Ở Ấn Độ có một ngôi chùa, bên cạnh chùa có một cây tùng thuộc giống tùng Ông Uất Bà Sa, vì thế nên người ta lấy cây đặt tên cho chùa, gọi là “chùa cây tùng”.
Trong chùa có hơn một trăm vị tăng cư ngụ, mỗi ngày tu tập chỉ quán, họ tu hành rất tinh tiến dũng mãnh, vì thế thánh nhân đã chứng quả trong chùa không phải là ít.
Cách chùa cây tùng khoảng hai, ba dặm đường, có một bà cư sĩ tu tại gia. Bà thành tâm cung kính cúng dường các vị xuất gia đến mức cùng cực. Bà phát nguyện mỗi ngày thỉnh một vị tỳ kheo đến nhà cho bà được cúng dường, vì thế chư tăng trong chùa cây tùng luân phiên nhau đến nhà bà thọ cúng. Cúng dường xong, bà còn muốn được nghe chư tăng thuyết pháp khai thị cho, nên cái vị tỳ kheo tuổi cao đức trọng, tinh thông liễu giải Phật pháp thì hoan hỉ chấp nhận, nhưng vì bà cư sĩ này cũng có thông hiểu Phật pháp đôi chút, nên các vị tỳ kheo sức tu học ít ỏi thiếu sót thì lại không mấy gì muốn đến nhà bà.
Trong chùa cây tùng có một vị tỳ kheo tên là Ma Ha Lô, cuối đời mới xuất gia, tuy tuổi rất cao nhưng sự hiểu biết về Phật pháp rất là ít ỏi, chỗ thâm sâu của pháp thì cố nhiên là mù tịt, nhưng ngay cả chỗ cơ bản tối thiểu ông cũng không biết.
Một hôm, đến phiên ông đi thọ cúng, ông dĩ nhiên không hề muốn đi chút nào vì tự biết mình không biết thuyết pháp khai thị cho ai. Ông từ chối, đẩy người khác đi thế, nhưng đẩy tới đẩy lui mà chẳng ai nhận lời đi thế ông, ai cũng bảo rằng :
– Tới phiên ông thì ông đi đi chứ, đẩy người khác đi thế là nghĩa thế nào?
Cuối cùng ông thầm nghĩ rằng:
– Ta là tăng sĩ, là phúc điền, lẽ ra phải nhận sự cúng dường của người ta, khiến cho người ta được dịp vun bồi ruộng phước và trưởng dưỡng gốc thiện. Tuy ta không biết thuyết pháp, nhưng không ai chịu đi thì tốt nhất là chính ta đi vậy.
Vị tỳ kheo già bèn chống gậy lần mò từng bước chầm chậm lên đường. Bà cư sĩ ở nhà chờ thật lâu, lòng nóng như lửa đốt vì đã đúng ngọ rồi mà vẫn chưa thấy ai tới. Khó khăn lắm lão tỳ kheo mới lại tới, bà cư sĩ ngắm ông lão từ xa dáng điệu đạo mạo nghiêm trang, da dẻ hồng hào, đầu tóc bạc phơ, trong lòng cảm thấy vô cùng tôn kính, vội vàng lễ lậy thưa hỏi:
– Ngài là bậc trưởng lão tuổi cao đức trọng, được ngài quang lâm tệ xá, đệ tử cảm thấy vô cùng vinh hạnh!
Bà một lòng nghĩ rằng vị lão tăng này nhất định phải là một vị trí huệ thâm sâu, sẽ có thể bố thí cho bà những bài pháp vi diệu vô thượng, vì thế bà hoan hỉ không kể xiết, vội vàng bày ra những món ăn tuyệt mỹ nhất cúng dường lão tỳ kheo.
Cúng dường xong, bà thỉnh lão tỳ kheo ngồi lên toà cho bà đảnh lễ, và quỳ dưới đất, bà thỉnh ngài thuyết pháp khai thị.
Vị tỳ kheo đăng bảo tòa rồi, trong lòng xấu hổ muôn phần, thấy mình thật là ngu si một cách đáng thương vì không hề biết gì về Phật pháp. Không có cách nào khác, ông thở dài một tiếng nói nhỏ:
– Cái ngu si của con người đúng là gốc rễ của muôn phiền não!
Nói xong, ông bước xuống bảo toà bỏ đi. Bà cư sĩ đang quỳ dưới đất, cảm thấy đây là bài pháp vô thượng vi diệu nhất mà bà được nghe từ trước đến naỵ Bà suy nghĩ kỹ lưỡng như sau: ngu si có nghĩa là vô minh, mà vô minh là căn bổn của mười hai nhân duyên; vì có cái căn bổn vô minh này nên con người ở mãi trong bể khổ, sinh sinh tử tử triền miên không ngừng trong luân hồi, tất cả mọi khổ não đều do đây mà phát khởi. Bà cứ mãi tinh tiến tư duy như thế không ngừng nên ngay lúc ấy chứng quả A La Hán.
Chứng được quả vị rồi, bà cư sĩ muôn phần hoan hỉ, vào kho lấy ra một tấm thảm dạ lớn màu trắng để cúng dường vị lão tỳ kheo, nhưng bà tìm khắp nơi không thấy vị này. Sự thật là vị này xuống toà xong là bỏ về chùa cây tùng ngay, nhưng bà cư sĩ tìm không thấy nên đinh ninh là ông có thần thông, vội đem lễ vật cúng dường lên chùa.
Lão tỳ kheo về chùa rồi, có người vào báo có bà cư sĩ đến tìm, ông nghĩ bà này lại muốn nghe pháp nữa nên không chịu ra tiếp. Bà cư sĩ cứ khăng khăng muốn gặp, nên người vào thông báo lúc nãy rất lấy làm khó xử, hỏi bà:
– Chẳng hay bà nhất định gặp vị ấy để làm gì vậy?
– Ngài ấy đã giúp tôi giải thoát căn bổn của khổ, vì thế tôi muốn cúng dường cảm tạ.
Khi lão tỳ kheo biết bà không đến để đòi nghe pháp mới chịu ra nhận cúng dường.
Nghe thế mới biết, một pháp hay tất cả pháp, khi nhân duyên tụ tập đầy đủ, chỉ cần một hai câu là người nghe có được lợi lạc lớn, một đời thọ dụng cũng không hết. Nhân duyên chưa đầy đủ thì dẫu lời nói như hoa sen tuôn khỏi miệng cũng chỉ phí công vô ích.