sư hỏi vị Tăng:- Ở đâu đến?

Tăng thưa:- Thêm hương rồi đến.

– Thấy Phật chăng?

– Thấy.

– Thấy ở đâu?

– Thấy ở hạ giới.

– Phật xưa! Phật xưa!

*

Đạo Ngô hỏi:- Đại Bi ngàn tay mắt, mắt nào là mắt chánh?

Sư bảo:- Như người ban đêm vói tay lại sau mò chiếc gối.

– Tôi hội rồi.

– Hội thế nào?

– Khắp thân là tay mắt.

– Nói tột cùng lời nói, chỉ nói được tám phần.

– Sư huynh thế nào?

– Khắp thân là tay mắt.

*

Sư ngồi bện giày cỏ, Động Sơn Lương Giới đến trước thưa:

– Xin Thầy tròng mắt được chăng?

Sư bảo:- Ngươi đi với ai?

– Lương Giới không.

– Giả sử có, ngươi nhằm để chỗ nào?

Lương Giới không đáp được.

Sư bảo:- Xin tròng mắt là mắt chăng?

– Chẳng phải mắt.

Sư nạt đuổi ra.

*

Tăng hỏi:- Khi một niệm chợt khởi liền rơi vào ma giới, là thế nào?

Sư bảo:- Ngươi nhân đâu từ Phật giới đến?

Tăng không đáp được.

Sư hỏi:- Hội chăng?

– Chẳng hội.

– Chớ bảo hội chẳng được, giả sử hội được cũng chỉ là bên trái bên phải.

*

Đời Đường niên hiệu Hội Xương năm đầu (841 TL), tháng mười ngày hai mươi sáu, Sư có chút ít bệnh, tắm gội xong, kêu chủ sự bảo: “Sắm sửa trai, ngày mai có Thượng tọa đi.”

Đến tối đêm hai mươi bảy, Sư qui tịch, thọ sáu mươi tuổi. Trà-tỳ được xá-lợi rất nhiều.

∗ THIỀN SƯ VIÊN TRÍ – Đạo Ngô (768-835)

(Trong Truyền Đăng Lục thì để Viên Trí, trong Chỉ Nguyệt Lục để Tông Trí.)

Sư họ Trương, quê ở Hải Hôn, Dự Chương. Lúc nhỏ, Sư theo Hòa thượng Bàn xuất gia và thọ giới. Sau, Sư đến pháp hội Dược Sơn thầm được tâm ấn.

Một hôm, Dược Sơn hỏi Sư:- Ngươi đi đâu về?

Sư thưa:- Đi dạo núi về.

Dược Sơn bảo:- Chẳng rời thất này, đem gì về, nói mau!

Sư thưa:

– Trên núi chim con đầu tợ tuyết,

Đáy khe cá lội lo chẳng cùng.

(Sơn thượng điểu nhi đầu tợ tuyết,

Gián để du ngư mang bất triệt.)

*

Sư cùng Đàm Thạnh đứng hầu Dược Sơn. Dược Sơn bảo:

– Chỗ trí chẳng nghĩ đến, tối kỵ nói tới, nói tới tức đầu mọc sừng, Trí đầu-đà (chỉ Sư) hiểu thế nào?

Sư liền đi ra.

Đàm Thạnh hỏi Dược Sơn:

– Sư huynh Trí vì sao không đáp lời Hòa thượng?

Dược Sơn bảo:

– Hôm nay ta đau lưng, y đã hội, ngươi hỏi lấy y.

Đàm Thạnh đến hỏi Sư:

– Vừa rồi, sao sư huynh không đáp lời Hòa thượng?

Sư bảo:- Huynh đến hỏi Hòa thượng đi.

*

Qui Sơn Linh Hựu hỏi Vân Nham Đàm Thạnh:

– Bồ-đề lấy gì làm tòa?

Đàm Thạnh đáp:- Lấy vô vi làm tòa.

Đàm Thạnh lại hỏi Linh Hựu câu ấy.

Linh Hựu đáp:- Lấy các pháp không làm tòa.

Linh Hựu lại đem câu ấy hỏi Sư.

Sư đáp:

– Ngồi thì cho y ngồi, nằm thì cho y nằm. Có một người chẳng ngồi chẳng nằm, hãy nói mau! nói mau!

*

Linh Hựu hỏi Sư:- Ở đâu đến?

Sư đáp:- Khán bệnh đến.

– Có bao nhiêu người bệnh?

– Có người bệnh có người chẳng bệnh.

– Có người không bệnh đâu không phải Trí đầu-đà?

– Bệnh cùng chẳng bệnh đều không can hệ việc nó, nói mau! nói mau!

*

Thấy Đàm Thạnh bệnh, Sư hỏi:

– Lìa cái vỏ lủng này đến chỗ nào thấy nhau?

– Đến chỗ chẳng sanh chẳng diệt thấy nhau.

– Sao không nói chỗ phi chẳng sanh chẳng diệt, cũng chẳng cầu thấy nhau.

*

Đàm Thạnh vá lại đôi giày cỏ, Sư thấy hỏi:

– Làm gì?

– Đem bại hoại vá bại hoại.

– Sao không nói tức bại hoại phi bại hoại.

*

Sau, Sư đến núi Đạo Ngô an trụ ở đây, Tăng chúng đến tham vấn rất đông.

Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là chỗ đắc lực hiện giờ?

Sư đáp:

– Ngàn muôn người gọi mà chẳng xoay đầu, mới có ít phần tương ưng.

– Chợt gặp lửa cháy thì sao?

– Đốt cả quả đất.

Sư lại hỏi vị Tăng ấy:- Dẹp than và lửa, cái gì là lửa?

– Chẳng phải lửa.

*

Thạch Sương Khánh Chư hỏi:

– Trăm năm sau có người hỏi việc pháp tắc cùng tột, làm sao nói với họ?

Sư gọi:- Sa-di!

Sa-di đáp:- Dạ!

Sư bảo:- Thêm nước trong tịnh bình.

Giây lâu, Sư lại hỏi Khánh Chư:- Vừa rồi hỏi gì?

Khánh Chư lặp lại câu trước.

Sư đứng dậy đi.

*

Hôm khác, Khánh Chư hỏi:

– Một mảnh xương của Hòa thượng gõ in tiếng đồng, đi về chỗ nào?

Sư gọi:- Thị giả!

Thị giả đáp:- Dạ!

Sư bảo:- Năm lừa đi.

*

Sư mắc bệnh, Tăng chúng đến thăm hỏi.

Sư bảo:- Có nhận chẳng đến, các ngươi biết nó chăng?

Chúng đều buồn thảm.

Sư bảo:- Ta sẽ đi xa bên tây, lý không rời bên đông.

Đến ngày mùng mười tháng chín niên hiệu Thái Hòa năm thứ chín (835 TL) đời Đường, Sư qui tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi.

Vua sắc ban là Tu Nhất Đại sư, tháp hiệu Bảo Tướng.

∗ THIỀN SƯ ĐỨC THÀNH – Hoa Đình Thuyền Tử

Sư người tiết tháo tuyệt vời, độ lượng xuất chúng. Nơi Dược Sơn, Sư được tâm ấn, cùng Đàm Thạnh, Viên Trí là bạn đồng học thâm giao.

Khi rời Dược Sơn, Sư bảo hai bạn:

– Hai huynh mỗi người sẽ ở một nơi để dựng lập tông chỉ Dược Sơn, riêng tôi tánh tình quê mùa, chỉ ưa sơn thủy làm vui thú, không có tài năng.

Ngày sau, hai huynh biết tôi dừng ở đâu, có gặp vị tọa chủ nào lanh lợi mách cho một người đến, nếu kham chỉ bảo tôi sẽ đem chỗ bình sanh thọ nhận trao lại, gọi là đền đáp ơn của Tiên sư.

Chia tay nhau, Sư đi đến Tú Châu nơi sông Ngô, bến Hoa Đình, sắm một chiếc thuyền nhỏ tiếp chúng bốn phương qua lại, tùy duyên độ nhật. Người thời ấy không biết tung tích Sư, bèn gọi Sư là Thuyền Tử Hòa thượng.

*

Một hôm, thuyền đậu bên bờ, Sư ngồi rảnh rang, có vị quan hỏi:

– Thế nào là việc hằng ngày của Hòa thượng?

Sư dựng đứng cây chèo, bảo:- Hội chăng?

Vị quan thưa:- Không hội.

Sư bảo:

– Chèo tạt sóng xanh, cá vàng ít gặp. (Trạo bát thanh ba, kim lân hãn ngộ.)

*

Sau này, Thiền sư Viên Trí có dịp đi đến Kinh Khẩu, gặp lúc Thiền sư Thiện Hội thượng đường. Có vị Tăng hỏi: “Thế nào là pháp thân?” Thiện Hội đáp: “Pháp thân không tướng.” Tăng hỏi: “Thế nào là pháp nhãn?” Thiện Hội đáp: “Pháp nhãn không vết.” Viên Trí bất chợt phát cười.

Thiện Hội xuống tòa, hỏi Viên Trí:

– Tôi vừa đáp câu hỏi của Tăng, chắc có chỗ không đúng khiến Thượng tọa phát cười, xin Thượng tọa từ bi chỉ dạy.

Viên Trí bảo:

– Hòa thượng nhất đẳng (bậc nhất) là đúng, về xuất thế thì chưa có thầy.

Thiện Hội thưa:

– Chỗ nào tôi không đúng, mong Thượng tọa vì nói để phá.

– Tôi hoàn toàn không nói, mời Hòa thượng đi đến chỗ Hoa Đình Thuyền Tử.

– Người ấy như thế nào?

– Người ấy trên không có miếng ngói, dưới không có mũi dùi. Hòa thượng muốn đi xin đổi y phục mà đến.

Thiện Hội bèn giải tán chúng, sửa sang hành lý, đi thẳng đến Hoa Đình Thuyền Tử.

*

Vừa thấy Thiện Hội đến, Sư liền hỏi:

– Đại đức trụ trì chùa nào?

Thiện Hội thưa:- Chùa tức chẳng trụ, trụ tức chẳng giống.

– Chẳng giống, giống cái gì?

– Chẳng pháp trước mắt.

– Ở đâu học được nó?

– Chẳng phải chỗ mắt tai đến.

Sư cười bảo:

– Một câu hợp đầu ngữ, muôn kiếp cọc cột lừa. Thả ngàn thước tơ ý ở đầm sâu, lìa lưỡi câu ba tấc, nói mau! nói mau!

Thiện Hội vừa mở miệng, bị Sư đánh một chèo té xuống nước. Thiện Hội mới leo lên thuyền, Sư lại thúc:

– Nói! Nói!

Thiện Hội vừa mở miệng, lại bị Sư đánh. Thiện Hội hoát nhiên đại ngộ, bèn gật đầu ba cái.

Sư bảo:

– Sợi nhợ đầu sào mặc ngươi đùa, chẳng chạm sóng xanh ý tự khác. (Can đầu ty tuyến tùng quân lộng, bất phạm thanh ba ý tự thù.)

Thiện Hội bèn hỏi:

– Thả nhợ buông câu ý Thầy thế nào?

– Nhợ tơ nổi trên mặt nước biếc.

– Lời kèm huyền mà không đường, đầu lưỡi nói mà không nói.

– Câu khắp dòng sông mới gặp cá vàng.

Thiện Hội bịt tai.

Sư bảo:- Như thế! Như thế!

Sư phó chúc rằng:

– Ngươi ra đi phải tìm chỗ ẩn thân mất dấu vết, chỗ mất dấu vết chớ ẩn thân. Ta ba mươi năm ở Dược Sơn chỉ sáng tỏ việc này. Nay ngươi đã được nó, sau chớ ở chỗ xóm làng thành thị, nên vào trong núi sâu bên cạnh đồng để tìm lấy một cái, nửa cái tiếp tục không để đoạn dứt.

Thiện Hội liền từ giã Sư ra đi, thỉnh thoảng ngó lại.

Sư bèn gọi:- Xà-lê!

Thiện Hội quay đầu ngó lại.

Sư liền dựng đứng cây chèo, bảo:

– Ngươi sẽ bảo riêng có.

Nói xong, Sư lật úp thuyền xuống nước mà tịch.

∗ SA-DI CAO

Không biết tung tích và quê quán của Sư thế nào. Chỉ biết khi Sư mới đến tham vấn Dược Sơn, Dược Sơn hỏi:

– Ở đâu đến?

Sư thưa:- Ở Nam Nhạc đến.

– Đi lại đâu?

– Đi Giang Lăng thọ giới.

– Thọ giới mong làm gì?

– Mong khỏi sanh tử.

– Có một người không thọ giới cũng khỏi sanh tử, ngươi biết chăng?

– Thế thì giới Phật dùng làm gì?

– Vẫn còn quải môi lưỡi.

Sư lễ bái lui ra.

Đạo Ngô đến đứng hầu, Dược Sơn bảo:

– Vừa rồi có một Sa-di mới đến, có chút khí tức này.

Đạo Ngô thưa:

– Chưa nên toàn tin, cần phải khám phá mới được.

Đến chiều, Dược Sơn thượng đường gọi:

– Sa-di mới đến ở đâu?

Sư ra khỏi chúng đứng im.

Dược Sơn hỏi:

– Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?

Sư thưa:

– Nước con an ổn.

– Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?

– Chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được.

– Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được?

– Chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận.

Dược Sơn ngó Đạo Ngô, Vân Nham, nói:

– Chẳng tin ta nói.

*

Một hôm, Sư từ giã Dược Sơn.

Dược Sơn hỏi:- Đi ở đâu?

Sư thưa:

– Con ở trong chúng có ngại, nên đến bên đường cất một am tranh để tiếp đãi nước trà cho khách qua lại.

– Sanh tử là việc lớn, sao ngươi không thọ giới đi?

– Biết thì những việc ấy liền thôi, lại bảo thọ giới làm gì?

– Như thế chẳng được lìa xa ta, có khi ta cần gặp ngươi.

*

Sư dầm mưa đến thăm Dược Sơn.

Dược Sơn bảo:- Ngươi mới đến?

– Con mới đến.

– Ướt cả rồi.

– Không đánh cái trống sáo ấy.

Vân Nham nói:- Da cũng không đánh, cái gì là trống?

Đạo Ngô nói:- Trống cũng không đánh, cái gì là da?

Dược Sơn bảo:- Hôm nay rất hay, một trường hòa nhạc.

*

Đến giờ thọ trai, Dược Sơn tự đánh trống, Sư ôm bát múa đi vào trai đường.

Dược Sơn bỏ dùi trống xuống hỏi:- Hòa thứ mấy?

– Hòa thứ hai.

– Thế nào là hòa thứ nhất?

Sư đến thùng cơm lãnh một phần cơm rồi đi ra.

∗ THIỀN SƯ VÔ HỌC – Thúy Vi

Sư đến hỏi Đơn Hà: – Thế nào là thầy chư Phật?

Đơn Hà quở:- Thật tự đáng thương, cần thiết cầm khăn lau làm gì?

Sư lùi ba bước.

Đơn Hà bảo:- Lầm!

Sư tiến tới ba bước.

Đơn Hà bảo:- Lầm! Lầm!

Sư dở một chân, xoay thân một vòng, đi ra.

Đơn Hà bảo:- Được tức được, cô phụ chư Phật khác.

Sư do đây lãnh ngộ ý chỉ, về trụ Thúy Vi tại Chung Nam sơn.

*

Thiền sư Đại Đồng đến hỏi Sư:

– Không biết Nhị Tổ mới thấy Tổ Đạt-ma có sở đắc gì?

Sư bảo:- Nay ngươi thấy ta lại có sở đắc gì?

Đại Đồng đốn ngộ huyền chỉ.

*

Một hôm, Sư đi trong pháp đường, Đại Đồng tiến đến trước lễ, thưa:

– Mật chỉ từ Ấn Độ qua, Hòa thượng dạy người thế nào?

Sư dừng bước một chút.

Đại Đồng lại thưa:- Xin Thầy chỉ dạy.

Sư bảo:- Lại cần cái bầu nước nhỏ thứ hai sao?

Đại Đồng lễ tạ lui ra.

Sư bảo:- Chớ lấp gốc.

Đại Đồng thưa:- Thời tiết đến, gốc mầm tự sanh.

*

Nhân Sư cúng dường La-hán, có vị Tăng hỏi:

– Đơn Hà thiêu tượng Phật gỗ, Hòa thượng vì sao cúng dường La-hán?

Sư bảo:

– Thiêu cũng chẳng thiêu đến, cúng dường cũng một bề cúng dường.

Tăng lại hỏi:- Cúng dường La-hán có đến chăng?

Sư bảo:- Ngươi mỗi ngày có ăn cơm chăng?

Tăng không đáp được.

Sư bảo:- Có chút lanh lợi.

∗ THIỀN SƯ NGHĨA TRUNG – Tam Bình

Sư họ Dương, quê ở Phước Châu. Ban sơ, Sư đến tham vấn Thạch Củng (Huệ Tạng). Thạch Củng chuyên môn giương cung lắp tên để giáo hóa đồ chúng. Sư vào pháp hội, Thạch Củng bảo:

– Xem mũi tên đây!

Sư bèn vạch ngực thưa:

– Đây là mũi tên giết người, mũi tên cứu người lại làm sao?

Thạch Củng gảy dây cung ba cái.

Sư liền làm lễ.

Thạch Củng bảo:- Ba mươi năm một phen giương cung, một hai mũi tên chỉ bắn được nửa người thánh.

*

Sư đến tham vấn Đại Điên thuật lại việc trên. Đại Điên bảo:

– Đã là mũi tên cứu người, vì sao nhằm trên dây cung mà biện?

Sư đáp không được.

Đại Điên bảo:

– Ba mươi năm sau cần người nhắc câu này cũng khó được.

Sư hỏi:- Chẳng cần chỉ đông vẽ tây, thỉnh Thầy chỉ thẳng.

– Cửa sông U Châu người đá ngồi xổm.

– Vẫn là chỉ đông vẽ tây.

– Nếu phụng hoàng con không đến bên này bàn.

Sư làm lễ.

Đại Điên bảo:

– Nếu chẳng đặng câu sau thì lời trước cũng khó tròn.

*

Về sau, Sư đến Chương Châu ở núi Tam Bình tiếp độ hậu lai.

Sư dạy chúng:

– Thời nay người học chỉ biết rong ruổi tìm kiếm, tương đương nhãn mục chính mình có chăng? Các ngươi muốn học cái tương đương ấy chăng? Chẳng cầu các thứ khác, các ngươi mỗi người có việc bổn phận sao chẳng nhận ngay?

Tại sao tâm bực tức, miệng lẩm bẩm có lợi ích gì? Nói thẳng rằng: Nếu cần con đường tu hành và hóa môn do chư thánh dựng lập thì có ba tạng kinh điển. Nếu là việc trong tông môn (Thiền tông), ngươi cốt không lầm dụng tâm.

Có vị Tăng ra thưa:- Lại có con đường học hay không?

Sư bảo:- Có một con đường trơn như rêu.

– Học nhân bước nhẹ theo được chăng?

– Tâm chẳng nghĩ, ngươi tự xem.

*

Có vị Tăng hỏi:- Đậu đen khi chưa nảy mầm là thế nào?

Sư đáp:- Phật cũng chẳng biết.

*

Có vị Giảng sư đến hỏi:

– Ba thừa và mười hai phần giáo tôi không nghi, thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ đến?

Sư bảo:

– Phất tử bằng lông rùa, cây gậy bằng sừng thỏ, Đại đức núp ở chỗ nào?

– Lông rùa sừng thỏ lại là có sao?

– Thịt nặng ngàn cân, trí không cân lượng.

*

Sư dạy chúng:

– Các ngươi! Nếu chưa gặp tri thức thì chẳng nên, nếu từng gặp tri thức rồi, phải nhận ngay ý độ ấy, đến trên chót núi, hóc đá, ăn cây, mặc lá, thế ấy mới có ít phần tương ưng. Nếu chạy cầu hiểu biết nghĩa cú, tức là trông quê hương muôn dặm xa vậy.

Trân trọng!

∗ THIỀN SƯ LINH HỰU – Qui Sơn (771-853)

Sư họ Triệu, quê ở Trường Khê, Phước Châu. Năm mười lăm tuổi, Sư từ thân xuất gia theo Luật sư Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện tại bản quận thế phát. Sau, Sư đến chùa Long Hưng ở Hàng Châu thọ giới. Sư học kinh, luật Đại thừa, Tiểu thừa rất uyên thâm.

Năm hai mươi ba tuổi, Sư đến Giang Tây tham học với Bá Trượng Hoài Hải. Bá Trượng vừa thấy Sư liền nhận cho nhập chúng. Trong chúng, Sư là người được cử đứng hàng đầu.

Một hôm, Sư đứng hầu Bá Trượng. Bá Trượng hỏi:- Ai?

Sư thưa:- Con. Linh Hựu!

Bá Trượng bảo:- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?

Sư vạch ra, thưa:- Không lửa.

Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo:

– Ngươi bảo không, cái này là cái gì?

Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình.

Bá Trượng bảo:- Đây là con đường rẽ tạm thời. Kinh nói: “Muốn thấy Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên, thời tiết đã đến như mê chợt ngộ, như quên được nhớ, mới tỉnh vật của mình không từ bên ngoài được.” Cho nên Tổ sư bảo: “Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp.” Chỉ là không tâm hư vọng phàm thánh v.v…, xưa nay tâm pháp nguyên tự đầy đủ. Nay ngươi đã vậy, tự khéo gìn giữ.

*

Sư theo Bá Trượng làm việc trong núi, Bá Trượng hỏi:

– Đem được lửa đến chăng?

– Đem được.

– Ở chỗ nào?

Sư cầm một cành cây thổi vài cái, đem trao cho Bá Trượng.

Bá Trượng bảo:- Như trùng đục cây.

*

Tư Mã Đầu-đà (là một Thiền sư thông cả địa lý và tướng số.) từ Hồ Nam đến yết kiến Bá Trượng, thưa:

– Qui Sơn là thắng cảnh nên lập đại đạo tràng kết tập bạn pháp.

Bá Trượng hỏi:- Lão tăng muốn đến Qui Sơn nên chăng?

– Qui Sơn kỳ tuyệt có thể họp một ngàn năm trăm chúng, nhưng chẳng phải chỗ Hòa thượng ở.

– Sao vậy?

– Hòa thượng là người xương, núi kia là núi thịt, dù có ở, đồ đệ chẳng đầy một ngàn.

– Trong chúng ta có người ở được chăng?

– Đợi xem qua mới biết.

Bá Trượng sai thị giả gọi đệ nhất tọa đến, tức Thiền sư Hoa Lâm, hỏi:

– Người này thế nào?

Đầu-đà bảo Hoa Lâm tằng hắng một tiếng, đi vài bước, thưa:

– Người này không được.

Bá Trượng sai thị giả gọi Điển tọa đến, tức Sư Linh Hựu.

Đầu-đà thưa: – Đây chính là chủ Qui Sơn.

Tối lại, Bá Trượng gọi Sư vào thất dặn dò:

– Ta hóa duyên tại đây, ngươi sẽ ở thắng cảnh Qui Sơn để nối tiếp tông môn của ta và rộng độ kẻ hậu học.

*

Hoa Lâm nghe tin này đến thưa:

– Con là thượng thủ, tại sao Linh Hựu được trụ trì?

Bá Trượng bảo:- Nếu ai hay ngay trong chúng này nói được một câu xuất cách, sẽ cho trụ trì.

Bá Trượng liền chỉ tịnh bình hỏi:

– Chẳng được kêu là tịnh bình, ngươi kêu là gì?

Hoa Lâm thưa:- Không thể kêu là cây lủng vậy.

Bá Trượng lại hỏi Sư.

Sư đạp nhào tịnh bình rồi đi ra.

Bá Trượng cười bảo:- Đệ nhất tọa thối lui núi này.

Bá Trượng bèn sai Sư đến Qui Sơn.

*

Non Qui cao vót không có bóng người lai vãng, là hang ổ của cọp sói. Sư đến đây cất một am tranh, hằng ngày lượm trái lật, trái dẻ làm thức ăn nuôi sống.

Đã bảy năm qua, một hôm Sư tự nghĩ: Đạo cốt tiếp vật lợi sanh, ở một mình chẳng phải. Sư bèn đi lần xuống núi, thấy cọp sói, Sư bảo: “Nếu ta có duyên với núi này, các ngươi nên đi tránh chỗ khác. Nếu ta không có duyên ở đây thì các ngươi cứ ăn thịt ta đi.” Sư nói xong, các loài thú dữ đều đi tứ tán, Sư trở về am yên ở như trước.

Không bao lâu, dân cư dưới chân núi từ từ hay biết, họ rủ nhau kéo lên núi cất một ngôi chùa cho Sư. Sau này, Liên soái Lý Cảnh Nhượng tâu vua xin ban hiệu chùa, vua ban hiệu là Đồng Khánh. Kế đến, có Thượng tọa Đại An và một số chúng từ Bá Trượng đến phụ tá Sư. Đại An nói: “Tôi sẽ làm điển tọa cho Hòa thượng.” Số chúng lần lần lên đến cả ngàn. Tướng quốc Bùi Hưu cũng thường tới lui thưa hỏi chỗ huyền ảo.

*

Sư thượng đường dạy chúng:

– Phàm tâm của người học đạo phải ngay thẳng chân thật không dối gạt, không tâm hạnh sau lưng trước mặt, lừa phỉnh, trong tất cả giờ thấy nghe bình thường không có chiều uốn, cũng chẳng phải nhắm mắt bịt tai, chỉ lòng chẳng chạy theo vật là được. Từ trước chư thánh chỉ nói: bên nhơ bợn là lỗi lầm. Nếu không như thế, lòng nhiều nghĩ ác là việc tình kiến tưởng tập. Ví như nước mùa thu lóng đứng trong trẻo lặng lẽ không động không ngại, gọi người này là Đạo nhân, cũng gọi là người vô sự.

Khi ấy, có vị Tăng hỏi:- Người được đốn ngộ có tu chăng?

Sư bảo:

– Nếu người khi thật ngộ được gốc thì họ tự biết, tu cùng không tu là lời nói hai đầu. Như nay có người sơ tâm tuy từ duyên được một niệm đốn ngộ chân lý nơi mình, nhưng vẫn còn tập khí (thói quen) nhiều kiếp từ vô thủy chưa có thể chóng sạch, nên dạy hắn trừ sạch dòng thức tạo nghiệp hiện tại, tức là tu vậy.

Không nói có một pháp riêng dạy hắn tu hành thú hướng. Từ nghe nhập được lý, nghe và lý sâu mầu, tâm tự tròn sáng không ở chỗ mê lầm, hiện thời dù có trăm ngàn diệu nghĩa thăng trầm, hắn vẫn được ngồi yên mặc áo, tự biết tạo sinh kế. Nói tóm lại, “chỗ lý chân thật không nhận một mảy bụi, trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp” (thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp). Nếu được như vậy, là một mình cầm đao thẳng vào, lòng phàm thánh sạch, hiện bày chân thường, lý sự không hai, tức Phật như như.

*

Thiền sư Huệ Tịch (Ngưỡng Sơn) hỏi:

– Trăm ngàn muôn cảnh đồng thời đến, phải làm sao?

Sư đáp:

– Xanh chẳng phải là vàng, dài chẳng phải là ngắn, các pháp mỗi pháp ở địa vị của nó, chẳng can hệ đến việc của ta.

– Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ đến?

Sư chỉ lồng đèn bảo:- Lồng đèn rất tốt.

– Đâu chỉ cái ấy là phải sao?

– Cái ấy là cái gì?

– Lồng đèn rất tốt.

– Hẳn là chẳng thấy.

*

Sư cùng chúng đi hái trà. Sư bảo Huệ Tịch:

– Trọn ngày hái trà chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con, hãy hiện bản hình cho ta thấy coi.

Huệ Tịch liền đập cây trà.

Sư bảo:- Con chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.

Huệ Tịch thưa:- Chưa biết Hòa thượng thế nào?

Sư im lặng.

– Hòa thượng chỉ được cái thể của nó, không được cái dụng của nó.

– Cho con hai chục gậy.

*

Sư ngồi, Huệ Tịch đi vào, Sư bảo:

– Tịch con! Hãy nói mau chớ vào ấm giới.

Huệ Tịch thưa:- Huệ Tịch tin cũng chẳng lập.

– Con tin rồi chẳng lập hay chẳng tin chẳng lập?

– Chỉ là Huệ Tịch lại tin cái gì?

– Nếu thế ấy chỉ là định tánh Thanh văn.

– Huệ Tịch Phật cũng chẳng lập.

*

Sư ngủ vừa thức giấc. Huệ Tịch đến hỏi thăm. Sư liền xây mặt vào vách.

Huệ Tịch thưa:

– Hòa thượng đâu được như vậy.

Sư trỗi dậy bảo:

– Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, con thử vì ta đem lại xem.

Huệ Tịch lấy thau múc một thau nước đem lại cho Sư rửa mặt. Sư rửa mặt xong, giây lát Trí Nhàn (Hương Nghiêm) đến hỏi thăm, Sư bảo:

– Vừa rồi ta nằm một điềm chiêm bao, Huệ Tịch vì ta đem lại xem xong, ngươi lại đem cho ta xem.

Trí Nhàn liền đi rót một chung trà bưng đến.

Sư bảo:- Hai con thấy hiểu còn hơn Xá-lợi-phất.

*

Sư hỏi Vân Nham (Đàm Thạnh):

– Nghe huynh ở Dược Sơn lâu lắm phải chăng?

– Phải.

– Tướng Dược Sơn đại nhân thế nào?

– Sau khi Niết-bàn mới có.

– Sau khi Niết-bàn mới có thế nào?

– Nước rưới chẳng dính.

Vân Nham hỏi lại Sư:- Bá Trượng đại nhân tướng thế nào?

– Chững chạc vòi vọi, sáng suốt rực rỡ, trước tiếng chẳng phải tiếng, sau sắc chẳng phải sắc, con muỗi đậu trên trâu sắt, không có chỗ huynh cắm mỏ.

*

Thấy Trí Nhàn, Huệ Tịch làm bánh, Sư bảo:

– Bá Trượng Tiên sư đương thời thân được đạo lý này.

Huệ Tịch, Trí Nhàn nhìn nhau nói:

– Người nào đáp được lời này?

Sư bảo:- Có một người đáp được.

Huệ Tịch thưa:- Người nào?

Sư chỉ con trâu bảo: – Nói! Nói!

Huệ Tịch chạy lấy một bó cỏ đem lại. Trí Nhàn lấy thùng múc một thùng nước đem lại để trước con trâu. Con trâu đang ăn, Sư bảo:

– Cho gì? Cho gì? Chẳng cho gì? Chẳng cho gì?

Huệ Tịch, Trí Nhàn đồng lễ Sư. Sư bảo:

– Hoặc khi sáng, hoặc khi tối.

*

Một hôm, Sư thúc chúng trình ngữ, bảo:- Ngoài thanh sắc cho ta cùng thấy.

Thượng tọa Giám Huyền trình ngữ:

– Chẳng từ ra đây, người ấy không mắt.

Sư chẳng nhận.

Huệ Tịch ba phen trình ngữ:

Lần đầu: – Thấy lấy, chẳng thấy lấy.

Sư bảo:- Nhỏ như chót lông, lạnh tợ sương tuyết.

Lần thứ hai: – Ngoài thanh sắc, ai cầu thấy nhau?

Sư bảo:- Chỉ kẹt Thanh văn, bên ngoài giường hẹp.

Lần thứ ba: – Như hai gương chiếu nhau, ở trong không hình tượng.

Sư bảo:

– Ngữ này chánh, ta phải ngươi chẳng phải, sớm lập hình tượng rồi vậy.

Huệ Tịch hỏi lại Sư:

– Con tinh thần tối tăm, đối đáp vụng về, chẳng biết Hòa thượng hồi còn ở với Sư ông Bá Trượng trình ngữ thế nào?

Sư bảo:

– Ta hồi ở với Tiên sư Bá Trượng trình ngữ như vầy: “Như trăm ngàn gương sáng soi sáng hình bóng, chiếu nhau cõi cõi bụi bụi mỗi mỗi chẳng lầm lẫn.”

Huệ Tịch lễ bái.

*

Sư thượng đường bảo chúng:

– Sau khi Lão tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ “Qui Sơn Tăng Linh Hựu”. Khi ấy gọi là Qui Sơn Tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn Tăng? Gọi thế nào mới đúng?

Sư truyền bá Thiền giáo hơn bốn mươi năm, người đạt được lý thú không thể kể hết, đệ tử được nhập thất (được truyền tâm) được bốn mươi mốt người.

Đời Đường niên hiệu Đại Trung năm thứ bảy (853 TL), ngày mùng chín tháng giêng, Sư tắm gội xong, ngồi kiết già vui vẻ thị tịch. Sư thọ tám mươi ba tuổi, sáu mươi bốn tuổi hạ.

Vua ban hiệu Đại Viên Thiền sư, tháp hiệu Thanh Tịnh.

Sư có trước tác tập Qui Sơn Cảnh Sách rất được lưu hành trong thiền môn.

∗ THIỀN SƯ HY VẬN – Hoàng Bá (?-850)

Sư người tỉnh Mân (tỉnh Phước Kiến), Hồng Châu, thuở nhỏ xuất gia trên núi Hoàng Bá tại bản châu. Trên trán Sư có cục thịt nổi vun lên như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý chí đạm bạc.

Đi dạo núi Thiên Thai, Sư gặp một vị Tăng nói chuyện với nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn kỹ là người Mục quang xạ. Hai người đồng hành, gặp một khe suối nước đầy chảy mạnh, Sư lột mũ chống gậy đứng lại. Vị Tăng kia thúc Sư đồng qua. Sư bảo:

– Huynh cần qua thì tự qua.

Vị Tăng kia liền vén y, bước trên sóng như đi trên đất bằng. Qua đến bờ, vị Tăng kia xây lại hối:

– Qua đây! Qua đây!

Sư bảo:

– Bậy! Việc ấy tự biết. Nếu tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi huynh.

Vị Tăng kia khen:

– Thật là pháp khí Đại thừa, tôi không bì kịp.

Nói xong, không thấy vị Tăng ấy nữa.

*

Sư đến kinh đô nhờ người mách đến tham vấn Mã Tổ, đến nơi Mã Tổ đã tịch. Sư đến Thạch Môn lễ tháp, rồi tìm đến Bá Trượng.

Bá Trượng hỏi:- Chững chạc to lớn từ đâu đến?

Sư thưa:- Chững chạc to lớn từ Lãnh Nam đến.

– Chững chạc to lớn sẽ vì việc gì?

– Chững chạc to lớn chẳng vì việc khác.

Sư liền lễ bái hỏi:- Từ trước tông thừa chỉ dạy thế nào?

Bá Trượng lặng thinh.

Sư thưa:- Không thể dạy người sau, dứt hẳn mất.

Bá Trượng bảo:- Sẽ nói riêng với ngươi.

Bá Trượng đứng dậy đi vào phương trượng. Sư đi theo sau, thưa:

– Con đến riêng một mình.

Bá Trượng bảo:

– Nếu vậy, ngươi sau sẽ không cô phụ ta.

*

Một hôm, Bá Trượng hỏi:- Ở đâu đến?

Sư thưa:- Nhổ nấm dưới núi Đại Hùng đến.

– Lại thấy đại trùng chăng?

Sư làm tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa thủ thế. Sư vỗ vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười to bỏ đi.

Bá Trượng thượng đường bảo chúng:- Dưới núi Đại Hùng có con đại trùng, các ngươi nên xem. Lão Bá Trượng này hôm nay đích thân bỗng gặp và bị cắn một cái.

*

Sư ở chỗ Nam Tuyền. Một hôm, toàn chúng đi hái trà, Nam Tuyền hỏi:

– Đi đâu?

Sư thưa:- Đi hái trà.

– Đem cái gì hái?

Sư đưa con dao lên. Nam Tuyền bảo:- Tất cả đi hái trà đi.

*

Hôm nọ, Nam Tuyền bảo Sư:

– Lão Tăng ngẫu hứng làm bài ca “Chăn Trâu”, mời Trưởng lão hòa.

Sư thưa:- Tôi tự có thầy rồi.

*

Sư từ giã đi nơi khác. Nam Tuyền tiễn đến cổng, cầm chiếc mũ của Sư đưa lên hỏi:

– Trưởng lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy?

Sư thưa:- Tuy nhiên như thế, đại thiên thế giới đều ở trong ấy.

Nam Tuyền bảo:- Vương lão sư vậy.

Sư đội mũ ra đi.

*

Sau, Sư về trụ trì tại Hồng Châu chùa Đại An. Đồ chúng tìm đến rất đông.

Có lần, Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy trụ trì:

– Vẽ cái gì đây?

Thầy trụ trì đáp:- Vẽ hình Cao tăng.

Bùi Hưu hỏi:- Hình có thể thấy, Cao tăng ở đâu?

Thầy trụ trì không đáp được.

Bùi Hưu hỏi:

– Trong đây có Thiền nhân chăng?

Thầy trụ trì đáp:

– Vừa có một vị Tăng vào chùa đang làm việc in tuồng Thiền giả.

Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói:

– Hưu vừa có một câu hỏi, chư đức tiếc lời, giờ thỉnh thượng nhân đáp thế một câu.

Sư bảo:- Mời Tướng công hỏi lại.

Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước.

Sư dùng tiếng trong thanh gọi:- Bùi Hưu!

Bùi Hưu:- Dạ!

Sư bảo:- Ở chỗ nào?

Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ làm thầy.

*

Có hôm Bùi Hưu hỏi:- Thế nào là Phật?

Sư đáp:

– Tức tâm là Phật, không tâm là đạo. Chỉ không có cái tâm khởi tâm động niệm, có không, dài ngắn, ta người, năng sở… Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm, tâm như hư không, sở dĩ nói: “Chân Pháp thân của Phật ví như hư không.” Không nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Giả sử trải qua số kiếp như cát sông Hằng tu hành lục độ vạn hạnh, được Phật Bồ-đề, cũng không phải cứu kính. Vì cớ sao? Vì thuộc về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô thường. Sở dĩ nói: “Báo, Hóa không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp.” Cốt biết tâm mình không ngã không nhân xưa nay là Phật.

Bùi Hưu hỏi:

– Tâm đã xưa nay là Phật, lại cầu tu lục độ vạn hạnh chăng?

Sư đáp:

– Ngộ tại tâm, không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn hạnh đều là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh. Giả sử Bồ-đề, chân như, thật tế, giải thoát, pháp thân, thẳng đến thập địa, bốn quả vị thánh đều là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Tâm tức là Phật, nên nói: “Tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc nhất.” Chỉ không tâm sanh tử phiền não v.v… tức không cần đến pháp Bồ-đề v.v… nên nói “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp” (Tổ Huệ Năng). Từ Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ luận một tâm, cũng nói là “Nhất thừa”, nên nói “tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng sanh này không còn nhánh lá, chỉ toàn hạt chắc (kinh Pháp Hoa). Bởi vì ý này khó tìm, nên Tổ Đạt-ma sang xứ này đến hai nước Lương, Ngụy mà chỉ có một mình Huệ Khả đại sư thầm tin tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội “tức tâm là Phật”. Thân tâm đều không, ấy là đại đạo. Đại đạo xưa nay bình đẳng, nên nói “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh”. Tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ. Lại có câu: “Khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn.”

Sau này, Tướng quốc Bùi Hưu đến trấn Uyển Lăng lập đại Thiền uyển thỉnh Sư làm hóa chủ ở đó. Vì mến núi cũ nên Sư vẫn để hiệu là Hoàng Bá

(Phần truyền dạy của Sư cho Bùi Hưu đầy đủ, nên đọc phần sưu tập “Tối Thượng Thừa Luận”.)

*

Một hôm, Sư thượng đường, đại chúng vân tập, Sư bảo:

– Các ngươi! Các ngươi muốn cầu cái gì?

Sư cầm trượng đuổi chúng. Đại chúng không tan. Sư lại ngồi xuống bảo:

– Các ngươi toàn là bọn ăn hèm, thế mà xưng hành khước để cho người chê cười. Thà cam thấy tám trăm, một ngàn người giải tán, chớ không thể chịu sự ồn náo. Ta khi đi hành khước hoặc gặp dưới rễ cỏ có cái ấy, là đem hết tâm tư xem xét nó. Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường. Trong lúc đó, nếu dễ dàng như các ngươi hiện giờ thì làm gì có việc ngày nay. Các ngươi đã xưng là hành khước, cần phải có chút ít tinh thần như thế, mới có thể biết đạo. Trong nước Đại Đường không có Thiền sư sao?

Có vị Tăng ra hỏi:

– Bậc tôn túc ở các nơi hợp chúng chỉ dạy, tại sao nói không Thiền sư?

Sư bảo:

– Chẳng nói không thiền, chỉ nói không Sư. Xà-lê chẳng thấy sao, dưới Mã Tổ Đại sư có tám mươi bốn người ngồi đạo tràng, song được chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng Lô Sơn Qui Tông là một trong số ấy.

Phàm người xuất gia phải biết sự phần từ trước lại mới được. Vả như, dưới Tứ Tổ, Đại sư Ngưu Đầu Pháp Dung nói dọc nói ngang vẫn chưa biết then chốt hướng thượng. Có con mắt này mới biện được tông đảng tà chánh. Người hiện giờ không hay thể hội, chỉ biết học ngôn ngữ, nghĩ nhầm trong đãy da tức chỗ đến an ổn, xưng là ta hội thiền, lại thay việc sanh tử cho ngươi được chăng?

Khinh thường bậc lão túc vào địa ngục nhanh như tên bắn. Ta vừa thấy ngươi vào cửa liền biết được rồi. Lại biết chăng? Cần kíp nỗ lực chớ dung dị. Thọ nhận chén cơm manh áo của người mà để một đời qua suông, người sáng mắt chê cười. Ngươi thời gian sau hẳn sẽ bị người tục lôi đi. Phải tự xem xa gần cái gì là việc trên mặt? Nếu hội liền hội, nếu không hội giải tán đi. Trân trọng!

*

Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi:- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư liền đập một gậy. Đến ba phen hỏi, mỗi lần đều bị một gậy. Sau cùng, Sư Lâm Tế phải từ giã Sư đi nơi khác. Sư dạy qua tham vấn Đại Ngu. Sau này, Lâm Tế đắc ngộ ý chỉ của Sư.

*

Chỗ chỉ dạy của Sư đều nhằm vào bậc thượng căn, người trung và hạ khó thấy được yếu chỉ.

Đời Đường khoảng niên hiệu Đại Trung (847-860 TL), Sư tịch tại núi Hoàng Bá.

Nhà vua sắc thụy là Đoạn Tế Thiền sư, tháp hiệu Quảng Nghiệp.

Sư có làm bài kệ khích lệ chúng:

Trần lao quýnh thoát sự phi thường,

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.

Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,

Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Dịch:

Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

∗ THIỀN SƯ ĐẠI AN (?-883)

Sư họ Trần, quê ở Phước Châu, xuất gia lúc còn bé, ở núi Hoàng Bá chuyên học Kinh Luật. Sư thường tự nghĩ: “Ta tuy cố gắng nhọc nhằn mà chưa nghe được lý huyền cực.” (lý cao siêu tột cùng của đạo) Do đó, Sư bèn một mình du phương, định sang Hồng Châu, đi Thượng Nguyên gặp một ông già bảo Sư: “Thầy nên đến Nam Xương sẽ có sở đắc.” Sư liền đi đến ra mắt Bá Trượng.

Lễ bái xong, Sư thưa:- Con muốn cầu biết Phật, thế nào là phải?

Bá Trượng bảo:- Thật là người cỡi trâu tìm trâu.

– Sau khi biết thì thế nào?

– Như người cỡi trâu về đến nhà.

– Chẳng biết trước sau gìn giữ thế nào?

– Như người chăn trâu cầm roi dòm chừng không cho nó ăn lúa mạ của người.

Sư nhân đây lãnh hội ý chỉ, chẳng đi tìm đâu nữa.

*

Nhân Thiền sư Linh Hựu khai sáng tại Qui Sơn, Sư đích thân đến đó phụ tá. Đến khi Linh Hựu tịch, đại chúng thỉnh Sư tiếp nối trụ trì.

Sư thượng đường bảo chúng:

– Cả thảy các ngươi đến Đại An này tìm cầu cái gì? Nếu muốn làm Phật, các ngươi tự là Phật. Sao lại gánh Phật sang nhà bên cạnh tìm, luống tự nhọc nhằn? Ví như con nai khát nước mà chạy theo ánh nắng (ánh nắng giống như nước, con nai lầm tưởng là nước cắm đầu chạy tìm), biết bao giờ được khế hợp.

Các ngươi muốn làm Phật, chỉ cần không có những tâm: điên đảo, vin theo, vọng tưởng, nghĩ ác, cấu đục, chẳng sạch của chúng sanh, tức các ngươi là Phật chánh giác mới phát tâm, lại đến chỗ riêng nào luận bàn. Sở dĩ, Đại An này ở tại núi Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui, mà không học thiền núi Qui, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ, liền lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người, liền đánh đập điều phục nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi.

Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa con mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa lỗ tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ, sáu cửa ngày đêm thường phóng quang sáng, cũng gọi là phóng quang tam-muội. Các ngươi tự chẳng biết, lại nhận bóng trong thân tứ đại. Nó là vật do trong ngoài giúp đỡ không dám chinh nghiêng, như người gánh nặng đi qua cây cầu khỉ, không dám để sẩy chân. Hãy nói vật gì có thể gìn giữ được? Như thế, không có một mảnh tơ, một sợi tóc có thể thấy.

Đâu chẳng nghe Hòa thượng Chí Công nói: “Trong ngoài tìm kiếm trọn không ra. Trên cảnh thi vi gồm tất cả.”

Trân trọng!

*

Có vị Tăng hỏi Sư:

– Tất cả thi vi là dụng của pháp thân, thế nào là pháp thân?

Sư đáp:- Tất cả thi vi là dụng của pháp thân.

– Lìa năm uẩn, thế nào là thân xưa nay?

– Đất nước gió lửa, thọ tưởng hành thức.

– Cái ấy là năm uẩn?

– Cái ấy là năm uẩn.

*

Tăng hỏi:- Khi ấm này đã mất, ấm kia chưa sanh thì thế nào?

Sư bảo:- Ấm này chưa mất, cái gì là Đại đức?

– Chẳng hội.

– Nếu hội ấm này liền rõ ấm kia.

*

Hòa thượng Tuyết Phong nhân vào núi lượm được một nhánh cây hình giống con rắn, đề trên lưng một câu: “vốn tự thiên nhiên chẳng nhờ bào gọt”, gởi tặng Sư.

Sư nhận, nói: – Người bản sắc ở núi, vẫn không vết dao búa.

*

Có người hỏi Sư:- Phật ở chỗ nào?

Sư đáp:- Chẳng lìa tâm.

– Người trên hai ngọn có được cái gì?

– Pháp không có chỗ được, dù có chỗ được, được vốn không được.

*

Sư giáo hóa ở thành Mân (tỉnh Phước Kiến) hơn hai mươi năm.

Đời Đường niên hiệu Trung Hòa năm thứ ba (883 TL), ngày hai mươi hai tháng mười, Sư trở về chùa Hoàng Bá, có chút bệnh rồi tịch. Môn đồ xây tháp thờ Sư trên núi Lăng-già.

Vua ban hiệu là Viên Trí Thiền sư, tháp hiệu Chứng Chơn.

∗ THIỀN SƯ THẦN TÁN

Sư quê ở Phước Châu, xuất gia tại chùa Đại Trung quận nhà. Sau, Sư đi hành khước gặp Bá Trượng Hoài Hải chỉ dạy được khai ngộ.

Sư trở về quê, bổn sư hỏi:

– Ngươi rời ta đi các nơi, đã được sự nghiệp gì?

Sư thưa:- Hoàn toàn không có sự nghiệp.

Bổn sư sai hầu hạ như trước.

*

Một hôm, nhân bổn sư tắm, bảo Sư kỳ đất. Sư bèn vỗ vào lưng bổn sư, nói:

– Chỗ điện Phật đẹp mà Phật chẳng thánh.

Bổn sư xoay đầu ngó lại.

Sư nói tiếp:

– Phật tuy chẳng thánh vẫn hay phóng quang.

*

Lại một hôm, bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có con ong chui đầu vào tấm giấy dán ở cửa sổ tìm lối ra. Sư trông thấy nói:

– Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?

Sư liền nói bài kệ:

Không môn bất khẳn xuất

Đầu song dã thái si

Bách niên tán cổ chỉ

Hà nhật xuất đầu thì?

Dịch:

Cửa không chẳng chịu ra

Quá ngu chui cửa sổ

Giấy cũ trăm năm dùi

Ngày nào dùi được phủng?

Bổn sư để kinh xuống hỏi:

– Ngươi đi hành khước gặp người nào, ta trước sau nghe ngươi nói lời dị thường?

Sư thưa:

– Con nhờ ơn Hòa thượng Bá Trượng chỉ dạy được chỗ thôi dứt, nay muốn đáp lại đức từ bi.

Bổn sư bèn bảo chúng đến giờ trai, thỉnh Sư thuyết pháp. Sư lên tòa đề cao môn phong của Bá Trượng, nói:

– Linh Hòa ngọc sáng quang riêng chiếu vượt khỏi căn trần, bày hiện chân thường chẳng câu nệ văn tự. Tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên tức như như Phật.

Bổn sư nghe câu này liền cảm ngộ, bảo:

– Có khi nào Lão tăng nghe được việc tột thế này!

*

Sau, Sư đến trụ trì tại chùa Cổ Linh, giáo hóa đồ chúng được mấy trăm.

Sắp tịch, Sư cạo tóc tắm gội bảo đánh chuông, gọi chúng dặn:

– Cả thảy các ngươi có biết chánh định không tiếng tăm chăng?

Chúng thưa:- Chẳng biết.

Sư bảo:- Các ngươi lắng nghe chớ có suy nghĩ riêng.

Chúng đều lắng nghe. Sư an nhiên thị tịch.

∗ THIỀN SƯ VÔ NGÔN THÔNG (?-826)

Sư họ Trịnh, quê ở Quảng Châu, xuất gia tại chùa Song Lâm xứ Vũ Châu. Tánh Sư điềm đạm ít nói mà thông minh, nên thời nhân gọi là Vô Ngôn Thông.

Sư lễ Phật, có một Thiền khách hỏi:- Tọa chủ lễ đó là cái gì?

Sư đáp:- Là Phật.

Thiền khách bèn chỉ tượng Phật hỏi:- Cái này là Phật gì?

Sư không đáp được.

Đến tối, Sư y phục chỉnh tề đến lễ Thiền khách, thưa:- Hôm nay Thầy hỏi, tôi chưa biết ý chỉ thế nào?

Thiền khách hỏi:- Tọa chủ được mấy hạ?

Sư thưa:- Mười hạ.

Thiền khách bảo:- Đã từng xuất gia chưa?

Sư càng thêm mờ mịt.

Thiền khách khuyên Sư đồng đến tham học với Mã Tổ. Đi đến Giang Tây nghe tin Mã Tổ đã tịch, bèn đến yết kiến Bá Trượng Hoài Hải.

*

Một hôm, trong giờ tham vấn, có vị Tăng hỏi Bá Trượng:

– Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?

Bá Trượng đáp:

– Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu.

Nghe câu này, Sư hoát nhiên đại ngộ.

*

Sau, Sư về Quảng Châu trụ trì tại chùa Hòa An.

Có người hỏi:- Thầy phải Thiền sư chăng?

Sư đáp:- Bần đạo chẳng từng học thiền.

Sư lặng thinh giây lâu, gọi người kia.

Người kia đáp:- Dạ!

Sư chỉ cây tông lư (cây móc).

*

Một hôm, Sư bảo Huệ Tịch đem giường lại. Huệ Tịch đem đến.

Sư bảo:- Đem lại chỗ cũ.

Huệ Tịch vâng theo.

Sư hỏi:- Cái giường ở bên này là vật gì?

– Không vật.

– Cái giường để bên kia là vật gì?

– Không vật.

Sư gọi: Huệ Tịch!

Huệ Tịch đáp: Dạ!

Sư bảo: Đi!

*

Năm Canh Tý niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (820 TL), Sư sang An Nam ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng (Bắc Ninh). Ở đây trọn ngày, Sư ngồi xây mặt vào vách suốt mấy năm mà không ai biết, chỉ Thiền sư Cảm Thành (trụ trì chùa này) biết Sư là vị Cao tăng đắc đạo trong nhà thiền. Cảm Thành hết lòng kính trọng tôn thờ Sư làm thầy.

Một hôm, Sư gọi Cảm Thành đến bảo:- Ngày xưa Tổ sư là Nam Nhạc (Hoài Nhượng) khi sắp tịch có dặn mấy lời:

Nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh

Tâm vô sở sanh pháp vô sở trụ

Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại

Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.

Dịch:

Tất cả các pháp đều từ tâm sanh

Tâm không chỗ sanh, pháp không chỗ trụ

Nếu đạt tâm địa chỗ trụ không ngại

Chẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy.

Nói xong, Sư chấp tay thị tịch, nhằm năm Bảo Lịch thứ hai đời Đường (826 TL). Cảm Thành rước Sư lên hỏa đàn, thu hài cốt xây tháp thờ ở núi Tiên Du.

∗ THIỀN SƯ HOẰNG BIỆN

Vua Đường Tuyên Tông hỏi Sư:

– Thiền tông sao có tên Nam, Bắc?

Sư đáp:

– Thiền môn vốn không có Nam, Bắc. Xưa Như Lai đem chánh pháp nhãn trao cho Tổ Đại Ca-diếp, lần lượt truyền nhau đến đời thứ hai mươi tám là Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Tổ Đạt-ma sang phương này (Trung Hoa) là Sơ Tổ, truyền đến vị Tổ thứ năm là Đại sư Hoằng Nhẫn. Tổ Hoằng Nhẫn mở bày chánh pháp ở Đông Sơn có hai đệ tử lỗi lạc là Huệ Năng và Thần Tú. Đại sư Huệ Năng được truyền y bát, về ở Lãnh Nam làm Tổ thứ sáu. Đại sư Thần Tú ở phương Bắc giáo hóa. Sau này, đệ tử Sư Thần Tú là Phổ Tịch lập thầy mình lên làm Tổ thứ sáu, rồi tự xưng là Tổ thứ bảy. Hai vị ấy được pháp là một, mà mở đạo khai ngộ có đốn tiệm khác nhau, cho nên gọi là Nam đốn, Bắc tiệm. Chẳng phải Thiền tông sẵn có tên Nam, Bắc vậy.

– Thế nào gọi là giới Sư?

– Ngừa lỗi dừng ác gọi là giới.

– Sao gọi là định?

– Sáu căn tiếp xúc với cảnh mà không chạy duyên theo là định.

– Sao là tuệ?

– Tâm cảnh đều không, chiếu soi chẳng lầm là tuệ.

– Sao là phương tiện?

– Phương tiện là ẩn che tướng thật, là cửa khéo léo tạm thời, để giáo hóa bậc trung, hạ căn chiều uốn dẫn dụ họ gọi là phương tiện. Dù là bậc thượng căn nói bỏ phương tiện chỉ nói đạo vô thượng, đây cũng là nói phương tiện. Cho đến Tổ sư dùng lời huyền diệu quên công bặt lời, cũng không vượt ngoài dấu vết phương tiện.

– Sao là Phật tâm?

– Phật là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa gọi là Giác. Nghĩa là người có trí tuệ giác chiếu là Phật tâm. Tâm là tên riêng của Phật. Có trăm ngàn tên khác mà nghĩa là một, vốn không có hình trạng, chẳng phải tướng xanh, vàng, đỏ, trắng, nam nữ v.v… ở nơi trời mà chẳng phải trời, ở nơi người mà chẳng phải người, mà hay hiện trời người, hiện nam nữ, chẳng trước chẳng sau, không sanh không diệt, cho nên gọi là tánh linh giác. Như bệ hạ hằng ngày ứng dụng muôn việc tức là Phật tâm của bệ hạ. Giả sử được ngàn vị Phật đồng truyền, vẫn không nghĩ mình có sở đắc.

– Như nay có người niệm Phật là sao?

– Như Lai ra đời là bậc thầy thiện tri thức của người. Ngài tùy căn cơ nói pháp, vì bậc thượng căn mở Tối thượng thừa đốn ngộ lý cùng tột, vì bậc trung hạ căn chưa có thể chóng hiểu, ấy là Phật vì bà Vi-đề-hi tạm mở cửa “mười sáu pháp quán” dạy niệm Phật sanh về Cực lạc. Cho nên kinh nói: “Tức tâm tức Phật, tâm ấy là Phật, ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm.”

– Có người tụng kinh, trì chú, niệm Phật để cầu làm Phật thì sao?

– Như Lai mở bày các thứ đều vì một thừa tối thượng, như trăm sông đều chảy về biển. Các pháp sai biệt như thế đều trở về biển Bát-nhã (Phật trí).

– Tổ sư đã khế hội tâm ấn, kinh Kim Cang nói “không có pháp sở đắc” là sao?

– Phương pháp giáo hóa của Phật thật không có một pháp cho người. Chỉ vì chỉ dạy cho mọi người, mỗi người đều có một kho pháp bảo. Chính khi Phật Nhiên Đăng ấn chứng cho Phật Thích-ca pháp căn bản ấy, Phật Thích-ca không có sở đắc mới khế hội bản ý của Phật Nhiên Đăng. Cho nên kinh nói: “Không ngã không nhân không chúng sanh không thọ giả, pháp ấy bình đẳng, tu tất cả pháp lành mà chẳng trụ nơi tướng.”

– Thiền sư đã hội ý Tổ, lại có lễ Phật tụng kinh chăng?

– Sa-môn Thích tử lễ Phật tụng kinh là pháp thường của Trụ trì, có bốn quả báo vậy. Song y Phật giới để tu thân, tìm học với các bậc thiện tri thức để tập tu hạnh thanh bạch, bước theo dấu Như Lai đã đi.

– Sao là đốn ngộ? Sao là tiệm tu?

– Chóng thấy tự tánh cùng Phật đồng bậc, song còn có tập nhiễm từ vô thủy nên mượn tiệm tu để đối trị, khiến theo tánh khởi dụng. Như người ăn cơm không thể một miếng được no.

Hôm ấy, Sư đối đáp với vua bảy khắc. Vua ban cho Sư tử y (y đỏ) và phương bào (áo vuông) và ban hiệu là Viên Trí Thiền sư.

∗ THIỀN SƯ TRÍ CHƠN (782-865)

Sư họ Liễu, quê ở Dương Châu, xuất gia tại chùa Hoa Lâm ở bản châu.

Đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa năm đầu (806 TL), Sư đến Nhuận Châu thọ giới ở chùa Thiên Hương. Sư không thích học tập Kinh Luận, chỉ mộ tu Thiền.

Sư tìm đến yết kiến Thiền sư Hoài Uẩn (Chương Kỉnh).

Hoài Uẩn hỏi:- Ở đâu đến?

Sư thưa:- Đến không chỗ đến, lại không chỗ lại.

Hoài Uẩn lặng thinh, Sư thầm khế hội.

*

Niên hiệu Khai Thành năm đầu (836 TL), Sư sang Phước Châu đến ấp Trường Khê có Trần Lượng, Hoàng Du thỉnh Sư ở lại núi Qui giáo hóa.

Một hôm, Sư dạy chúng:

– Nheo mày chớp mắt chẳng ngoài người này (người chân thật), một niệm tịnh tâm xưa nay là Phật.

Sư nói kệ:

Tâm bản tuyệt trần hà dụng tẩy

Thân trung vô bệnh khởi cầu y

Dục tri thị Phật phi thân xử

Minh giám cao huyền vị chiếu thì.

Dịch:

Tâm vốn bặt trần đâu cần rửa

Trong thân không bệnh rước thầy chi

Phật kia chẳng phải nơi thân ở

Gương sáng treo cao chưa chiếu gì.

*

Gặp thời Võ Tôn (841-846 TL) hủy diệt Phật giáo, bắt Tăng còn trẻ phải hoàn tục, Sư cũng phải hoàn tục. Lúc ấy, Sư có làm hai bài kệ dạy chúng:

Minh nguyệt phân hình xứ xứ tân

Bạch y ninh trụy giải không nhân

Thùy ngôn tại tục phòng tu đạo

Kim Túc tằng vi trưởng giả thân.

*

Nhẫn Tiên lâm hạ tọa thiền thời

Tằng bị Ca Vương cát tài chi

Huống ngã thánh triều vô thử sự

Chi kim hưu đạo diệc hà bi?

Dịch:

Trăng sáng phân hình chỗ chỗ tươi

Bạch y dễ kéo giải không người

Tại gia ai bảo tu học khó?

Kim Túc từng làm Trưởng giả chơi.

(Kim Túc nói đủ là Kim Túc Như Lai tức là tiền thân của cư sĩ Duy-ma-cật.)

*

Nhẫn Tiên thiền tọa ở rừng sâu

Từng bị Lợi Vương chặt cắt đau

Huống nay thánh chúa không việc ấy

Chỉ bắt thôi tu đáng buồn đâu?

*

Đến vua Tuyên Tông lên ngôi (847 TL) sùng phụng Phật pháp, Sư trở về chùa như xưa. Niên hiệu Hàm Thông năm thứ sáu (865 TL), Sư tịch tại núi này, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi tuổi hạ.

Vua ban hiệu là Qui Tịch Thiền sư, tháp hiệu Bí Chơn.

∗ THIỀN SƯ CẢNH SẦM – Trường Sa

Sau khi đắc pháp nơi Nam Tuyền, Sư đến Lộc Uyển an trụ. Về sau, Sư không ở một chỗ nhất định, chỉ tùy duyên tùy cảnh giáo hóa độ sanh. Vì thế, người đương thời gọi Sư là Hòa thượng Trường Sa.

Sư thượng đường dạy chúng:

– Nếu ta một bề nêu cao tông giáo thì trong pháp đường này cỏ mọc cao một trượng. Vì sự bất đắc dĩ, ta bảo các ngươi rằng: Tột mười phương thế giới là mắt của Sa-môn, tột mười phương thế giới là thân của Sa-môn, tột mười phương thế giới là ánh sáng của mình, tột mười phương thế giới ở trong ánh sáng của mình, tột mười phương thế giới không có người nào là chẳng phải chính mình. Ta thường nói với các ngươi: Chư Phật trong đời cùng chúng sanh khắp pháp giới là ánh sáng Ma-ha Bát-nhã. Khi ánh sáng này chưa phát, cả thảy các ngươi đến nương nơi đâu? Khi ánh sáng này chưa phát, còn không có tăm dạng Phật và chúng sanh, thì chỗ nào có núi sông thế giới?

Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là mắt Sa-môn?

Sư đáp:

– Dài dài ra chẳng đặng, thành Phật thành Tổ ra chẳng đặng, sáu đạo luân hồi ra chẳng đặng.

– Chẳng biết ra cái gì chẳng đặng?

– Ngày thấy mặt trời, đêm thấy sao.

– Con không hội.

– Núi Diệu Cao sắc xanh lại xanh.

*

Sư sai một vị Tăng đến hỏi bạn đồng sư là Hòa thượng Hiệp rằng:

– Hòa thượng sau khi thấy Nam Tuyền rồi thế nào?

Hòa thượng Hiệp lặng thinh.

Tăng hỏi:- Hòa thượng trước khi chưa thấy Nam Tuyền thì sao?

Hòa thượng Hiệp đáp:- Không thể lại riêng có.

Vị Tăng về thuật lại Sư nghe, Sư làm một bài kệ chỉ bày:

Bách trượng can đầu bất động nhân

Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân

Bách trượng can đầu tu tấn bộ

Thập phương thế giới thị toàn thân.

Dịch:

Trăm trượng đầu sào vẫn đứng yên

Tuy là được nhập chẳng phải hiền

Đầu sào trăm trượng cần vượt khỏi

Mười phương thế giới thảy thân mình.

*

Có quan khách đến yết kiến, Sư gọi:- Thượng thơ!

Quan khách:- Dạ!

– Chẳng phải bổn mạng thượng thơ.

– Không thể rời người đối đáp hiện nay lại có chủ nhân thứ hai.

– Gọi thượng thơ là chí tôn được chăng?

– Thế là khi chẳng đối, đâu không phải là chủ nhân của đệ tử?

– Chẳng những khi đối và khi không đối, mà từ vô thủy kiếp đến giờ cái ấy là cội gốc của sanh tử.

Sư làm bài kệ:

Học đạo chi nhân bất thức chân

Chi vị tùng lai nhận thức thần

Vô thủy kiếp lai sanh tử bản

Si nhân hoán tác bản lai nhân.

Dịch:

Học đạo mà không hiểu lẽ chân

Bởi tại lâu rồi nhận thức thần

Gốc nguồn sanh tử vô thủy kiếp

Người ngu lại gọi chủ nhân ông.

*

Tăng Hạo Nguyệt hỏi:

– Những vị thiện tri thức trong thiên hạ chứng được ba đức Niết-bàn chưa?

Sư đáp:

– Đó là Đại đức hỏi trên quả Niết-bàn hay trong nhân Niết-bàn?

– Trên quả Niết-bàn.

– Những thiện tri thức trong thiên hạ chưa chứng.

– Vì sao chưa chứng?

– Vì công chưa bằng chư thánh.

– Công chưa bằng chư thánh sao làm thiện tri thức.

– Thấy rõ Phật tánh cũng được gọi là thiện tri thức.

– Chẳng biết công bằng chừng nào mới được chứng Niết-bàn?

Sư có bài kệ:

Ma-ha Bát-nhã chiếu

Giải thoát thậm thâm pháp

Pháp thân tịch diệt thể

Tam nhất lý viên thường.

Dục thức công tề xứ

Thử danh thường tịch quang.

Dịch:

Trí tuệ lớn rộng soi

Pháp giải thoát sâu xa

Thể pháp thân vắng lặng

Ba một lý thường tròn.

Muốn biết chỗ công bằng

Đây gọi thường tịch quang.

– Trên quả ba đức Niết-bàn đã nhờ chỉ dạy, thế nào là trong nhân Niết-bàn?

– Đại đức ấy.

– Trong kinh nói ý huyễn là có chăng?

– Đại đức nói gì?

– Thế là ý huyễn tại không chăng?

– Đại đức nói gì?

– Thế là ý huyễn tại chẳng có chẳng không chăng?

– Đại đức nói gì?

– Con ba phen nhận định chẳng hợp ý huyễn, chưa biết Hòa thượng thế nào để rõ được ý huyễn trong kinh?

– Đại đức tin tất cả pháp không thể nghĩ bàn chăng?

– Lời thành thật của Phật đâu dám không tin.

– Đại đức nói tin, trong hai thứ tin là thứ tin nào?

– Theo con hiểu, trong hai thứ tin là tin duyên (tín duyên).

– Y giáo môn nào được sanh tin duyên?

– Theo kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát lớn lấy trí tuệ không chướng không ngại tin tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai.” Lại, kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật Thế Tôn thảy biết thế pháp và Phật pháp tánh không sai khác, quyết định không hai.” Cũng kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp thế gian pháp, nếu thấy chỗ chân thật của nó, tất cả không sai khác.”

– Đại đức nêu chỗ tin duyên trong giáo môn rất có bằng cứ. Nghe Lão tăng vì Đại đức nói rõ ý huyễn trong kinh:

Nhược nhân kiến huyễn bản lai chân

Thị tắc danh vi kiến Phật nhân

Viên thông pháp pháp vô sanh diệt

Vô diệt vô sanh thị Phật thân.

Dịch:

Nếu người thấy huyễn xưa nay chân

Thế ấy tức là thấy Phật nhân (người)

Suốt tròn các pháp không sanh diệt

Không diệt không sanh ấy Phật thân.

*

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng nối tiếp người nào?

Sư đáp:- Tôi không có người được nối tiếp.

– Lại có tham học không?

– Tôi tự tham học.

– Ý Hòa thượng thế nào?

Sư có bài kệ:

Hư không vấn vạn tượng

Vạn tượng đáp hư không

Thùy nhân thân đắc văn

Mộc xoa quán giác đồng.

Dịch:

Hư không hỏi vạn tượng

Vạn tượng đáp hư không

Người nào gần được nghe

Trẻ con đầu hai chỏm

*

Có vị Tăng hỏi:- “Sắc tức là không, không tức là sắc”, lý này thế nào?

Sư có bài kệ:

Ngại xứ phi tường bích

Thông xứ vật hư không

Nhược nhân như thị giải

Tâm sắc bản lai đồng

Phật tánh đường đường hiển hiện

Trụ tánh hữu tình nan kiến

Nhược ngộ chúng sanh vô ngã

Ngã diện hà thù Phật diện.

Dịch:

Chỗ ngại chẳng tường vách

Chỗ thông đâu hư không

Nếu người tìm hiểu như thế

Tâm sắc xưa nay đồng

Phật tánh hiển hiện rõ ràng

Trụ tánh hữu tình khó thấy

Nếu ngộ chúng sanh vô ngã

Mặt ta mặt Phật khác gì.

Sư có bài kệ khuyến học:

Vạn trượng can đầu vị đắc hưu

Đường đường hữu lộ thiểu nhân du

Thiền sư nguyện đạt Nam Tuyền khứ

Mãn mục thanh sơn vạn vạn thu.

Dịch:

Muôn trượng đầu sào chẳng được dừng

Sờ sờ đường cái ít người đi

Thiền sư muốn đạt Nam Tuyền lộ

Đầy mắt núi xanh muôn muôn thu.

Vì Sư không có nơi trụ nhất định nên không biết tịch lúc nào và nơi nào.

∗ THIỀN SƯ TÙNG THẨM – Triệu Châu (778-897)

Sư họ Hác, quê ở làng Hác, thuộc Tào Châu. Lúc bé Sư xuất gia ở Hỗ Thông Viện tại bản châu, nhưng chưa thọ giới. Sư tìm đến Trì Dương tham vấn Nam Tuyền (Phổ Nguyện) gặp lúc Nam Tuyền nằm nghỉ, mà vẫn hỏi:

– Vừa rời chỗ nào?

Sư thưa:- Vừa rời Đoan Tượng.

– Thấy Đoan Tượng chăng?

– Chẳng thấy Đoan Tượng, chỉ thấy Như Lai nằm.

– Ngươi là Sa-di có chủ hay không chủ?

– Sa-di có chủ.

– Chủ ở chỗ nào?

– Giữa mùa đông rất lạnh, ngưỡng mong tôn thể Hòa thượng được muôn phước.

Nam Tuyền khen ngợi liền nhận vào chúng.

*

Sư hỏi Nam Tuyền:- Thế nào là đạo?

Nam Tuyền đáp:- Tâm bình thường là đạo.

– Lại có thể nhằm tiến đến chăng?

– Nghĩ nhằm tiến đến là trái.

– Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?

– Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy?

Ngay câu nói này Sư ngộ lý.

*

Sư đến đàn Lưu Ly tại Tung Nhạc thọ giới. Thọ giới xong, Sư trở lại Nam Tuyền.

Sư hỏi Nam Tuyền:- Biết có người ấy đến chỗ nào an nghỉ?

Nam Tuyền bảo:- Đến nhà đàn việt dưới núi làm con trâu đi.

– Cảm tạ Thầy chỉ dạy.

– Đêm qua canh ba trăng soi cửa.

*

Sư đến Hoàng Bá (Hy Vận). Hoàng Bá thấy Sư đến liền đóng cửa phương trượng. Sư lấy lửa đem vào pháp đường kêu:

– Cứu lửa! Cứu lửa!

Hoàng Bá mở cửa, nắm Sư đứng lại, bảo:- Nói! Nói!

Sư bảo:- Cướp qua rồi mới trương cung.

*

Sư đến Đạo Ngô (Viên Trí), vừa vào nhà, Đạo Ngô nói:

– Mũi tên Nam Tuyền đến!

Sư bảo:- Xem tên!

Đạo Ngô nói:- Trật.

Sư bảo:- Trúng.

*

Sư đến Giáp Sơn (Thiện Hội) cầm gậy vào pháp đường.

Giáp Sơn hỏi:- Làm gì?

Sư đáp:- Dò nước.

Giáp Sơn bảo:- Một nhỏ cũng không, dò cái gì?

Sư chống gậy đi ra.

*

Sau khi được Nam Tuyền ấn khả, Sư về Tào Châu thăm bổn sư. Những người quen thuộc hay tin Sư về đều muốn đến thăm, Sư nghe được bèn nói:

– Lưới ái trần tục không có ngày dứt được, ta đã từ bỏ xuất gia, không muốn gặp lại.

Sư liền mang bát cầm gậy dạo khắp các nơi. Sư thường nói:

– Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy họ.

*

Sau chúng thỉnh Sư ở viện Quan Âm tại Triệu Châu. Có vị Tăng hỏi:

– Thế nào là Phật?

Sư bảo:- Ở trong điện.

– Trong điện đâu không phải bùn đất đắp thành tượng?

– Phải.

– Thế nào là Phật?

– Ở trong điện.

– Con mê muội xin Thầy chỉ dạy.

– Ăn cháo xong chưa?

– Ăn cháo xong.

– Rửa chén bát đi!

Tăng nhân đây đại ngộ.

*

Sư thượng đường dạy chúng:

– Như minh châu trong tay, Hồ đến thì hiện Hồ, Hán đến thì hiện Hán. Lão tăng nắm một nắm cỏ dùng làm thân vàng (thân Phật) một trượng sáu, đem thân vàng một trượng sáu dùng làm nắm cỏ, Phật là phiền não, phiền não là Phật.

Có vị Tăng đứng lên hỏi:- Chưa biết Phật là phiền não của ai?

Sư đáp:- Là phiền não của tất cả người.

– Làm sao khỏi được?

– Dùng khỏi làm gì?

*

Có người hỏi:- Con chó có Phật tánh không?

Sư đáp:- Không.

– Trên đến chư Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật tánh, vì sao con chó không có Phật tánh?

– Vì nó còn có nghiệp thức.

Lại, có người hỏi:- Con chó có Phật tánh không?

Sư đáp:- Có.

– Đã có Phật tánh vì sao chui vào trong đãy da?

– Vì biết mà cố phạm.

*

Sư hỏi vị Tăng mới đến:- Từng đến đây chưa?

Tăng thưa:- Từng đến.

– Uống trà đi!

Sư lại hỏi Tăng:- Từng đến đây chưa?

Tăng thưa:- Chưa từng đến.

– Uống trà đi!

Sau Viện chủ hỏi Sư:

– Vì sao từng đến dạy uống trà đi, chưa từng đến cũng dạy uống trà đi?

Sư gọi:- Viện chủ!

Viện chủ đáp:- Dạ!

Sư bảo:- Uống trà đi!

*

Sư cầm chổi quét đất, có người hỏi:

– Hòa thượng là thiện tri thức vì sao có bụi?

Sư bảo:- Bên ngoài đến.

– Già-lam thanh tịnh vì sao có bụi?

– Lại có một điểm.

*

Có ông Tú tài đến hỏi Sư:

– Phật chẳng trái sở nguyện của chúng sanh phải chăng?

Sư đáp:- Phải.

– Con muốn xin cây gậy trong tay Hòa thượng được chăng?

– Người quân tử không đoạt cái sở thích của người.

– Con không phải là quân tử.

– Ta cũng chẳng phải là Phật.

*

Có người hỏi:

– Đã lâu nghe tiếng cầu đá Triệu Châu, nay đến chỉ thấy cầu nổi.

Sư bảo:- Ông chỉ thấy cầu nổi mà không thấy cầu đá.

– Thế nào là cầu đá?

– Độ lừa độ ngựa.

– Thế nào là cầu nổi?

– Mỗi mỗi độ người.

*

Sư dạy chúng:

– Vừa có phải quấy thì lăng xăng mất tâm, lại có người đáp thoại (câu nói) hay chăng?

Có vị Tăng bước ra vỗ thị giả một cái, nói:

– Sao không đáp Hòa thượng?

Sư liền vào phương trượng.

Sau, thị giả thưa:

– Vừa rồi có vị Tăng làm thế ấy là hội hay chẳng hội?

Sư bảo:- Ngồi thấy đứng, đứng thấy ngồi.

*

Sư dạy chúng:

– Đạo chẳng khó, chỉ hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn, là minh bạch. Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, các ngươi lại tiếc giữ chăng?

Có vị Tăng đứng ra hỏi:- Đã chẳng ở trong minh bạch thì tiếc giữ cái gì?

Sư bảo:- Ta cũng chẳng biết.

– Hòa thượng đã chẳng biết, vì sao chẳng ở trong minh bạch?

– Hỏi việc thì được, lễ bái xong lui ra.

*

Quan Đại phu họ Mã đến hỏi:- Hòa thượng có tu hành chăng?

Sư đáp:- Lão tăng nếu tu hành là việc họa.

– Hòa thượng đã chẳng tu hành thì dạy người nào tu hành?

– Đại phu là người tu hành.

– Con sao bảo là tu hành?

– Nếu không tu hành thì đâu được đánh đập người, ở trong địa vị nhân vương đói có cơm, lạnh có áo, không biết ngày ra khỏi.

Đại phu nghe cảm động rơi nước mắt, lễ tạ Sư.

*

Có vị Tăng hỏi:- Trong mười hai giờ dụng tâm thế nào?

Sư đáp:- Ngươi bị mười hai giờ sai khiến, ta sai khiến được mười hai giờ.

Sư bèn nói:

– Huynh đệ! Chớ đứng lâu. Có việc thì thương lượng, không việc thì đến nhà sau ngồi, tìm xét lý là tốt. Lão tăng lúc đi hành khước, trừ hai thời cơm cháo là tạp dụng tâm, ngoài ra không có dụng tâm khác. Nếu chẳng như thế rất là xa vậy.

*

Sư thượng đường dạy chúng:

– Phật vàng không độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở trong. Bồ-đề Niết-bàn Chân như Phật tánh trọn là y phục đắp vào thân, cũng gọi phiền não, thật tế lý địa để ở chỗ nào? Một tâm chẳng sanh, muôn pháp không lỗi. Ngươi cứ nghiên cứu lý này, ngồi quán xét hai ba mươi năm, nếu chẳng hội thì chặt đầu Lão tăng đi! Nhọc nhằn nắm bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như. Đã chẳng từ ngoài được thì câu chấp làm gì? Giống in như con dê gặp vật gì cũng liếm cũng nhai. Lão tăng thấy Hòa thượng Dược Sơn (Duy Nghiễm) có người hỏi, Ngài liền bảo “ngậm lấy miệng chó”. Lão Tăng cũng dạy: “Ngậm miệng chó.” Chấp ngã thì nhơ, không chấp ngã thì sạch, giống như con chó săn tìm kiếm vật để ăn. Phật pháp ở chỗ nào? Ngàn người muôn người thảy đều là kẻ tìm Phật, mà ở trong đó tìm một đạo nhân (người học đạo thật) không có.

Nếu cùng vua KHÔNG làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh khó trị. Khi chưa có thế giới, trước đã có tánh này, khi thế giới hoại, tánh này chẳng hoại. Một phen được thấy Lão tăng, sau lại chẳng phải người khác, chỉ là chủ nhân này. Cái đó lại hướng ngoài tìm làm gì? Khi ấy chớ xoa đầu moi óc, nếu xoa đầu moi óc liền mất vậy.

Có vị Tăng hỏi:

– Theo lời Thầy dạy “khi thế giới hoại, tánh này chẳng hoại”, thế nào là tánh này?

Sư đáp:- Tứ đại ngũ uẩn.

– Các thứ ấy vẫn là hoại, thế nào là tánh này?

– Tứ đại ngũ uẩn.

*

Có vị Tăng đến từ giã Sư. Sư hỏi: – Đi đâu?

Tăng thưa:- Đến Tuyết Phong.

– Tuyết Phong nếu hỏi ngươi: “Hòa thượng dạy những lời gì”, ngươi đáp thế nào?

– Con nói chẳng được, thỉnh Hòa thượng nói.

– Đông thì nói lạnh, hạ thì nói nóng.

Sư lại hỏi:- Tuyết Phong lại hỏi ngươi: “việc cứu kính thế nào”.

– Con nói chẳng được.

– Chỉ nói: chính từ Triệu Châu lại, chẳng phải miệng người truyền.

Vị Tăng ấy đến Tuyết Phong thuật lại cho Tuyết Phong nghe.

Tuyết Phong bảo:- Phải là Triệu Châu mới được.

*

Thời gian trụ trì tại viện Quan Âm, có vua nước Yên, nước Triệu đồng đến ra mắt Sư. Sư vẫn ngồi tiếp, không đứng dậy. Vua Yên hỏi:

– Nhân vương đáng tôn trọng hay Pháp vương đáng tôn trọng?

Sư đáp:

– Nếu ở trong nhân vương thì Nhân vương trọng, nếu ở trong pháp vương thì Pháp vương trọng.

Hai vua nghe rồi đều vui vẻ kính phục và đồng cúng dường.

*

Sư học theo người xưa trụ trì rất kham khổ, trong Tăng đường trước sau trống rỗng không có bàn ghế, chỉ nằm cái giường dây gãy một góc, lấy dây ràng rịt lại. Có người xin đóng giường mới, Sư không cho. Trụ trì hơn bốn mươi năm, Sư chưa từng biên một lá thơ cho thí chủ.

*

Niên hiệu Càng Ninh năm thứ tư đời Đường (894 TL), ngày mùng hai tháng mười một, Sư nằm nghiêng bên mặt an nhiên thị tịch, Sư thọ một trăm hai mươi tuổi. Vua ban hiệu là Chơn Tế Đại sư.

∗ THIỀN SƯ SÙNG TÍN – Long Đàm

Sư con nhà bán bánh. Thuở nhỏ có những điềm lạ. Lúc Thiền sư Đạo Ngộ được Tiết sử họ Lư thỉnh ở chùa Thiên Vương, người ta không thể hiểu được. Nhà Sư ở đầu đường vào chùa, mỗi ngày Sư đem mười cái bánh vào cúng dường Thiền sư Đạo Ngộ. Đạo Ngộ nhận ăn xong, thường để lại một cái bánh, bảo:

– Ta cho ngươi để ân huệ cho con cháu.

Một hôm, Sư tự nghĩ: “Bánh là ta đem đến, cớ sao Hòa thượng lại cho ngược lại ta? Biết đâu không có ý chỉ.” Sư bèn đến hỏi Đạo Ngộ.

Đạo Ngộ bảo:

– Bánh của ngươi đem đến, ta cho lại ngươi có lỗi gì?

Sư nghe lời này hiểu được thâm ý liền xin xuất gia.

Đạo Ngộ bảo:

– Ngươi trước sùng phước thiện, nay tin lời ta, có thể gọi là Sùng Tín.

Từ đây, Sư hầu hạ bên thầy.

*

Một hôm, Sư thưa:

– Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu.

Đạo Ngộ bảo:

– Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu.

– Chỉ dạy ở chỗ nào?

– Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đen, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?

Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu.

Đạo Ngộ bảo:

– Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.

Ngay câu nói đó, Sư khai ngộ. Lại hỏi thêm:

– Làm sao gìn giữ?

– Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có thánh giải khác.

*

Sau Sư đến Lễ Dương dừng trụ tại Long Đàm.

Có vị Tăng hỏi:- Hạt châu trong búi tóc người nào được?

Sư bảo:- Người không thưởng ngoạn được.

– Để ở chỗ nào?

– Có chỗ tức nói đến.

*

Có cô Ni hỏi:- Làm sao được làm Tăng?

Sư bảo:- Làm Ni đã bao lâu?

– Lại có khi làm Tăng chăng?

– Hiện nay ngươi là gì?

– Hiện nay thân Ni ai chẳng biết?

– Ai biết ngươi?

*

Thích sử Lý Tường hỏi:- Thế nào là chân như Bát-nhã?

Sư đáp:- Tôi không có chân như Bát-nhã.

– Hân hạnh được gặp Hòa thượng.

– Đây vẫn là lời nói ở bên ngoài.

*

Tuyên Giám (Đức Sơn) hỏi:

– Đã lâu nghe danh Long Đàm (đầm rồng), đến đây thì Đàm (đầm) chẳng thấy, Long (rồng) cũng chẳng hiện.

Sư bảo:- Ngươi đã đến gần được Long Đàm.

Tuyên Giám liền thôi.

Trang trước Mục lục Trang sau

Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.