Xuân Trong Cửa Thiền

Những Niềm Vui Chân Thật



Xuân Mậu Thìn – 1988

Mỗi năm đến ngày Tết Nguyên Đán, tất cả Phật tử gần xa đều tựu hội về đây trước là lễ Phật nhân ngày vía đức Di-lặc, sau là mừng tuổi chúc thọ chư Tăng.

Theo tinh thần đạo Phật, không phải mỗi khi Tết đến, chúng ta chúc mừng nhau sống lâu trăm tuổi. Chúc như vậy không có kết quả gì, chỉ là lời rỗng suông thôi. Vì vậy chúng tôi sẽ nhắc nhở quí Phật tử đường lối tu hành, đồng thời cũng là chúc mừng nhau trên đường tu mỗi ngày một thăng tiến, không để dừng lại một chỗ mãi. Vì lẽ đó hôm nay chúng tôi sẽ nói về cái vui của đời và cái vui của đạo trong mùa Xuân.

Đầu xuân ai ai cũng thấy vui tươi, ấm áp, hi vọng, nên tất cả cùng chúc mừng, cùng vui vẻ với nhau. Vì vậy chúc xuân hay vui xuân đã có từ xưa đến giờ. Hôm nay chúng ta phải tìm cho tường tận thế nào là vui xuân, cái vui thật sự của cuộc đời và cái vui thật sự trong đạo. Hai cái vui đó gần nhau không? Nó có lợi ích thiết thực như thế nào?

Trước hết chúng tôi nói cái vui của đời. Ngoài đời lúc nào người ta vui mừng? Đó là lúc được cái gì hơn thiên hạ, được cái gì thắng hơn người. Thí dụ quí vị đi vào các cuộc chơi như đá banh hay đánh cờ v.v… khi mình cười là lúc thua hay lúc thắng? Lúc thắng thì vỗ tay hoan nghênh cùng vui, cùng cười. Người thắng thì cười, còn người thua cuộc tự nhiên buồn khổ. Như vậy cái vui của cuộc đời là vui khi mình thắng, mà người thua phải buồn. Cái vui ấy là vui trọn vẹn của những người trong cuộc, hay có người vui có người buồn? Vui của đời là vui trong thắng cuộc, mình thắng thì người khác phải thua. Kẻ thắng thì vui, người thua phải khổ. Rõ ràng chúng ta vui trong cái đau khổ của người khác, chớ không phải cái vui trọn vẹn. Người thế gian nghĩ làm sao cho mình được vui, nghĩa là chơi thế nào cho hơn người, một lần thua là một lần buồn. Những người khác đến chơi với chúng ta, cũng muốn hơn để được vui. Đó là vui trong giành giật hơn thua, ai được hơn thì vui, ai bị thua thì khổ. Như vậy mới thấy rõ cái vui của thế tục là vui trong đau khổ.

Ngược lại, cái vui của người tu khác hơn cái vui của người thế tục. Người thế tục vui khi thắng được người, người tu vui khi thắng được mình. Thí dụ người Phật tử khi bị ai nói những lời kích bác làm tự ái nổi lên, vừa khi cơn sân bừng bừng nổi dậy, lúc đó liền tỉnh biết sân là xấu, không xứng đáng với người Phật tử, vừa biết như vậy liền bỏ nó đi. Do buông bỏ, qua được cơn nóng giận, mình cảm thấy bình tĩnh trở lại, lúc đó có vui không? Vui vì mình đã thắng được mình, đã chiến thắng chớ không phải đầu hàng. Một lần thắng được mình là một lần vui. Cái vui đó có làm ai khổ không? Rõ ràng mình vui mà người kích bác, họ thấy mình không trả lời, không phản đối, họ cũng không buồn. Vui thắng mình mới là vui trọn vẹn, vui thắng người là vui của đau khổ, chớ không phải cái vui thật. Người đời cứ đuổi theo cái vui đó để người khác phải khổ. Người biết tu chỉ vui khi thắng mình. Một lòng tham dấy lên thắng được nó là vui, một cơn giận nổi lên thắng được nó là vui, những cám dỗ thắng được nó là vui. Vui đó có lợi cho nội tâm mình, mà không hại ai. Như vậy vui của đạo mới là vui thật sự, vui mà không gây khổ cho ai. Đó là bước thứ nhất.

Đến bước thứ hai, người đời vui khi nào họ được cái mình ưa thích. Thí dụ đi đường thấy ai làm rớt một món đồ quí giá, họ lượm được, dĩ nhiên lúc đó rất vui. Người được may mắn vui, nhưng người mất vật quí có vui không? Cái được mà mình vui đó đổi lại bao nhiêu nước mắt của kẻ bị mất. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, gặp thời gặp thế, chúng ta mua đâu được đó, bán đâu đắt đó, cái gì cũng hơn người, lúc ấy mình vui quá, nhưng người khác thì sao? Thí dụ ngày hôm qua mình mua món đồ giá một ngàn đồng, hôm nay bỗng dưng lên giá một ngàn rưỡi, mình vui vì được lời, nhưng người bán cho mình hôm qua, có buồn không? Tất nhiên là buồn, vì họ lỗ, họ thiệt thòi. Như vậy cái vui của mình là cái buồn của kẻ khác.

Phật tử nếu biết vui thì phải vui làm sao? Không phải vui trong cái được, mà vui trong cái lìa. Nghe thế thì buồn quá, lìa mà vui cái gì? Nhưng không ngờ lìa mới là vui. Người đời được là vui, trái lại người tu lìa là vui. Tại sao? Thí dụ khi trước bị bệnh ghiền thuốc hành mình cay đắng, tốn tiền tốn bạc, bây giờ bỏ được bệnh ghiền thuốc, mình có vui không? Lìa được bệnh ghiền đó là vui. Vui đó có ai khổ không? Niềm vui đó làm cả nhà vui lây, phải không? Đó mới là cái vui thật. Hồi xưa mình say rượu mê man, nay quán này mai quán nọ, bao nhiêu tiền cũng không đủ. Bây giờ bỏ rượu tức lìa được rượu, gia đình vui không? Mình thắng được rượu, lìa được ghiền rượu, bản thân mình vui mà gia đình cũng vui. Do lìa mà vui đó là người tu, do được mà vui đó là người đời. Khi biết tu, lìa những bệnh ghiền rượu, ghiền thuốc, ghiền á phiện… đó là vui.

Xa hơn nữa, lìa được ngũ dục ở thế gian là nguồn vui chân chánh của người học đạo. Người tu thiền khi được định Sơ thiền gọi là Ly sanh hỉ lạc. Ly tức là lìa, lìa cái gì? Lìa mê đắm ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm điều này lìa được, không dính không nhiễm gọi là ly. Lìa được ngũ dục rồi thì lòng khoan khoái nhẹ nhàng gọi là được định Sơ thiền Ly sanh hỉ lạc. Thí dụ khi trước mình có tật thích đi xem hát, gánh hát nào lại gióng trống lên là mình nôn nao phải đi xem hát cho kỳ được. Bây giờ biết tu, khi nghe gánh hát gióng trống, mình nhất định không đi xem hát. Cho đến khi gánh hát dọn đi mình cũng không bén mảng tới rạp hát, lìa được cái mê xem hát, là mình thắng mình, nên cảm thấy vui. Cái vui đó không tốn tiền tốn bạc mà mình được sự an ổn. Vui đó do xa lìa ngũ dục, không bị nhiễm trước, gọi đó là Ly sanh hỉ lạc, được định Sơ thiền.

Kế nữa người đời thích vui trong cảnh nhộn nhịp, chỗ đông đảo ồn ào, như rạp hát, sân đá bóng, phòng trà v.v… nhưng cái vui ồn náo nhộn nhịp đó có lâu bền hay không? Như nơi rạp hát, khi người hề khéo giễu làm cho mình cười ồ lên, cười đến nôn ruột đi nữa, nhưng một lát ra về cũng hết cười. Ta chỉ cười khi trước mắt mình thấy, lỗ tai mình nghe những chuyện họ khéo gợi, lúc ấy vui. Ra khỏi nơi đó rồi, không được vui nữa, nhất là đi xem hát tới mười một mười hai giờ đêm mới về, vừa đi dọc đường vừa buồn ngủ, có vui không? Hết vui rồi. Nếu người tiền bạc eo hẹp, khi xem hát về, túi tiền trống rỗng, nhớ lại ngày mai không đủ tiền mua gạo, lúc đó còn vui không? Cho nên cái vui ở chỗ ồn náo, chỉ là vui nhất thời, tạm bợ, không có lâu bền.

Ngược lại, người học đạo, người biết tu không thích cái vui ồn ào mà lại thích vui trong yên lặng, ngồi những nơi yên tĩnh, một mình nhìn trời, nhìn mây, ngắm hoa ngắm kiểng, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Đó là niềm vui của người trong đạo. Người tu thiền lấy thiền định làm niềm vui của mình, cho nên gọi Nhị thiền là Định sanh hỉ lạc. Do tâm được yên định sanh ra vui mừng, cái vui mừng đó có tốn hao gì không? Do tâm định, vui mừng phát ra, không có tốn hao gì cả. Vui trong yên định là vui sáng suốt, tỉnh táo, khỏe khoắn, an nhàn, không phải cái vui ồn ào, nhọc nhằn mỏi mệt. Vui ở chỗ nhộn nhịp làm cho mình mất sức khỏe, tiêu hao nghị lực, vừa tốn của vừa tốn công, vừa làm cho mình phải suy mòn sức lực. Vui của người tu nơi yên lặng, trong lúc thiền định, cái vui đó nhẹ nhàng thanh thoát, tâm hồn sáng tỉnh đó mới là cái vui chân thật.

Kế nữa, người đời vui trong mê lầm, không phải vui trong tỉnh giác. Mê lầm là sao? Thí dụ họ cho đánh bạc là vui. Cái vui đó có phải là vui thật không? Khi đánh ăn thì vui, nếu thua thì khổ. Đến sòng bạc họ nói là đi mua vui, cái vui đó là vui trong mê lầm. Rồi đến uống rượu họ cho là vui. Thí dụ năm bảy người rủ nhau tới quán rượu, chén thù chén tạc, người nào người nấy say túy lúy, như thế vui không? Người đời cho ăn nhậu là vui nhưng khi say túy lúy rồi nôn mửa, có vui không? Ngồi quán uống rượu  làm cho sức khỏe tiêu mòn, tiền bạc tốn hao, tăng trưởng si mê. Như vậy có phải là vui trong mê lầm không?

Đối với người học đạo, vui của mình là vui giác ngộ. Thí dụ đang ngồi thiền có vấn đề khi trước mình không hiểu, nay bỗng dưng hiểu ra, đó thật là vui, có khi vui quá mình cười to lên… đó là do giác ngộ mà vui. Hoặc khi đang đi, một vấn đề khi trước chưa thông, bỗng dưng tâm sáng ra mình hiểu được, lúc ấy vui không? Rất vui, do giác ngộ mà vui. Cái vui đó có nhọc nhằn tốn hao gì đâu, càng vui trí tuệ càng sáng. Cái vui đó đưa chúng ta đến chỗ an lạc hoàn toàn vì đó là cái vui của giác ngộ giải thoát. Ngày xưa các vị Thiền sư ngồi tu, đến khi bừng ngộ, các ngài rất hoan hỉ, do giác ngộ mà hoan hỉ. Như vậy cái vui của người tu khác với cái vui của người đời. Người đời lấy mê lầm cho là vui, người tu do giác ngộ mà vui.

Thêm nữa, người đời vui trong ràng buộc. Ràng buộc là sao? Là thương yêu, quyến luyến. Thí dụ như bà nội có một đứa cháu nội, nó chạy theo nắm tay bà nũng nịu, bà có vui không? Hoặc đứa cháu ngoại chạy theo nói ríu rít đủ điều, bà có thương không? Càng vui, càng thương, càng phải lo nhiều. Vì thương cháu quá, nên lo cho nó ăn ngon, mặc đẹp… lo hết con tới cháu, lo hoài đến ngày nhắm mắt cũng chưa xong. Vui như vậy là vui trong ràng buộc.

Lại nữa, người nào được nhiều người thương, người đó vui không? Thấy mình được thiên hạ quí trọng, kính nể, lúc đó là vui. Nhưng một người thương là một sợi dây trói buộc, hai người thương là hai sợi dây, mười người thương là mười sợi dây… thương nhiều thì gỡ khó. Vậy mà người ta vui khi được thiên hạ thương, được thiên hạ chú ý, quí mình như ngọc như ngà v.v… Do đó, người đời càng vui thì càng đắm mình trong sự trói buộc, trói buộc trong tình thương gia đình, tình thương những người chung quanh v.v… càng thương nhiều thì càng bị buộc nhiều!

Ngược lại người tu, nhất là người tu Phật, vui là khi giải thoát. Những gì ràng buộc, làm cho mình bị rối rắm, phải cắt bỏ nó đi. Cắt bỏ được một mối là vui mừng một mối. Cắt bỏ đây không có nghĩa là bỏ chồng bỏ con… mà cắt bỏ là bỏ những tình thương không lợi ích, gây thêm tai hại cho mình. Thí dụ người đó với mình không phải thân thuộc, mà họ nói những lời ngọt ngào, những lời thương yêu rồi mình tưởng họ thương thật, tự nhiên mình tự trói mình rồi khổ. Ở thế gian có những lời nói không đúng với tâm niệm, họ nghĩ một đàng mà nói một nẻo để cầu lợi, để nắm giữ những gì họ thích. Mình phải biết rõ những lời nói đó không thật, đừng để bị cột trói. Tình thương chân thật nhất là tình thương cha mẹ với con cái, mà có khi còn phai nhạt, còn gặp những đứa con bất hiếu thay! Huống nữa là những người ngoài chắc gì họ thương mình thật. Nghe họ nói thương, mình vui mừng thích thú, e rằng có ngày sẽ phải khổ. Vì vậy những tình cảm thương yêu quyến luyến vô tình trói cột làm cho mình phải khổ. Người tu lấy sự giải thoát làm vui, không thể bị trói buộc bởi những tình cảm riêng tư và những ngũ dục bên ngoài.

Người đời nghĩ rằng cuộc đời mình phải được an vui hạnh phúc, nhưng từ thuở nhỏ cho đến hiện nay năm mươi, bảy mươi tuổi, quí vị thấy đời mình vui nhiều hay khổ nhiều? Khổ nhiều! Vì sao mình muốn vui mà lại khổ? Vì mình muốn vui mà vui trên cái khổ của người khác, cho nên người khác cũng muốn vui mà vui trên cái khổ của mình. Vì sát phạt lẫn nhau để được vui, nên cái vui đó khó vẹn toàn. Những người từ sòng bạc đi ra đâu phải ai ai cũng đều hớn hở. Trong mười người, độ hai người vui mừng, còn tám người thì âu sầu đau khổ. Như vậy tại sao người ta cứ đến sòng bạc mãi? Tám lần khổ chỉ có hai lần vui. Có khi đủ cả mười lần khổ là khác!

Ở đời nếu chúng ta tìm vui trong sự thắng người, trong cảnh nhộn nhịp v.v… thì cái vui đó chỉ là tạm bợ mong manh, không lâu bền được. Chúng ta phải tìm những niềm vui chân thật ở đạo, vui khi thắng mình, lìa được những tật xấu, vui khi được ở chỗ yên tĩnh, tâm hồn an ổn, vui khi được tỉnh giác, thoát ly những buộc ràng. Nếu sáng suốt chúng ta tìm cái vui chân thật, thì cái vui ấy sẽ lâu dài bền bỉ, còn mê lầm chúng ta đuổi theo những cái vui giả dối thì vui ít mà khổ nhiều. Mong rằng quí vị luôn luôn sáng suốt để được an vui hạnh phúc mãi mãi.

Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi đọc bốn câu kệ sau đây dùng làm kim chỉ nam cho quí vị trong năm mới:

Nguồn vui mãi vô tận,
Khi nhìn ánh nguyệt chân.
Nơi nơi đều cực lạc,
Phút phút hiện chân thân.

Nguồn vui mãi vô tận, là nguồn vui nào?

Khi nhìn ánh nguyệt chân: Khi nhìn thấy mặt trăng thật, là mặt trăng nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói mặt trăng thật và mặt trăng thứ hai, chúng tôi nói thêm nữa là bóng mặt trăng. Mặt trăng chân thật chỉ Tâm thể bất sanh bất diệt của mình, mặt trăng thứ hai chỉ cái chân thể đó hiện nơi sáu căn, còn bóng mặt trăng là chỉ ý thức duyên với pháp trần. Muốn được nguồn vui vô tận là khi nào chúng ta thấy được mặt trăng chân thật. Khi ấy thì thế nào?

Nơi nơi đều cực lạc: Nơi nào cũng cực lạc, không phải chỉ riêng cõi Tây phương.

Phút phút hiện chân thân: Phút nào cũng hiện thân chân thật.

Chúng tôi xin chúc tất cả quí Phật tử sang năm Mậu Thìn được một nguồn vui vô tận, khi nhìn thấy mặt trăng thật, nơi nào cũng là cực lạc, giờ nào cũng là Niết-bàn. Đó là lời chúc lành của chúng tôi gởi đến quí vị.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.