Phật hỏi A Nan: Hôm nay tại sao đầu ông dao động? A Nan thưa: Con thấy hào quangbáu của Như Lai phóng đến bên trái bên phải của con, con nhìn theo hai bên nên đầu tự dao động. Phật hỏi: Ông nhìn hào quang Phật soi bên trái bên phải nên đầu dao động, thế là đầu ông động hay cái thấy động? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Đầu con tự động, tánh thấy của con còn chẳng dừng, huống là dao động. Phật khen: Đúng thế!
Khi ấy, Như Lai bảo khắp đại chúng rằng: Nếu như chúng sanh nhận lấy cái dao độnggọi là trần, nhận lấy cái dao động gọi là khách. Các ông xem A Nan, đầu tự dao động cái thấy không động. Lại xem ta, tay tự xòe nắm, cái thấy không xòe nắm. Tại sao hôm nay các ông lấy động làm thân, lấy động làm cảnh, từ thủy đến chung niệm niệm sinh diệt, quên mất chơn tánh làm việc điên đảo, tâm tánh đã mất chơn, nên nhận vật làm mình, ở trong luân hồi tự chịu lưu chuyển. (Kinh Lăng Nghiêm cuối quyển 1 Hán tự).
Qua đoạn kinh này, chúng ta nhận thấy thâm ý Phật muốn chỉ cho Ngài A Nan và đại chúng biết: Ngoại cảnh biến động sanh diệt như bàn tay Phật xòe nắm, thân này dao động vô thường như đầu Ngài A Nan xoay qua lại. Chỉ có cái thấy, xem thấy cảnh biến động mà không bị biến động, tựa nơi đầu dao động mà không bị dao động. Cái biến động và dao động là vô thường hư giả, tại sao chúng ta nhận nó làm thật thân mình, làm thật cảnh của mình? Trái lại, cái thấy biết chưa từng dao động là chơn thật vô sanh, mà chúng ta lại bỏ quên nó, để cam chịu lưu chuyển luân hồi.
Lại cũng một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm:
Vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật: Con xưa chưa từng nghe sự chỉ dạy của Phật, gặpCa Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói: “Thân này sau khi chết không còn gì nữa, gọi là Niết Bàn”. Nay con tuy gặp Phật vẫn còn hồ nghi “Làm sao phát huy chứng biết chỗ tâm này chẳng sanh chẳng diệt?”. Đại chúng ở đây, những người còn trong hàng hữu lậu, thảy đều thích được nghe. Phật hỏi: Đại vương! Nhục thân hiện tại của ông là đồng kim cang thường trụ chẳng hoại hay là biến hoại? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay trọn theo biến diệt. Phật bảo: Đại vương! Ông chưa từng diệt làm sao biết nó diệt? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thân biến hoại vô thường của con tuy chưa từng diệt, song con xem hiện tiền niệm niệm đổi dời luôn luôn chẳng dừng, như lửa tàn thành tro dần dần tiêu mất, mất hết không dừng, nên biết thân này sẽ theo tiêu diệt. Phật bảo: Đại vương! Đúng thế. Nay ông đã già, đi theo suy yếu, nhan mạo đâu giống lúc còn trẻ?. Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thuở xưa con còn trẻ, da dẻ tươi nhuận, đến lúc trưởng thànhkhí huyết sung mãn, nay con già cả suy yếu, hình sắc khô khan, tinh thần mờ tối, tóc bạcmặt nhăn không còn bao lâu sẽ chết, làm sao sánh được với lúc sung thạnh? Phật bảo: Đại vương! Hình dung của ông đâu lẽ già liền? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Nó thầm biến hóa đổi dời, thật con chẳng biết, nóng lạnh đổi thay dần dần đến như thế. Vì sao? Khi con 20 tuổi tuy nói niên thiếu, nhan mạo đã già hơn lúc 10 tuổi, đến 30 tuổi lại suy hơn 20 tuổi, nay đã 62 tuổi, xem lại thuở 50 tuổi rõ ràng cường tráng. Bạch Thế Tôn! Sự thầm đổi dời tuy đặt thời hạn 10 năm, song con suy xét kỹ nó biến đổi đâu những 10 năm 20 năm, mà thật dời đổi từng năm; đâu chỉ từng năm, mà dời đổi từng tháng, đâu những từng tháng mà dời đổi từng ngày. Suy xét chín chắn tế nhị hơn thì khoảng mỗi sát na, mỗi niệm đổi dời. Vì thế, biết thân con trọn theo biến diệt, Phật bảo: Đại Vương! Ông thấy sự biến hóa đổi dời chẳng dừng, ngộ biết thân ông tiêu diệt; cũng chính khi diệt đó, ông biết trong thân có cái chẳng diệt chăng? Vua chấp tay bạch Phật: Thật con chẳng biết. Phật bảo: Nay tôi chỉ cho ông biết cái tánh sanh chẳng diệt. Đại Vương! Ông khi mấy tuổi được thấy sông Hằng? Vua thưa: Khi con được 3 tuổi, mẹ bồng đi yết kiến Kỳ Bà Thiên sang ngang sông này, khi ấy là biết sông Hằng. Phật bảo: Đại vương! Như ông đã nói, 20 tuổi già hơn 10 tuổi, cho đến 60 tuổi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi dời, ắt khi ông 3 tuổi thấy sông Hằng, đến năm 13 tuổi thấy sông Hằng, cái thấy ấy thế nào? Vua thưa: Như lúc 3 tuổi rõ ràng không đổi, cho đến hiện nay 62 tuổi vẫn không có khác. Phật bảo: Nay ông tự lo tóc bạc mặt nhăn, quyết định mặt nhăn hơn lúc còn trẻ, song hiện nay ông thấy sông Hằng cùng với cái thấy sông Hằng thuở xưa có trẻ có già chăng? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Không. Phật bảo: Đại vương! Mặt ông tuy nhăn, song tánh thấy của ông chưa từng nhăn; nhăn thì biến đổi, chẳng nhăn thì không biến dổi; biến đổi thì bị sanh diệt, cái không biến đổi vốn không sanh diệt. Tại sao ở trong ấy chịu sanh tử với ông, mà ông dẫn lời Mạc Dà Lê… đều nói thân này sau khi chết là diệt hết?… (Kinh Lăng Nghiêm đầu quyển 2 Hán tự).
Đọc đoạn kinh này, chúng ta thấy Phật chỉ rõ ràng ngay nơi thân này cái nào sanh diệt, cái nào chẳng sanh diệt. Thân là dòng biến động thay đổi từng phút giây, tức là vô thường hoại diệt. Tánh thấy xưa nay chưa từng thay đổi thì làm gì có hoại diệt. Nói tánh thấy là chỉ cái thấy biết thường xuyên nơi mắt chúng ta, khi chưa hợp tác với niệm thứ hai để so sánh đẹp xấu hơn kém. Cho đến mắt chúng ta mở hay nhắm, nó cũng luôn luôn hiển lộ. Nó không lệ thuộc hoàn toàn vào mắt, cơ quan mắt tốt thì nó hiện sáng tỏ, cơ quan mắt xấu thì nó hiện lu mờ, cho đến cơ quan mắt hoại nó cũng không bị hoại theo. Đó là đặc tính chẳng sanh chẳng diệt của nó vậy.
Chẳng những thực thể chẳng sanh chẳng diệt hằng biểu lộ ở mắt, mà ở tai nó cũng có mặt luôn luôn . Cũng kinh Lăng Nghiêm có đoạn:
… Phật bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông, hỏi A Nan: Hiện giờ ông nghe chăng? A Nan và đại chúng đồng thưa: Chúng con nghe. Tiếng chuông bặt dứt, Phật lại hỏi: Hiện giờ các ông nghe chăng? A Nan và đại chúng đồng thưa: Chẳng nghe. La Hầu La lại đánh một tiếng chuông, Phật hỏi: Hiện giờ các ông nghe chăng? A Nan và đại chúngđồng đáp: Nghe. Phật hỏi A Nan: Ông tại sao nghe, tại sao chẳng nghe? A Nan và đại chúng đồng bạch Phật: Nếu đánh tiếng chuông thì chúng con được nghe, đánh lâu tiếng bặt âm vang dứt hết thì gọi là không nghe.
Phật lại bảo La Hầu La đánh chuông, hỏi A Nan: Hiện giờ có tiếng chăng? A Nan và đại chúng đồng thưa: Có tiếng. Đợi giây lâu tiếng bặt, Phật lại hỏi: Hiện giờ có tiếng chăng? A Nan và đại chúng đáp: Không tiếng. Giây lát La Hầu La lại đánh chuông, Phật hỏi: Hiện giờ có tiếng chăng? A Nan và đại chúng đồng đáp: Có tiếng. Phật hỏi A Nan: Ông nói thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng? A Nan và đại chúng đồng bạch: Nếu đánh chuông thì gọi có tiếng, đánh lâu tiếng bặt âm vang dứt hết thì gọi không tiếng. Phật quở A Nan và đại chúng: Hôm nay tại sao các ông tự nói rối loạn?
Đại chúng và A Nan đồng thời hỏi Phật: Thế nào hôm nay chúng con nói rối loạn? Phật bảo: Tôi hỏi các ông nghe thì các ông đáp nghe, tôi hỏi các ông tiếng thì các ông đáp tiếng. Chỉ nghe với tiếng mà đáp không nhất định. Tại sao như thế chẳng gọi là rối loạn?
Nầy A Nan! Tiếng bặt không còn âm vang ông nói không nghe, nếu thật không nghe thì tánh nghe đã diệt, giống như cây khô, lại đánh tiếng chuông thì ông làm sao mà biết? Biết có, biết không chính là thinh trần (tiếng) hoặc có, hoặc không, đâu phải tánh nghe kia là có, là không. Nếu tánh nghe thật không thì ai biết nó không? Thế nên, A Nan! Tiếng ở trong tánh nghe tự có sanh diệt, chẳng phải tánh nghe của ông do có tiếng, không tiếng mà nó thành có, thành không. Ông còn điên đảo nhận lầm tiếng làm cái nghe, đâu còn lạ gì chẳng mê lầm cho cái thường làm đoạn. Trọn không nên nói lìa các thứ động tịnh, không bít mà bảo không có tánh nghe… (Kinh Lăng Nghiêm cuối quyển 4 Hán tự).
Đây là cái mê lầm chung của toàn thể chúng ta, nhận tiếng làm cái nghe, nhận hình tướng làm cái thấy. Có tiếng gọi là có nghe, không tiếng gọi là không nghe. Có hình tướng gọi là có thấy, không hình tướng gọi là không thấy. Nghe, thấy là cái giác tri của chính mình, hình tướng và âm thanh là trần cảnh bên ngoài. Nhận lầm trần cảnh là mình, trách gì không mất mình và trôi lăn theo cái sanh diệt mãi mãi. Đó là bằng chứng hiển nhiên để thấy chúng ta đang bị vô minh điên đảo. Nếu ngay nơi đây mà chúng ta không chịu thức tỉnh, phát minh tánh chơn thường chẳng hoại, không biết bao giờ ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Đánh thức mọi người giác ngộ thể tánh Chơn thường của chính mình, âu cũng là mục đích chung của chư Phật. Kinh Pháp Hoa có đoạn:
… Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật! Chư Phật tùy nghi nói pháp ý thú khó hiếu. Vì cớ sao? Vì ta dùng vô số phương tiện các thứ nhơn duyên lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp. Pháp ấy không phải do SUY NGHĨ PHÂN BIỆT hay hiểu, chỉ có chư Phật mới hay biết đó. Vì cớ sao? Vì chư Phật Thế Tôn chỉ do một ĐẠI SỰ NHƠN DUYÊN mà hiện ra đời.
Xá Lợi Phất! Thế nào nói chư Phật Thế Tôn chỉ do một ĐẠI SỰ NHƠN DUYÊN mà hiện ra đời? Vì chư Phật Thế Tôn muốn chúng sanh MỞ TRI KIẾN PHẬT khiến được thanh tịnh mà hiện ra đời, muốn chúng sanh NGỘ TRI KIẾN PHẬT mà hiện ra đời, muốn chúng sanh NHẬP TRI KIẾN PHẬT mà hiện ra đời.
Xá Lợi Phất! Đó là chư Phật chỉ do một ĐẠI SỰ NHƠN DUYÊN nên hiện ra đời… (Kinh Pháp Hoa phẩm Phương Tiện).
Yếu chỉ chư Phật không có hai, duy dẫn đường chúng sanh vào TRI KIẾN PHẬT. Tri kiến Phật tức là cái thấy biết Phật, sẵn có nơi chúng ta. Chúng ta thấy nhơn nơi sắc tướng, sắc tướng mất, nói không thấy. Biết nhơn trần cảnh, trần cảnh không, nói không biết? Ai thấy sắc tướng mất mà nói không thấy? Ai biết trần cảnh không mà nói không biết? Quả tang chúng ta quên mất chúng ta một cách đáng thương. Mỗi hôm, sáng ra vừa mở mắt, chúng ta đã đặt sẵn bao nhiêu vấn đề phải giải quyết trong ngày nay. Đến tối ăn cơm xong, lên giường nằm kiểm điểm lại đã giải quyết được mấy vấn đề, còn cặn lại và thêm những vấn đề mới ngày mai phải giải quyết. Cứ thế mãi, ngày nay ngày mai… cho đếnngày tắt thở mà những vấn đề vẫn chưa giải quyết xong. Những vấn đề là việc bên ngoài mà thiết tha giải quyết, còn chính ông chủ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề lại quên bẵng. Song ông chủ ấy lại là người không có vấn đề. Quên mình chạy theo cảnh là cái thấy biết của chúng sanh. Nhơn cảnh nhận được tánh chân thường của chính mình là cái thấy biết Phật (Tri Kiến Phật). Quên mình là mê, nhận được mặt thật của mình là giác. Chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh đó là bản hoài của chư Phật.
Chính vì đánh thức chúng sanh sống trở lại cái thấy biết Phật của mình, đừng chạy theotrần cảnh mà quên mất mình. Kỉnh Kim Cang có đoạn:
… Thế nên, Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên lìa tất cả tướng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Phật), không nên trụ nơi sắc, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên phát tâm không có chỗ trụ. Nếu tâm có trụ tức là chẳng trụ. (Kinh Kim Cang).
Tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là tâm Phật. Tâm Phật không dính mắc sáu trần, vì sáu trần là pháp sanh diệt dính mắc, pháp sanh diệt là tâm hư vọng của chúng sanh. Cho nên Bồ Tát muốn an trụ nơi tâm Phật thì không nên dính mắc sáu trần. Còn chạy theo sáu trần là còn thấy trong có tâm, ngoài có cảnh, nằm trong pháp đối đãi giả dối. Biết trần cảnh duyên hợp giả dối, dừng tâm không chạy theo nó là sống trở về tánh chơn thật tuyệt đối của mình, Đó là pháp môn bất nhị trong kinh Duy Ma Cật.
Kinh Duy Ma Cật có đoạn:
Ông Duy Ma Cật nói với các vị Bồ Tát: Các nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào: “pháp môn không hai?” Cứ theo chỗ hiểu của mình mà nói.
Bồ Tát Pháp Tự Tại nói: Các nhân giả! Sanh diệt là hai. Pháp vốn không sanh cũng không diệt, được vô sanh pháp nhẫn, đó là vào “pháp môn không hai”.
Bồ Tát Đức Thủ nói: Ngã, ngã sở là hai. Nhơn có ngã mới có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở, đó là vào “pháp môn không hai”.
Bồ Tát Văn Thù nói: Như ý tôi, đối với tất cả Pháp không nói không bàn, không chỉ không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào “pháp môn không hai”.
Ngài Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật: Chúng tôi ai cũng nói rồi, đến lượt nhân giả nói thế nào là “pháp môn không hai?”
Ông Duy Ma Cật ngồi im lặng.
Ngài Văn Thù khen: Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật vào “pháp môn không hai (Kinh Duy Ma Cật, phẩm Pháp Môn Bất Nhị).
Người đọc kinh Phật rất khó hiểu vì cách lập ngôn trong kinh. Thế thường nói hai hoặc nói một, nếu không phải một, là hai, không phải hai là một. Tại sao trong kinh nói “không hai” mà chẳng nói một? Bởi một đối hai, hai đối một, ở đây chỉ pháp thoát ngoài đối đãinên nói “không hai”. Nếu có dùng ngôn ngữ cũng vì để dẹp ngôn ngữ, như đoạn Ngài Văn Thù nói. Đến chỗ cứu cánh ấy không còn lời để diễn bày, vừa có diễn bày đều rơi vào đối đãi, chỉ ngay đó nhận được mới là người đạt đạo. Chính đó là chỗ im lặng của ông Duy Ma Cật. Nói mà không nói là mượn ngôn ngữ để dẹp ngôn ngữ, không nói mà nói là im lặng để thầm chỉ Chơn Lý Tuyệt Đối bặt hết ngữ ngôn. Đó là thái độ hai vị Bồ Tát ở cuối phẩm này.
Trong các kinh còn đầy dẫy những đoạn chỉ dạy Chơn Lý Tuyệt Đối này, chỉ e dẫn lắm thêm rườm, chúng ta hãy bước sang lãnh vực Thiền Sư.
Trước tiên là bài thuyết pháp kỳ diệu của Tổ Huệ Năng:
Sau khi khai ngộ, được Ngũ Tổ truyền y bát bảo trở về phương Nam, Tổ đi đến ngọn Dứu Lãnh bị Huệ Minh đuổi theo kịp. Tổ để y bát trên tảng đá vào rừng ẩn. Huệ Minh đến gặp y bát, song giở lên không nổi, gọi:
– Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, kkông phải vì y bát.
Tổ nghe gọi, bước ra ngồi trên tảng đá bảo:
– Nếu ông vì pháp, háy bình tâm nghe tôi nói.
Huệ Minh đứng yên lặng giây lâu
Tổ bảo:
– KHÔNG NGHĨ THIỆN, KHÔNG NGHĨ ÁC, CÁI GÌ LÀ BẢN LAI DIỆN MỤC CỦA THUỢNG TỌA MINH.
Nghe câu này, Huệ Minh liền đại ngộ.
Bài thuyết pháp ngắn, gọn này phản ảnh trung thực một sự nghiệp to tát Tổ vừa lãnh hộinơi Ngũ Tổ và đang mang nó về phương Nam. Chính đó cũng là bản hoài của chư Phật.
Bản lai diện mục là “bộ mặt thật xưa nay” của chúng ta, nó là tên khác của Đạo, củaPháp thân, của Phật tánh, của Chơn tâm… Chúng ta, có bộ mặt thật muôn đời không đổi, mà tự bỏ quên nó, bám vào thân hình tạm bợ cho là thật mình. Cái thân hình đang chấp giữ là thật mình, nó thay đổi từng phút giây, hợp tan không nhất định. Thế thì lấy gì bảo chứng cho nó là thật? Quả thực một hình tướng biến thiên, một hợp thể tạm bợ. Nó có, mà không thật có, vì luôn luôn đổi thay, còn mà không thật còn, vì hợp tan chẳng định. Nếu chấp chặt nó là ta, thật là cái ta tạm bợ làm sao! Hoặc có người biết thân này giả dối, chính cái tâm biết thiện, biết ác, biết phải, biết quấy, tốt xấu… mới thật là ta. Song cái tâm phân biệt cũng là đổi thay tạm bợ. Vì vừa dấy nghĩ về lành, về dữ thì nó đã sanh diệtrồi. Nếu buông hết mọi vấn đề đối đãi, tìm lại nó thì tung tích vắng tanh. Thế là, ta ở đâu? Mất rồi sao? Thật bối rối vô cùng, nếu chấp cái suy nghĩ làm ta. Chỉ vì chấp thân tạm bợ, tâm giả dối làm ta, nên muôn kiếp trôi lăn trong sanh diệt, gọi là luân hồi.
Ngay nơi thân tạm bợ, tâm giả dối, chúng ta nhận ra “bộ mặt thật xưa nay” của mình và sống hẳn với nó, dòng sanh diệt ngang đây liền dừng, kiếp luân hồi đến đây giải thoát. “Bộ mặt thật xưa nay” chưa từng bị sanh diệt, một thực thể không do duyên hợp, làm gì bị đổi thay, tan hợp? Nó vẫn có và thường còn mà chúng ta quên đi, gọi là vô minh, nhận ra nó không còn lầm quên nữa, gọi là giác ngộ.
Muốn chỉ “Bộ mặt thật xưa nay” cho người, không có cách kỳ diệu nào bằng câu “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?”, của Lục Tổ. Người ta cứ thắc mắc “Cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?” mà chẳng nhớ “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”, là tối quan trọng. Chính khi “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh chớ gì. Bởi khi tâm bình thường tỉnh táo, không dấy nghĩ thiện ác, phải quấy…, quả là “bộ mặt thật xưa nay xuất hiện. Vừa dấy nghĩ thiện ác… là động, là chạy theo sanh diệt, “bộ mặt thật xưa nay” bị khuất lấp mất rồi. Cho nên qua câu nóị nầy, Thượng Tọa Minh khéo thấy được “bộ mặt thật xưa nay” của mình, gọi là ngộ đạo.
Dưới đây thêm những bài thuyết pháp đơn giản bình dị mà hay tuyệt của các Thiền Sư.
“Thiền sư Tùng Thẩm (Triệu Châu) đến tham vấn Nam Tuyền (Phổ Nguyện), hỏi:
– Thế nào là đạo?
Nam Tuyền đáp:
– Tâm bình thường là đạo.
– Lại có thể nhằm tiến đến chăng?
– Nghĩ nhằm tiến đến là trái.
– Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?
– Đạo chẳng thuộc, biết chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy.
Ngay câu nói này, Sư ngộ đạo.
Đạo là tên khác của Bản lai diện mục hay Pháp thân… Nó là thực thể tuyệt đối nằm sẵn nơi tâm tánh chúng ta. Chúng ta vừa dấy niệm tìm nó, tiến đến nó là trái mất rồi. Khởi nghĩ biết nó đã rơi vào vọng giác, không nghĩ biết nó để tâm mờ mờ mịt mịt lại thuộc bệnh vô ký. Dấy tâm phán đoán phải quấy càng xa với đạo.
Câu TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO, quả thật đã vén bức màn vô minh cho mọi ngườithấy được “Bộ mặt thật xưa nay” của mình rồi. Bởi khởi tâm tìm kiếm là mất bình thường,xét đoán phải quấy là mất bình thường… chỉ tâm tỉnh táo sáng suốt mà không dấy động, mới thật TÂM BÌNH THƯỜNG. Tâm bình thường không tướng mạo, không hình dáng, thể nó thênh thang rỗng rang đồng với hư không. Thấy được tâm thể này là người đạt đạo.
*
“Thiền sư Đạo Ngộ bảo đệ tử là Sùng Tín rằng:
– Ngươi làm thị giả ta, ta sẽ chỉ tâm yếu cho ngươi.
Sùng Tín nhận làm thị giả, trải qua mấy năm mà không được chỉ dạy điều gì. Sùng Tínthưa:
– Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được Hòa Thượng chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
– Từ ngày ngươi vào đây đến nay, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu.
– Chỉ dạy ở chỗ nào?
– Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi nhận. Ngươi xá lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?
Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ giây lâu.
Đạo Ngộ bảo:
– Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu này, Sùng Tín khai ngộ”.
Đạo Ngộ nói tâm yếu tức là Nam Tuyền nói Tâm Bình Thường. Trong mọi hành động ăn cơm, mặc áo, tới lui qua lại của chúng ta đều biểu lộ tâm yếu đầy đủ. Chỉ đáng tiếc, khi ăn chúng ta chẳng chịu ăn, lại nghĩ đến các việc này, khi mặc chẳng chịu mặc lại suy các việc nọ. Chúng ta không thể sống được với tâm bình thường trong mọi hoạt động của mình. Hằng bị vọng tưởng cuốn hút qua mọi lãnh vực hoạt động của nó. Do đó cả ngày chúng ta mãi đuổi theo vọng tưởng, hết thứ này đến loại khác, không bao giờ được dừng nghỉ.
Ở đây, Thiền Sư Đạo Ngộ chỉ tâm yếu phát hiện nơi dâng trà, nhận cơm, gật đầu…, thật là bình thường đơn giản. Tâm yếu hằng hiện hữu nơi mọi hoạt động của chúng ta, mà chúng ta thông qua không chịu nhận. Bởi trong đầu óc chúng ta chứa dẫy đầy các thứ quái tượng, hiếu kỳ thì làm sao nhận được cái bình thường đơn giản này. Nói đến Tâm yếu, Đạo, Pháp thân…, chúng ta tưởng tượng phải là cái gì phi thường kỳ đặc mới được. Đâu ngờ, nó lại là cái rất giản đơn bình dị. Ném phắt mọi vọng tưởng cuồng loạn, chỉ sống với tâm thể an nhiên trong mọi hoạt động bình thường là chúng ta đạt đạo, ngộ tâm yếu. Các lượn sóng lặn hụp trên mặt biển là hiện tượng sanh diệt. Khi mọi lượn sống đều lặn yên, chỉ còn một mặt biển phẳng lì, thử hỏi cái gì là sanh diệt? Có sóng nổi lên là có hình tướng sai biệt, khi sóng lặn hết, tìm xem còn hình tướng gì? Song đến đó không thể nói không có mặt biển. Tâm thể chúng ta cũng thế, chỉ cần lặng hết mọi vọng tưởng thì thể tánh hiển bày. Thế nên vừa suy nghĩ là lấp mất thể tánh rồi.
*
“Thiền sư Hoài Hải (Bá Trượng) theo hầu Mã Tổ đi dạo vườn, bỗng có bầy chim bay qua. Mã Tổ hỏi:
– Bay đó là gì?
Hoài Hải thưa:
– Bầy vịt trời.
– Bay đi đâu?
– Bay qua mất.
Mã tổ nắm lỗ mũi của Sư vặn mạnh một cái, đau quá Sư la thất thanh.
Mã Tổ bảo:
– Sao không nói bay qua mất?
Nhơn đây Sư tỉnh ngộ.”
Tâm yếu luôn luôn hiển lộ đầy đủ nơi sáu căn, mà chúng ta không nhận thấy. Chúng tamột bề buông thả sáu cân chạy theo sáu trần. Mắt đối sắc cho là có thấy, sắc trần qua mất nói là không thấy, lệ thuộc hẳn ngoại cảnh. Sắc trần là tướng sanh diệt chợt có chợt không, cái thấy biết sắc trần có khi nào sanh diệt, mà chúng ta chỉ nhận sắc trần không nhận cái thấy. Cái thấy là hiện thân của tâm yếu, là mạng sống ngàn đời của chúng ta. Thế mà, chúng ta quên đi mạng sống của chính mình, phóng tâm đuổi theo dòng Sanh diệt của ngoại giới. Trường hợp Thiền Sư Hoài Hải cũng thế, chỉ nhớ bầy chim bay qua mất, không nhớ tánh thấy thường còn của mình. Mã Tổ nắm lỗ mũi vặn mạnh, bảo “sao không nói bay qua mất”. Sư chợt tỉnh ngộ cái không mất của mình, hay thức được giấc mê “quên mình theo vật”.
Chúng ta sống nhờ lỗ mũi hít vô thở ra, nó là sinh mạng của mình, lỗ mũi hằng có mặt thường trực ở trước chúng ta, mà chúng ta khó thấy và ít nhớ. Hằng ngày chúng ta chỉ nhớ những vấn đề: ăn, mặc, đẹp, xấu… còn hơi thở là điều tốì thiết yếu lại quên đi. Quên hơi thở tức là đã quên mạng sống của mình. Mạng sống đã quên đi thì sự sống không còn ý nghĩa của sự sống. Sống của cái chết, của cái cuồng loạn. Phật, Tổ cố đánh thứcchúng ta nhớ lại mạng sống của chính mình. Hằng sống với mạng sống của chính mình, làm gì có nghĩa chết. Như mãi còn thở ra vào, sao nói chết được. Bởi vì chết là mất đi cái sống, là dừng hơi thở. Tánh thấy hằng hiện hữu nơi chúng ta mà chúng ta không thấy, ví như lỗ mũi thường có mặt ở trước mắt mà chúng ta dễ quên. Cái nắm mũi vặn mạnh của Mã Tổ, khiến Thiền sư Hoài Hải đau la thất thanh, liền đó tỉnh ngộ, quả là diệu thuật trong nhà Thiền, cũng là một bài thuyết pháp không lời kỳ diệu.
*
“Tướng Quốc Bùi Hưu vào viếng chùa Khai Nguyên, thấy trên vách chùa có vẽ hình cao tăng, Bùi Hưu hỏi Thiền Sư Hy Vận (Hoàng Bá):
– Hình thấy tại đây, Cao Tăng ở đâu?
Sư cất giọng trong thanh gọi:
– Bùi Hưu!
Bùi Hưu:
– Dạ!
Sư hỏi:
– Ở đâu?
Bùi Hưu liền ngộ được hạt châu trên búi tóc.
Chúng ta đến thăm nhà người bạn, vừa ấn nút chuông điện ngoài cổng, liền có người mở cửa, bao nhiêu lần cũng thế. Chúng ta biết chắc chắn rằng nhà này có người gác cửa thường trực. Cũng vậy, nơi tai chúng ta nếu không có cái linh tri thường trực, khi động làm sao có phản ứng kịp thời. Ở đây vừa gọi liền đáp, không có phút giây chờ đợi nghĩ suy gì cả. Cho đến đang lúc ngủ say, bỗng có tiếng gọi to cũng giật mình thức giấc. Càng thấy rõ cái linh tri nơi tai chúng ta không khi nào vắng mặt. Chỉ khi thức, các cơ quanhoạt động thì nó sáng, lúc ngủ các cơ quan đóng bít thì nó mờ. Cái linh tri này mới thật là chủ nhơn ông hay “Bộ mặt thật xưa nay” của chúng ta. Chúng ta quên lửng ông chủ, cứ chạỵ theo khách trần, bên ngoài. Một bề quên mình theo vật, nên mãi trầm luân sanh tử. Đang lúc hoạt động lăng xăng, có người hỏi: Cái gì là ông chủ? Chúng ta bàng hoàngsửng sốt không biết đáp thế nào. Thế là, hằng ngày chúng ta nói sống vì mình, lo cho mình, mà quả thật chúng ta đã mất mình. Nếu biết rõ ông chủ của mình, chúng ta mới dám nói thật sống, bằng không biết ông chủ thế nào, làm sao nói rằng mình đang sống được. Có hoạt động có sống cũng chỉ là cuộc sống vay mượn mà thôi.
Ông Bùi Hưu thấy hình Cao tăng mà không biết Cao tăng ở đâu. Đó là tâm trạng quên mất ông chủ, đang thao thức dò tầm. Một tiếng gọi của Thiền Sư Hy Vận, dường như một tiếng sét ngang tai, khiến ông bất chợt ứng thinh “dạ”, chồng thêm một câu hỏi “ở đâu?”, hốt nhiên ông sáng mắt. Ông chủ đã lâu ông băn khoăn thắc mắc kiếm tìm, bất chợt hiện lồ lộ trước mắt. Hạt châu quý trong búi tóc của nhà vua, trong kinh Pháp Hoa, chỉ dành tặng riêng cho vị tướng quân có công to nhất, hôm nay ông nhận được. Cái cao cả quý báu nhất trong đời sống con người là ông chủ. Nhà không có chủ là nhà hoang, xác thân không nhận ra ông chủ là xác thân rỗng. Vì thế, mục đích duy nhất của Phật, Tổ là chỉ cho chúng ta nhận ra ông chủ. Ông chủ ấy hằng có mặt nơi tai, mắt… chúng ta, chỉ khéo nhận liền thấy.
*
Thiền Sư Sư Bị (Huyền Sa) ngồi trong thất, có vị tăng đứng hầu, nhìn xuống nền thất có một điểm trắng, Sư hỏi tăng:
– Ông thấy chăng?
Tăng thưa:
– Thấy.
Sư bảo:
– Ta thấy ông cũng thấy, tại sao có người ngộ người không ngộ?
Hai thầy trò đồng thấy một điểm trắng trên nền thất, tại sao thầy ngộ mà trò lại mê? Bởi vì trò thấy chỉ thấy cái bị thấy, cho nên quên mất ông chủ tức là mê. Thầy thấy mà không chạy theo cái bị thấy, nhơn cái bị thấy nhận ra ông chủ hay thấy của chính mình, tức là ngộ. Đồng một cảnh mà mê ngộ khác nhau, gốc tại quên mình theo vật hay nhơn vật nhận được mình. Ở hội Linh Sơn đức Phật đưa cành hoa sen lên, Tôn giả Ca Diếp miệng cười chúm chím, đồng ý nghĩa này. Chư Tổ Thiền Tông tận dụng mọi phương tiện, nào đưa tay, dựng phất tử., khiến người nhận được ông chủ qua cái thấy của mình.
Ngay khi thấy sự vật, tâm không bị dấy một niệm nào, chính khi ấy “bộ mặt thật xưa nay” bày hiện. Vì có thấy là có biết, cái biết không do suy nghĩ, không do phân biệt, mới là cái biết chơn thật, thoát ngoài đối đãi sanh diệt. Cái biết do suy nghĩ, do phân biệt đều là động, tạm có rồi không, làm sao nói chơn thật được. Cái suy nghĩ phân biệt lặng xuống, tánh giác tri hiện bày rỡ rỡ, đó mới thật là ông chủ muôn đời của ta. Giác tri mà lặng lẽ thì làm gì có sanh diệt. Chỗ này còn nghi ngờ gì, không nói nó chơn thật vĩnh cửu. Thế nên, mắt thấy sắc tướng mà nhận được tánh thấy của mình, là ngộ đạo, trái lại là mê.
*
Thiền Sư Cảnh Thành ngồi trong thất, có vị tăng đứng bên cạnh, Sư hỏi:
– Bên ngoài có tiếng gì?
Tăng thưa:
– Tiếng con nhái bị con rắn bắt kêu.
Sư nói:
– Sẽ bảo chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.
Hôm khác, Sư hỏi vị tăng bên cạnh:
– Bên ngoài có tiếng gì?
Tăng thưa:
– Tiếng mưa rơi.
Sư bảo:
– Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật.
– Hòa Thượng thì sao?
– Vẫn chẳng quên mình.
– Vẫn chẳng quên mình, ý nghĩa thế nào?
– Xuất thân còn là dễ, thoát thể nói rất khó.
Rắn bắt nhái đó là chúng sanh khổ, vì con lớn hiếp con bé. Song lại có khổ chúng sanh, chính là người quên mất mình chạy theo ngoại cảnh. Hằng ngày tai chúng ta chỉ lắng nghe tiếng động tịnh bên ngoài, có khi nào nhận biết mình có tánh nghe thường trực. Vừa nghe tiếng động liền phân biệt thuộc loại nào, hay dở, lợi hại, phải quấy… rồi sanh tâm yêu ghét. Cứ thế mãi không dừng, làm sao chẳng bảo là “chúng sanh điên đảo quên mình theo vật”. Chỉ có người tỉnh giác mới biết phản quang lại mình, mọi động tịnh bên ngoài đều là pháp sanh diệt, ông chủ biết được mọi động tịnh ấy mới là người chẳng sanh diệt. Vì khi động vẫn biết động, lúc tịnh vẫn biết tịnh, hai tướng động tịnh đuổi nhau, ông chủ vẫn ngồi yên xem sự đổi thay của chúng. Người biết sống trở về ông chủ của mình, mặc sự sanh diệt đổi thay của trần cảnh, là “vẫn không quên mình”. Chỗ không quên mình ấy, làm sao diễn tả được, nên nói “Xuất thân còn là dễ, thoát thể nói rất khó”.
Tai nghe tiếng mà không chạy theo phân biệt tiếng, lại nhận nơi mình hằng có tánh nghe, là pháp tu “Phản văn văn tự tánh” của Bồ Tát Quán Thế Âm. Âm thanh nhỏ lớn xa gầnlúc nào cũng có, tánh nghe thường hằng nên mới thường nghe. Nếu tánh nghe có gián đoạn, ắt chúng ta có khi nghe khi không. Song không khi nào chúng ta chẳng nghe, dù khi không có tiếng động vẫn nghe không tiếng. Đây là chứng cớ cụ thể, tánh nghe thường trực nơi mọi người chúng ta. Trong các phương pháp tu “trở về tự tánh”, biết phản chiếu lại tánh nghe của mình là ưu việt hơn cả. Cho nên trong kinh Lăng Nghiêmđức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù chọn phương pháp nào viên thông, Ngài chọn ngay pháp “nhĩ căn viên thông” của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Thiền Sư có đến ngàn vạn phương tiện, lãnh hội một thì tất cả đều thông. Sau khi thông lý tuyệt đối, có giá trị thế nào?
Bởi vì tất cả chúng ta đều trông thấy mọi lẽ tạm bợ của cuộc đời, khiến khát khao tìm kiếm hướng về chỗ trường cửu miên viễn. Song nói đến chỗ này, dường như mọi ngườiđều thở dài tự nhận là vô phần. Hầu hết đều bó tay cúi đầu trước thực thể bất sanh bất diệt ấy. Khao khát ước mơ mà không thể tìm được, không dám mò tới, thực là đau đớnvô cùng. Một khi bất ngờ bắt gặp được nó thì còn gì sung sướng cho bằng. Chính tâmtrạng Tôn giả Xá Lợi Phất v.v… ở trong kinh Pháp Hoa cũng thế. Từ khi tu hành cho đếnnay, các Ngài chỉ mong được quả Nhị thừa, không khi nào dám ước mơ đến Phật quả. Bất ngờ được đức Phật thọ ký cho sẽ thành Phật, thực là một điều quá sức ước mong. Nói thí dụ chàng cùng tử được ông trưởng giả trao sự nghiệp để bày tỏ tâm trạng của các Ngài. Thiền sư Thủy Lạo nói với đồ đệ: “Từ khi ăn cái đạp của Mã Tổ đến giờ, cười mãi không thôi”. Thiền sư Huệ Hải cũng nói: “Từ khi nhận được kho báu nhà mình đến nay, dùng mãi không thiếu”. Cười mãi không thôi, vì hạt châu vô giá bị đánh mất, bất chợt tìm thấy nắm được trong tay, kể từ đây hết rồi một kiếp lang thang nghèo đói. Dùng mãi không thiếu, vì nó là kho báu vô tận, ứng dụng tùy tâm, nên gọi là “bảo châu như ý”. Có được hạt bảo châu như ý trong tay, tự thân mọi nhu cầu đều toại nguyện, còn thêm tùy ý cứu giúp tha nhân. Thực là tự lợi, lợi tha viên mãn.
Hạt “Minh châu vô giá” hay “Bảo châu như ý”, đều do đức Phật lấy làm thí dụ để chỉ thể tánh tuyệt đối nàỵ. Bởi vì mạng sống là cứu cánh của chúng sanh, mạng sống càng dài thì giá trị càng cao. Cho nên ở thế gian không ơn gì to bằng ơn cứu mạng. Chì cần được cứu sống thêm một vài mươi năm, người ta cho đó là ơn sâu trời bể. Đạt được thể tánhnày, là nhận lấy sinh mạng trường tồn miên viễn, vượt ngoài vòng thời gian, không còn dùng con số nào tính kể được. Đức Phật dùng thí dụ “điểm mực” nơi phẩm Như Lai Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa là nói rõ ý này. Đem thế giới tam thiên nghiền thành bụi nhỏ, lấy bụi ấy làm mực, đi sang phương đông trải qua trăm ngàn muôn ức thế giới mới điểm một điểm mực…, gom hết những thế giới có điểm mực không điểm mực đã đi qua, nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi tính là một kiếp, thử tính tuổi thọ Phật là bao nhiêu? Dù có nhà toán học tài tình mấy cũng không sao tính nổi tuổi thọ của Phật. Phật ở đây là chỉ Phật pháp thân, tức là thực thể tuyệt đối sẵn có nơi mọi chúng sinh vậy.
Thực thể này không những vượt ngoài thời gian, mà cũng bao trùm khắp không gian. Kinh Hoa Nghiêm đức Phật dùng thí dụ “phá vi trần xuất kinh quyển”, đế nói lên thể rộng lớn của nó. Nói rằng “Có một quyển kinh lượng bằng thế giới tam thiên đại thiên, vò tròn nhét trong hạt bụi nhỏ, có người trí huệ xem biết, dùng phương tiện đập vỡ hạt bụi lấy quyển kinh. Trong quyển kinh ghi chép đầy đủ mọi sự thật của thế giới tam thiên đại thiên…”. Quyển kinh dụ thể tánh tuyệt đối hay Phật tánh, hạt bụi dụ thân tứ đại của chúng sinh. Muốn biết mọi sự vật trong vũ trụ, không gì hơn ngay nơi thân này nhận rathể tánh tuyệt đối, mọi sự thật hiện bày đầy đủ trong ấy. Có ai ngờ trong hạt bụi nhỏ lại chứa quyển kinh to như thế, chỉ người trí huệ (Phật) mới nhận thấy được nó. Chúng takhông khi nào dám thừa nhận mình có thể tánh rộng lớn trùm khắp vũ trụ, mà hằng tự nhận mình như cây lau, cây sậy trên địa cầu, như hạt cát trong bãi sa mạc. Vì thế, đọc Kinh Duy Ma Cật thấy nói “Ông Duy Ma Cật đưa tay nắm thế giới dời di nơi khác…”, làm sao chúng dám tin. Tôn giả A Nan sau khi ngộ được chơn tâm, bạch Phật rằng “Con xem thân cha mẹ sanh (so với chơn tâm) như hạt bụi trong hư không, như hòn bọt ngoài bể cả… (Kinh Lăng Nghiêm). Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền Sư Việt Nam, có vị tăng hỏi: “Sanh tử là việc lớn làm sao giải quyết?”. Thượng Sĩ đáp: “Trong hư không dài có chướng gì hai vành xe, ngoài bể cả có ngại gì hòn bọt nổi”. Ý nói rằng, sự sanh tử của thân này đối với pháp thân như hai vành xe ném trong hư không, như hòn bọt nổi trong bể cả, có nghĩa lý gì mà quan trọng. Hạt bụi sánh với hư không, hòn bọt so với bể cả, giá trị quá rõ ràng, nên nói “viên ngọc vô giá”.
Sống được với thể tánh này thì diệu dụng vô cùng, lợi mình lợi người viên mãn. Hằng ngày chúng ta chỉ sống với vọng tưởng, mà còn có trăm ngàn tác dụng, tạo ra trăm điều ngàn việc. Phương chi sống với thể tánh linh minh thì diệu dụng làm sao lường được. Căn cứ hiện tượng thế gian phán xét, để thấy rõ điều này. Trên thế gian cái gì càng thô thì dụng càng yếu, cái gì càng tế thì dụng càng mạnh. Như đất thể thô hơn nước, nên bị nước cuốn; nước thể thô hơn gió, nên bị gió đùa. Sức mạnh của gió làm tan cả đất, cuộn phăng cả nước mà không thấy hình dáng tướng mạo gì. Sức mạnh của nguyên tử, của khinh khí cũng tương tợ như thế. Vọng tưởng là tướng tâm duyên theo pháp trần, nên có tướng mạo. Khi tâm ta tưởng quả núi, liền có quả núi hiện nơi tâm, tâm nhớ người liền có người hiện… Dấy tâm thì có cảnh, tâm cảnh dính liền nhau. Tâm không rời cảnh, đó là tâm hư vọng cũng gọi là vọng tưởng. Cảnh có đến ngàn vạn nên tâm duyên cảnh cũng cả trăm thứ. Có tướng mạo là tâm thô, chia nhiều thứ là bị phân tán. Tâm thô và phân tán nên công dụng của nó yếu ớt tầm thường. Khi vọng tưởng đã lặng sạch, chỉ còn một tâm thể linh minh, không hình dáng tướng mạo, nên ứng dụng vô cùng. Đến chỗ này gọi là “diệu dụng không thể nghĩ bàn”. Bởi diệu dụng không thể nghĩ bàn, nên dụ là Bảo Châu Như Ý. Nắm hạt châu này trong tay thì mọi việc đều như ý, tức là mãn nguyện tự tại. Một bên công dụng tầm thường cuộc hạn, một bên diệu dụng không thể nghĩ bàn tự do tự tại, đối chiếu nhau chúng ta thấy rõ giá trị sai biệt của đôi bên rồi.
Chơn lý tuyệt đối không có ở bên ngoài, mà nằm sẵn ngay nơi chúng ta. Chúng ta muốn tìm nó, phải biết quay lại mình, dừng chạy ra ngoài tìm kiếm vô ích. Chân lý tuyệt đối nơi mình chính là ông chủ của mình, nhận ra ông chủ thì mọi chân lý trong vũ trụ đều thấy rõ. Nhận ra và sống được với ông chủ của mình thì vòng luân hồi chấm dứt, mọi khổ đau hết sạch, được giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
BBT TVHS chân thành cảm ơn đạo hữu Thùy Thu đã rà soát và đánh máy bổ túc phần thiếu (từ đoạn Chân Lý Tuyệt Đối đến cuối bài)